Cách ngắt nhịp bài thơ Tre Việt Nam

Trang Chủ Diễn Đàn > Thư Viện Điện Tử > Data & Ebook > Học Tập >

Nghệ thuật đặc sắc trong bài thơ Tre Việt Nam của nhà thơ Nguyễn Duy.

Bài làm

Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc. Các tập thơ: Cát trắng, ánh trăng [giải thưởng văn học về thơ 1984] của Nguyễn Duy đã ghi nhận những thành công bước đầu của nhà thơ. Bài Tre Việt Nam nằm trong tập Cát trắng được giải thưởng báo Văn nghệ 1972-1973 đã gây nhiều ấn tượng cho người đọc bởi nghệ thuật đặc sắc và sáng tạo của nhà thơ.

Bằng hình tượng thơ gợi cảm và có chiều sâu triết lí, Qua, hình ảnh “tre xanh” ngàn đời, tác giả đã thành công trong việc miêu tả tính cách của người Việt Nam .

Bao trùm bài thơ là giọng điệu trữ tình. Bài thơ Tre Việt Nam được làm theo thể thơ lục bát quen thuộc. Tuy nhiên có “câu lục” ở phần đầu và phần cuối có ít nhiều thay đổi nhưng vẫn không ngoài mục đích tăng tính trữ tình cho bài thơ. Câu lục mở đầu bài thơ được ngắt ra làm hai dòng thơ gây sự chú ý về hình ảnh tre xanh:

Tre xanh xanh tự bao giờ?

Nếu để nguyên câu lục: tre xanh xanh tự bao giờ? thì sự chú ý sẽ bị giảm đi rất nhiều bởi nhịp điệu dàn trải 2/2/2 của câu thơ, không gây ấn tượng với người đọc. Tương tự như vậy, câu lục cuối bài đã tách ra làm ba dòng thơ để làm nổi bật dòng chảy của thời gian là bất tận. Và câu bát vẫn được giữ nguyên nhịp điệu 2/2/2/2 kéo dài với ba điệp từ xanh khẳng định vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh sắc quê hương, sức sống mãnh liệt của dân tộc là vĩnh hằng, là muôn thuở như màu xanh của tre:

Mai sau

Mai sau

Mai sau

Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh.

Nghệ thuật ngắt nhịp trong một số câu 6 thành 2 nhịp lẻ 3/3 đã làm cho giọng thơ, nhịp điệu biến đổi đầy tính thẩm mĩ:

-     Thân gầy guộc lá mong manh

-     Có gì đâu / có gì đâu

-    Năm qua đi / tháng qua đi.

Cách ngắt nhịp lẻ ấy, lúc thành hai vế biến đổi, lúc lại lấy lại vần thơ để gây ấn tượng và cảm xúc về nhạc tính, về âm điệu trữ tình thiết tha.

Nghệ thuật nhân hoá đã góp phần làm cho thơ của Nguyễn Duy có chiều sâu triết lí: Tre đã trở thành biểu tượng cho đức tính tốt đẹp của nhân dân ta, cho sức sống mãnh liệt của dân tộc trên mọi chặng đường lịch sử. Với sự cần cù, siêng năng, chịu khó, ham sống, sống mạnh mẽ, lạc quan, yêu đời hàng loạt các hình ảnh nhân hoá hồn nhiên, ý nhị gợi cho ta những liên tưởng thấm thía: Tre đu, Tre hát, Tre yêu nhiều, không đứng khuất mình...

Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh,

Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm

Câu thơ giàu chất triết lí nhưng vẫn rất thơ. Có trời “xanh” nên mới có “tre xanh”. Cũng như nhân dân ta giàu chí khí, có tinh thần tự lập, tự cường nên tre xanh không đứng khuất mình bóng râm. Câu thơ khẳng định một tâm thế cao quí của dân tộc ta.

Tả tre trong bão bùng thử thách. Hàng loạt hình ảnh nhân hoá sống động, thấm đậm tình người: tay ôm, tay niu, thương nhau tre chẳng ở riêng, có manh áo cộc tre nhường cho con. Phải chăng đó là tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau, biết sẻ chia trong một cộng đồng! Vậy thì nhà thơ đang nói tre hay nói chính con người Việt Nam, về đạo lí làm người.

