Cách tiếp cận phát triển chương trình giáo dục mầm non

Chương trình giáo dục mầm non là gì?

Chương trình giáo dục mầm non theo định nghĩa của Bộ Giáo dục và Đào tạo” Đây là căn cứ để triển khai và chỉ đạo công tác chăm sóc giáo dục trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non trong cả nước, đồng thời là căn cứ để đào tạo bồi dưỡng giáo viên mầm non, tăng cường cơ sở vật chất và đảm bảo các điều kiện thực hiện Chương trình Giáo dục mầm non có chất lượng”.

Chương trình giáo dục mầm non hiện nay với mục tiêu phát triển trẻ toàn diện về tri thức, thể chất, ngôn ngữ và tâm lý tình cảm xã hội. Giáo viên có nhiệm vụ giảng dạy và truyền đạt những kiến thức cốt lõi cho trẻ mầm non, đảm bảo các em có nền tảng kiến thức vững vàng trước khi bước vào lớp 1. Qua đó, ta cũng có thể thấy vai trò to lớn của giáo viên trong chặn đường đưa trẻ đến gần hơn với nền văn minh nhân loại và hòa nhập với cộng đồng.

» Xem thêm

» Thu gọn
Chủ đề:
  • Đổi mới phương pháp dạy mầm non
  • Giáo dục mầm non
  • Phương pháp giáo dục mầm non
  • Kinh nghiệm dạy mầm non
  • Dạy học mầm non