Đạo lí làm người là lòng trung hiếu, tình yêu nước thương nhà đã trở thành cái gốc của dân tộc ta và được ông cha truyền lại cho muôn dời con cháu. Nhà văn không nói thẳng ra mà lại ý nhị gửi gắm qua hình tượng tre với một lối tư duy nghệ thuật độc đáo:

Chẳng may thân gãy cành rơi vẫn nguyến cái gốc truyền đời cho măng

Lại nói đến “măng” tre vẫn lối tư duy dộc đáo và mới mẻ, nhà thơ đã ví măng với mũi chông nhọn hoắt:

Nòi tre đâu chịu mọc cong

Chưa lên đã thẳng như chông lạ thường.

Một hình ảnh so sánh tuyệt đẹp gợi liên tưởng cho người đọc, đó chẳng phải là nhà văn đang ca ngợi chí hiên ngang, tinh thần bất khuất của triệu triệu thế hệ con người dũng mãnh như cả rừng măng, rừng chông nhọn hoắt đang thách thức với kẻ thù? Câu thơ có chất trí tuệ nhưng vẫn không mất đi chất trữ tình, vẫn phảng phất đâu đó “hồn” cạ dao.

Tre và măng lại được nhân hoá, ca ngợi mẫu tử, tình thâm. Người cũng như tre: hồn hậu, giàu đức hy sinh:

Lưng trần phơi nắng phơi sương

Có manh áo cộc tre nhường cho con

Lòng mẹ Việt Nam được nói đến đậm đà, sâu sắc và cảm động quá!

“Măng” lại tiếp tục được nhân hoá: lớp măng con tượng trưng cho thiếu niên nhi đồng Việt Nam. Các em là tinh hoa dân tộc, xứng đáng kế tục sự nghiệp của cha ông:

Năm qua đi, tháng qua đi

Tre già măng mọc có gì lạ đâu.

Tre già măng mọc là một câu tục ngữ quen thuộc đã trở thành biểu tượng của thế hệ trẻ - tương lai của đất nước. Mỗi nhà văn lại có cách thể hiện khác nhau. Măng mọc trên phù hiệu ờ ngực của thiếu nhi Việt Nam - lứa tuổi măng non của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. [Thép Mới]. Mỗi cách thể hiện đều in đậm phong cách của từng nhà văn.

Trong bài thơ, nghệ thuật sử dụng điệp từ “xanh” được nhắc đi nhắc lại khẳng định cảnh sắc và sức sống mãnh liệt của quê hương, đất nước như màu xanh muôn thuở của tre.

Qua bài thơ Tre Việt Nam, ta thấy Nguyễn Duy đã thừa kế những ý tưởng truyền thống về Cây tre Việt Nam và diễn tả thành thơ bằng những nét nghệ thuật riêng của mình: cấu trúc câu thơ lục ngắt nhịp có nhiều biến đổi và có sự cách tân đáng quí. Sử dụng biến đổi hài-hoà , các biện pháp tu tứ, nhân hoá, ẩn dụ, so sánh, điêp từ, điệp ngữ được vận dụng sáng tạo để viết nên nhịp câu thơ đầy hình ảnh, nhạc điệu, đậm đà màu sắc dân gian. Câu thơ đa thanh, đa nghĩa, có lúc mang ý vị như mang những triết lí vô cùng thấm thìa: Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh”. “Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm, vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng, Tre già măng mọc có gì lạ đâu. Tần số từ “xanh” xuất hiện nhiều lần trong bài thơ cho ta thấy cái tài sử dụng ngôn từ tạo lên tính hình tượng vồ tính truyền cảm cho lời thơ đẹp. Tre Việt Nam là bài thơ hay.

Có rất nhiều bài thơ hay viết về cây tre Việt Nam nhưng ta không thể “nhầm” bài thơ Tre Việt Nam của Nguyễn Duy với các bài thơ khác. Nó sẽ cùng đồng hành với tác giả và sống mãi với thời gian.