Download
Xem online

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Website hỗ trợ giảng dạy và chăm sóc trẻ em www.mamnon.com Một số cách tiếp cận về đổi mới nội dung Giáo dục Mầm non. Ts. Bùi Thị Việt- lược dịch  Đổi mới nội dung giáo dục mầm non trước hết cần chú trọng đến việc nâng cao chất lượng của nội dung, đồng thời sử dụng những phương pháp mới, cải tiến những phương pháp truyền thống. Nội dung giáo dục bao gồm rất nhiều kiến thức về các hoạt động khác nhau của trẻ, với những phương pháp, phương tiện trẻ sử dụng, các hoạt động tạo ra sản phẩm, hoạt động nhận thức,… Có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong việc chọn lựa nội dung giáo dục để giúp trẻ phát triển một cách toàn diện, đảm bảo cơ sở cho phát triển sau này.  Thứ nhất: Nội dung giáo dục phải đảm bảo tính phát triển để giúp khám phá các tiềm tàng của trẻ. Nhiều công trình đã chỉ ra rằng: Trẻ học được nhiều điều không phải chỉ từ người lớn mà còn chính ở trong quá trình hoạt động cùng với trẻ khác. Trẻ phát triển trong quá trình tiếp thu những kiến thức thực tế và sử Trẻ em hôm nay – Thế giới ngày mai
  2. Website hỗ trợ giảng dạy và chăm sóc trẻ em www.mamnon.com dụng những đồ vật khác nhau. Thế nhưng nội dung của quá trình hoạt động và hoạt động với các đồ vật của trẻ lại có giáo viên tổ chức. Vì vậy, giáo viên cần phải biết nội dung giáo dục nào, trực tiếp hay gián tiếp, giúp cho từng các nhân trẻ phát triển tốt hơn.  Thứ hai: Nội dung giáo dục cho trẻ mầm non cần phải có tính hệ thống, có nghĩa là vẫn phải đảm bảo mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng trong một hệ thống, giúp trẻ mở rộng tầm hiểu biết của mình. Cuối 5-6 tuổi, trẻ có thể nắm được kỹ năng xây dựng những hoạt động mới dựa trên hệ thống kiến thức, kỹ năng đã có. Kỹ năng đó chính là phương tiện nhận thức, giúp trẻ vượt qua khỏi được những sự vật, hiện tượng riêng lẻ xuất phát từ những cái chung, tổng thể. Trên cơ sở đó trẻ có thể xây dựng được những cái chung trọn vẹn.  Thứ ba: Tính hệ thống trong nội dung giáo dục tạo điều kiện cho giáo viên tích hợp chúng. Đối với trẻ mầm non, nhiệm vụ phát triển dựa trên sự phối hợp, hợp lý giữa kiến thức và tình cảm nhưng phù hợp với đặc điểm lứa tuổi. Thông qua việc tổ chức tích hợp nội dung giáo dục trẻ mầm non mà giáo viên có khả năng: Trẻ em hôm nay – Thế giới ngày mai
  3. Website hỗ trợ giảng dạy và chăm sóc trẻ em www.mamnon.com Không chỉ làm phong phú kiến thức, kỹ năng của trẻ - trong lĩnh vực hoạt động mà còn giữ được giá trị của từng cái riêng rẻ. Đạt được kết quả cần thiết trong thời gian tối ưu nhất. - Thứ 4: Nội dung giáo dục mầm non cần dẫn dắt trẻ làm quen với cả văn hóa của dân tộc mình và văn hóa của các dân tộc khác. Cho trẻ làm quen với phong tục, tập quán quê hương…. Ta dạy trẻ thái độ tôn trọng bố mẹ, người thân , những người xung quanh, yêu quý làng xóm, trường học,… tự hào về quê hương đất nước. Biết văn hóa dân tộc mình, trẻ sẽ có thái độ tôn trọng văn hóa dân tộc khác. Tích hợp nội dung giáo dục thể hiện ở chỗ làm quen với văn hóa chung, giữ gìn truyền thống, bản sắc và văn hóa dân tộc. Quá trình giáo dục trẻ hiện nay càng gắn chặt với sự phát triển xã hội của trẻ. Với việc tiếp thu quy tắc hành vi ứng xử trong xã hội. Trẻ nhận thức được “Tôi là ai” “ Tôi có thể làm được gì?” hiểu được bạn, khả năng của bạn và trên cơ sở đó xây dựng các mối quan hệ- tất cả những diều đó đều diễn ra trong tập thể trẻ và thông qua tập thể trẻ. Trẻ em hôm nay – Thế giới ngày mai
  4. Website hỗ trợ giảng dạy và chăm sóc trẻ em www.mamnon.com Đề cập đến vấn đề giáo dục hiện nay , cần chú ý đến hai quan điểm sau đây : Một mặt cần dạy cho trẻ có thái độ khoan dung với ý - kiến của người khác, có kỹ năng thừa nhận và tôn trọng quyền với người khác. Bởi vì chỉ có thái độ khoan dung, độ lượng với người của dân tộc khác, với những tôn giáo, niềm tin khác thì mới có thể chống lại sự thù hằn dân tộc. Mặt khác cần phải giáo dục trẻ kỹ năng trình bày ý - kiến không đồng tình, không hài lòng, sự bực mình một cách có văn hóa. Trong trường hợp ngược lại, có thể dẫn trẻ đến tình trạng thù nghịch và khủng hoảng lâm lý. Thứ 5: Cơ sở của nội dung giáo dục mầm non phải là các hoạt động khác nhau, trẻ phát triển chính trong hoạt động, và qua các thành phần cơ bản của hoạt động như xác định mục đích, lựa chọn phương tiện, tìm kiếm phương pháp, cách kiểm tra… Cách tiếp cận hoạt động bảo đảm cho trẻ tiếp thu nội dung kiến thức một cách khách qua thông qua người lớn, bạn bè…Môi trường hoạt động đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của trẻ, nó không những đảm bảo cho trẻ hoạt động mà còn kích thích trẻ tích cực, sáng tạo trong môi trường hoạt động đó. Trẻ em hôm nay – Thế giới ngày mai
  5. Website hỗ trợ giảng dạy và chăm sóc trẻ em www.mamnon.com Thứ 6: Lựa chọn nội dung giáo dục mầm non cần chú ý đảm bảo sức khỏe cho trẻ, củng cố và bảo vệ tâm lý trẻ, hình thành cho trẻ lối sống khỏe mạnh, các kỹ năng vệ sinh, nhu cầu tắm rửa sạch sẽ, đánh răng mỗi buổi sáng và tối, chú ý rửa tay trước khi ăn, thường xuyên luyện tập thể thao. Bên cạnh đó cần tổ chức cuộc sống của trẻ ở trường mầm non, có những điều kiện thuận lợi cho trẻ hoạt động sáng tạo, ở đó trẻ tin tưởng rằng trẻ sẽ được bảo vệ, những điều tốt đẹp luôn chờ trẻ ở đó. Nguyên tắc lựa chọn nội dung giáo dục đảm bảo sức khỏe cho trẻ- đòi hỏi trước hết phải tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động đa dạng của trẻ. Ví dụ, để củng cố cho trẻ kiến thức về dinh dưỡng hợp lý, giáo viên nên lể cho trẻ nghe loại dinh dưỡng có lợi cho sức khỏe. Khi đi dạo chơi, cần hướng trẻ chú ý đến các vườn cây, công viên, cho trẻ cảm nhận được sự sảng khoái khi hít thở không khí trong lành dưới những tán cây mát mẻ. Nên hạn chế thông tin tiêu cực, vì chúng làm cho trẻ lo lắng Trên đây là 6 cách tiếp cận và đổi mới và lựa chọn nội dung giáo dục mầm non, chúng có liên quan mật thiết với nhau. Để thực hiện, đòi hỏi người giáo viên phải hết mình, phải nắm vững chuyên môn. Trường mầm non cần phải đổi mới và nâng cao Trẻ em hôm nay – Thế giới ngày mai
  6. Website hỗ trợ giảng dạy và chăm sóc trẻ em www.mamnon.com yêu cầu đối với nội dung giáo dục, tập trung chú ý cho trẻ chuẩn bị vào trường phổ thông. Thực tế hiện nay cho thấy, do yêu cầu trẻ vào học lớp Một ngày càng nâng cao, thiếu căn cứ nên nhiều bậc phụ huynh cho trẻ đi học quá nhiều làm ảnh hưởng đến sức khỏe và giảm hứng thú đi học của trẻ. [ Thông tin Khoa học giáo dục mầm non.] Trẻ em hôm nay – Thế giới ngày mai

Phát triển và tổ chức thực hiện chương trình GDMN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [546.43 KB, 48 trang ]

TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
KHOA GD MẦM NON

ĐỀ CƢƠNG BÀI GIẢNG
HỌC PHẦN:
PHÁT TRIỂN VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
CHƢƠNG TRÌNH GIÁO DỤC MẦM NON
LỚP DẠY: ĐẠI HỌC MẦM NON

Họ và tên giảng viên: Phạm Thị Thu Thủy
Chức danh khoa học: TS Tâm lí học
Bộ môn: Giáo dục Mầm non

Năm học: 2018 - 2019
1


CHƢƠNG 1
PHÁT TRIỂN CHƢƠNG TRÌNH GIÁO DỤC MẦM NON
5 tiết [3;2]

A. Mục tiêu:
1. Kiến thức: Trang bị cho SV các khái niệm về phát triển chương trình giáo
dục mầm non.
- Hiểu rõ được cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển chương trình giáo
dục mầm non và nắm được các bước phát triển chương trình giáo dục
2. Kỹ năng: SV biết vẽ sơ đồ biểu diễn quá trình phát triển chương trình giáo
dục MN
- Phân tích các cơ sở thực tiến ở các địa phương VN trong giai đoạn hiện nay
để phát triển CTGDMN
3.Thái độ: Tự giác học tập và nghiên cứu


- Giáo dục giáo sinh thái độ tích cực, chủ động trong học tập.
- Nghiêm túc trong học tập, tích cực trao đổi thảo luận.
B. Chuẩn bị
1. Đối với giảng viên: Nghiên cứu các tài liệu sau:
- Tài liệu chính:
1. Phát triển và tổ chức thực hiện chương trình GD Mầm non- Nguyễn Thị
Thu Hiền- Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam. 2013
- Tài liệu tham khảo:
1. Bộ giáo dục đào tạo, Chương trình chăm sóc giáo dục mầm non - 2013
2. Bộ giáo dục đào tạo, Hướng dẫn thực hiện chương trình CSGD Mầm non từ
3 - 36 tháng và 3 - 6 tuổi, 2013
3. Phạm Thị Châu- Nguyễn Thị Oanh- Trần Thị Sinh, Giáo dục học trẻ em tác
giả : NXB Đại học Quốc gia, 2010
4. Nguyễn Ánh Tuyết , GDHMN- những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Đại
học sư phạm, 2010
5. Website chính thức của vụ GDMN: www.mamnon.edu.vn
2. Đối với sinh viên: Đọc tài liệu liên quan
C. Nội dung bài giảng
I. Khái niệm về phát triển chƣơng trình giáo dục mầm non
Hỏi:- Thế nào là phát triển chương trình giáo dục mầm non?
2