HocTot.Nam.Name.Vn

Tập đọc TRE VIỆT NAM [ Tr 41] I. Yêu cầu : 1. Biết đọc lưu loát toàn bài, giọng đọc diễn cảm, phù hợp với nội dung cảm xúc[ ca ngợi cây tre Việt Nam ] và nhịp điệu của các câu thơ, đoạn thơ 2. Cảm và hiểu được ý nghĩa của bài thơ : Cây tre tượng trưng cho con người Việt Nam. Qua hình ảnh cây tre, tác giả ca ngợi những phẩm chất cao đẹp – con người Việt Nam giàu tình thương yêu ngay thẳng, chính trực 3. Học thuộc lòng bài thơ em thích 4. Giáo dục các em lòng tự hào về đất nước và con người Việt Nam. II. Đồ dùng dạy học : - Tranh minh hoạ trong bài - Bảng phụ viết câu, đoạn thơ còn hướng dẫn HS đọc III. Hoạt động dạy học : Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh A. Bài cũ : - 1 em đọc đoạn 1 bài Một người chính trực - 1 em đọc đoạn 3 và trả lời vì sao - Đọc và trả lời câu hỏi 1 SGK nhân dân ca ngợi những người chính trực như ông Tô Hiến Thành ? B. Bài mới : * Giới thiệu bài : Cây tre rất quen thuộc và gần gũi với mỗi người Việt Nam. Tre được dùng vào làm nhiều công việc … Tre có phẩm chất rất đáng quý, tượng trưng cho tính cách cao đẹp của con người Việt Nam. Bài thơ tre Việt Nam hôm nay sẽ giúp các em hiểu rõ điều đó. - Hướng dẫn HS quan sát tranh minh hoạ như SGK 2. Hướng dẫn HS đọc và tìm hiểu bài a. Luyện đọc - Yêu cầu HS đọc nối tiếp nhau từng đoạn thơ 2,3 lượt Đoạn 1 : Từ đầu đến nên luỹ nên thành tre ơi Đoạn 2 : Tiếp theo đến hát ru lá cành Đoạn 3 : Tiếp theo đến truyền đời cho măng Đoạn 4 : Phần còn lại - Đọc và trả lời - HS quan sát tranh. - HS đọc 2-3 lượt : 12 em - GV kết hợp giúp HS hiểu nghĩa, từ mới được chú thích cuối bài Tự, tử Áo cộc : áo ngắn - GV sửa lỗi phát âm cho HS Tre xanh, khuất mình, luỹ thành, lưng trần…. - GV hướng dẫn HS nghỉ hơi đúng, phù hợp với từng đoạn thơ, nghỉ hơi tự nhiên. Ví dụ : Yêu nhiều/ nắng đỏ/ trời xanh Tre xanh/ không đứng khuất mình bóng râm. Bão bùng/ thân bọc lấy thân Tay ôm, tay níu/ tre gần nhau thêm Thương nhau / tre chẳng ở riêng Luỹ thành từ đó mà nên/ hỡi người Chẳng may thân gãy/ cành rơi Vẫn nguyên cái gốc/ truyền đời cho măng - Yêu cầu HS luyện đọc theo cặp - Gọi 1 -2 em đọc cả bài - GV đọc diễn cảm bài thơ. Giọng nhẹ nhàng, cảm hứng ngợi ca. + Đọc câu mở bài : Tre xanh // xanh tự bao giờ ? // giọng chậm và sâu lắng, gợi suy nghĩ liên tưởng. + Nghỉ hơi ngân dài sau dấu chấm lửng ở dòng thơ, chuyện ngày xưa…// đã có bờ tre xanh. + Đoạn giữa bài các câu thơ lục bát : phát hiện của tác giả về phẩm chất cao đẹp của tre đọc giọng sảng khoái, nhấn giọng những từ ngữ khẳng định hoặc mang rõ sắc thái cảm xúc : không đứng khuất mình, vẫn nguyên cái gốc, đâu chịu mọc cong, lạ thường , có gì lạ đầu + 4 dòng thơ cuối bài, thể hiện sự kế tiếp liên tục của các điệp từ, điệp ngữ, cần đọc ngắt nhịp đều đặn ở sau các dấu phẩy kết thúc mỗi dòng thơ. Tạo ra âm hưởng nối tiếp giữa các từ ngữ như các dấu luyến trong âm nhạc Mai sau , - HS đọc theo cặp Mai sau , Mai sau , Đất xanh/ tre xanh/ Xanh màu tre xanh b] Tìm hiểu bài - Yêu cầu HS đọc thành tiếng, đọc thầm bài Hỏi : Tìm những câu thơ nói lên sự gắn bó lâu đời của cây tre với người Việt Nam ? => Tre có từ rất lâu , từ bao giờ cũng không ai biết tre chứng kiến mọi chuyện xảy ra với con người từ ngàn xưa - Yêu cầu HS đọc nối tiếp nhau. hỏi : Những hình ảnh nào của tre gợi lên những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. + Những hình ảnh nào của tre tượng trưng cho tính cần cù ? + Những hình ảnh nào của tre gợi lên phẩm chất đoàn kết của người Việt Nam - 1 em đọc thành tiếng lớp đọc thầm - Tre xanh/ xanh tự bao giờ/ chuyện ngày xưa …..đã có bờ tre xanh

Video liên quan

Chủ Đề