- Cho biết vai trò của giáo viên trong việc tham gia phát triển chương
trình giáo dục mầm non?
Thuật ngữ Phát triển chương trình tương đương với thuật ngữ tiếng anh là
Curriculum Development. Thuật ngữ này đôi lúc cũng được thay thế cho thuật ngữ
Curriculum making hay Curriculum design tức là làm chương trình, xây dựng
chương trình hay thiết kế chương trình.
Tương ứng với các loại chương trình ở các cấp độ, phạm vi khác nhau mà

chúng ta hiểu khái niệm phát triển chương trình ở mức độ khác nhau.
Với nghĩa rộng nhất, phát triển chương trình giáo dục được hiểu là quá trình
nghiên cứu, thiết kế, xây dựng và quản lý chương trình giáo dục – đào tạo cho một
bậc học, ngành học. Ví dụ: xây dựng chương trình ngành sư phạm mầm non trình
độ cao đẳng, xây dựng chương trình cấp tiểu học, xây dựng chương trình Giáo dục
mầm non…Việc phát triển chương trình giáo dục theo nghĩa này có thể tương
đương với việc nghiên cứu, xây dựng một chương trình hoàn toàn mới.
Phát triển chương trình giáo dục cũng có thể là nghiên cứu, xây dựng một
chương trình giáo dục mới thay thế cho chương trình giáo dục cũ, không còn phù
hợp và đáp ứng yêu cầu giáo dục đào tạo trong từng giai đoạn, từng thời kì phát
triển kinh tế, xã hội, văn hoá của đất nước và xu thế phát triển giáo dục của thế
giới. Ví dụ: xây dựng chương trình giáo dục mầm non mới thay thế chương trình
chỉnh lý nhà trẻ và chương trình mẫu giáo cải cách.
Kết quả của phát triển chương trình này sẽ là một chương trình giáo dục đào
tạo do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành cho từng cấp học, bậc học, ngành đào tạo.
Chương trình này cung cấp những nội dung cốt lõi, chuẩn mực, tương đối ổn định
theo thời gian và bắt buộc các trường phải thực hiện [chương trình khung]
Từ chương trình khung này, mỗi trường tự xậy dựng và phát triển chương
trình giáo dục cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế của trường mình nhưng phải
đảm bảo thực hiện được mục tiêu đã đề ra.
Ở mức độ thứ hai, sự phát triển chương trình là quá trình nghiên cứu, xây
dựng và phát triển chương trình giáo dục – đào tạo cụ thể cho một trường từ
chương trình khung trên cơ sở đó tính đến điều kiện thực tế của từng vùng, miền,
từng trương, đối tượng người học, chứa đựng và thể hiện triết lý riêng của từng
trường.
Quá trình phát triển chương trình ở mức độ thứ hai này là do các trường tự
thực hiện. Ví dụ: Từ chương trình khung giáo dục - đào tạo giáo viên mầm non
trình độ cao đẳng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, trường CĐSP Tuyên
Quang sẽ tự nghiên cứu xây dựng chương trình cụ thể [hay còn gọi là đề cương chi
tiết] cho trường mình sao cho phù hợp với điều kiện thực tế của trường mình, chứa

đựng triết lý riêng trường. Trong giáo dục mầm non, từ chương trình giáo dục
mầm non do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, từng địa phương hoặc từng trường
sẽ phát triển nó thành chương trình chi tiết, cụ thể phù hợp với từng địa phương
hoặc trường mình, thể hiện ở sự khác biệt trong xác định mức độ mục tiêu trong
3


từng độ tuổi, ở nội dung phương pháp chăm sóc, giáo dục trẻ và chỉ đạo, tổ chức
thực hiện chương trình.
Ở mức độ thứ ba, phát triển chương trình được hiều là quá trình lên kế hoạch
và thực thi chương trình cho một lớp học, môn học cụ thể do giáo viên đảm nhận.
Ví dụ, ở trường mầm non, từ kế hoạch thực hiện chương trình chung của trường,
giáo viên mầm non ở mỗi lớp sẽ lựa chọn nội dung cụ thể [chủ đề cụ thể] để xây
dựng kế hoạch và triển khai thực hiện chủ đề cụ thể đó cho từng thời điểm thích
hợp với những nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức thực hiện phù hợp với
điều kiện của lớp và nhu cầu, hứng thú cũng như vốn kinh nghiệm và khả năng của
trẻ.
Ở mức độ thứ tư [mức độ hẹp nhất], là sự điều chỉnh, bổ sung, thay đổi
chương trình học, chương trình hoạt động của người học / của trẻ dựa trên kết quả
quan sát, đánh giá người học / đánh giá trẻ trong các hoạt động.
Có thể nhận thấy rằng, chất lượng của hai mức độ phát triển chương trình
cuối [mức độ ba và mức độ bốn] phụ thuộc chủ yếu vào trình độ, tính sáng tạo, linh
hoạt và sự nhạy cảm của giáo viên.
Tóm lại, dù đưa ra khái niệm phát triển chương trình ở mức độ khác nhau,
nhưng chúng ta đều nhận thấy rằng phát triển chương trình là một quá trình liên tục
phát triển và hoàn thiện chương trình giáo dục – đào tạo hoà quyện trong quá trình
giáo dục nói chung, quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ nói riêng, để đảm bảo chương
trình trở nên có ý nghĩa hơn, có hiệu quả hơn đối với sự phát triển nhân cách của
người học - của trẻ nhỏ.
II. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển chƣơng trình giáo dục

mầm non
1. Cơ sở lý luận của việc phát triển chƣơng trình giáo dục mầm non
Hỏi: - Phát triển chương trình giáo dục mầm non được dựa trên cơ sở lý luận
nào?
- Các học thuyết cơ bản đã giải thích trẻ học như thế nào?Cho biết vai
trò của giáo viên trong viẹc CS – GD trẻ.
- Cho biết đặc điểm phát triển trẻ em lứa tuổi mầm non?
- Trình bày các quan điểm tiếp cận chương trình giáo dục mầm non?
Chương trình giáo dục mầm non mới hiện nay được thiết kế chủ yếu theo cách tiếp
cận nào?.
1.1. Các học thuyết cơ bản về sự phát triển trẻ em
Đây là cơ sở khoa học để chúng ta có thể trả lời cho những câu hỏi: Trẻ học
cái gì? Trẻ học như thế nào? Dạy trẻ những gì?. Từ đó, để thiết kế, xậy dựng và
phát triển chương trình giáo dục mầm non phù hợp với sự phát triển của trẻ.
a] Thuyết xã hội - văn hoá của L.S. Vưgôtxki
Ông nhấn mạnh vai trò của môi trường xã hội bao gồm gia đình, trường học,
cộng đồng và văn hoá trong phát triển cơ thể và tâm lý của trẻ. Và ông cho rằng sự
phát triển của trẻ vừ thể hiện là kết quả của sự hoà nhậpvào trong môi trường văn
4


hoá, vừa thể hiện là quá trình lĩnh hội từ môi trường văn hoá, Người lớn và giáo
viên đóng vai trò trung gian hướng dẫn và ủng hộ trẻ.
Theo ông, giáo viên cần phải đón trước sự phát triển nhận thức của trẻ, nắm
vững khoa học dạy trẻ để dẫn dắt chúng từng bước tiến vào vùng phát triển gần
nhất nhằm phát triển đầy đủ các chức năng tâm lý bậc cao, tức là dạy trẻ từng bước
học làm người.
b] Thuyết tâm lý xã hội [Erik Erikson 1963]
Ông cho rằng sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ trong 8 năm đầu
của cuộc đời chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi môi trường xã hội ở gia đình và nhà

trường. Cách giao tiếp và ứng xử của người lớn ảnh hưởng đến sự phát triển của
trẻ.
Đồng thời, ông đã đề xướng những yêu cầu đối với các lớp học chuẩn mực đó
là:
- Tỉ lệ giáo viên - trẻ: Trẻ càng nhỏ thì tỉ lệ này càng thấp, vì trẻ nhỏ cần sự
ôm ấp, thương yêu, chăm sóc thường xuyên của người lớn, đó là điều kiện quan
trọng cho sự phát triển cảm giác an toàn, tin cậy ở trẻ, và là cơ sở phát triển tình
cảm xã hội ban đầu.
- Cung cấp nhiều cơ hội cho trẻ nhỏ để nó tự lựa chọn các hoạt động chơi, các
vật liệu chơi và bạn chơi, từ đó phát triển tính độc lập tự chủ.
- Cung cấp nhiều cơ hội và thời gian đủ cho trẻ khám phá, lên kế hoach và
thưc hiện các giai đoạn chơi sẽ phát triển tính sang tạo và nảy sinh những ý tưởng
mới, đây là đặc tính rất quan trọng trong những năn tuổi thơ.
c] Thuyết hành vi [SkinnerB.F, 1973 và Albert Bandura, 1963]
Thuyết này cho rằng bản chất của việc học của trẻ nhỏ là thông qua sự bắt
trước và quan sát người khác, biến hành vi quan sát được thành của mình và tái tạo
lại các hành vi đó. Trẻ có thể học hành vi mới bằng cách bắt trước bạn là những trẻ
đang có hành vi đúng đắn. Đồng thời, trẻ trẻ cũng quan sát bạn đang bị phạt vì
hành vi không phù hợp để tự điều chình mình. Skinner cũng cho rằng, các yếu tố
quan trọng trong sự tăng trưởng và phát triển của trẻ là tổ chức môi trường và tạo
ra các tình huống giáo dục. Cha mẹ và giáo viên cần coi trọng và khen ngợi các
hành vi phù hợp của trẻ.
d] Thuyết phát triển nhận thức [Jean Piaget, 1963]
Thuyết này thừa nhận trẻ nhỏ có vai trò tích cực trong sự phát triển nhận thức
của mình thông qua sự giao tiếp qua lại tích cực với cả môi trường vật chất và môi
trường xã hội. Ông nhấn mạnh chơi là hình thức cơ bản giúp trẻ phát triển sự khẳng
định mình trong suy nghĩ, vai trò của giáo viên là khai thác các tình huống và các
vật liệu trong môi trường để khuyến khích trẻ chơi, qua đó kích thích sự suy nghĩ
và sự giao tiếp tích cực của trẻ.
e] Thuyết sinh thái của U. Bronfenbrenner, 1979

Thuyết này nghiên cứu về những môi trường sinh thái người và mối quan hệ
qua lại của chúng xung quanh một con người đang trưởng thành. Đối với một đứa
5


trẻ thì môi trường trực tiếp, trong đó mối quan hệ của trẻ với gia đình, trường mầm
non và bạn bè là rất quan trọng.
Tóm lại, các lý thuyết trên đây nhằm đưa ra sự giải thích về quá trình học và
về cách chiếm lĩnh tri thức của trẻ nhỏ, giúp các nhà nghiên cứu trẻ em vận dụng,
tiếp tục nghiên cứu để trả lời thoả mãn được câu hỏi “trẻ học như thế nào?”.
1.2. Đặc điểm phát triển của trẻ lứa tuổi mầm non
Theo quan điểm về sự phát triển của trẻ em, trẻ lớn khôn thông qua hai quá
trình tăng trường và phát triển.
Tăng trường là quá trình trong đó các bộ phận của cơ thể được thay đổi về số
đo. Phát triển là quá trình trong đó có sự hình thành và hoàn thiện, đa dạng hoá
phức tạp hoá các chức năng bộ phận của con người [biết đi, chạy, nhảy, biết nói,
biết suy nghĩ…]. Hai quá trình này khác biệt nhau nhưng phụ thuộc vào nhau và
diễn ra trong suốt quá trình liên tục trẻ phản ứng, thích ứng với những điều kiện
bẩm sinh và những điều kiện của môi trường sống
Qua nghiên cứu các tài liệu tâm lý học và sinh lý học cho thấy, sự tăng trưởng
và phát triển của trẻ lứa tuổi mầm non diễn ra với tố độ nhanh, mạnh so với các
giai đoạn về sau.
VD về tăng trưởng: Chiều cao và cân nặng của trẻ tăng rất nhanh [từ 50cm khi
mới sinh đến cuối năm thứ nhất trẻ cao khoảng 70 – 75cm, năm thứ ba khoảng 93 –
94cm. Cân nặng từ 3 – 3,5kg chóng đến cuối năm thứ nhất trẻ tăng gấp đôi và đến
cuối năm thứ ba trẻ tăng khoảng 14 -15kg.
VD về phát triển: Trẻ nhanh chóng chiếm lĩnh và điều khiển được một số vận
động chủ yếu: lẫy, bò, đi, chạy nhảy…
Ngôn ngữ của trẻ có những chuyển biến rõ rệt về chất, vốn từ tăng nhanh
chóng

Tư duy trực quan hành động [ấu nhi], tư duy trực quan hình tương [mẫu giáo],
tư duy trừu tượng [cuối tuổi mẫu giáo].
Sự học của trẻ diễn ra dưới 2 hình thức: trẻ học mọi lúc, mọi nơi; hoạt động
học có chủ đích…
1.3. Một số cách tiếp cân cơ bản và hình thức thiết kế chƣơng trình
Cách tiếp cận [approach] thể hiện quan điểm chỉ đạo trên cơ sở đó mà chương
trình được xây dựng. Hình thức thiết kế chương trình [framework] thể hiện các thủ
tục, cách thức thực hiện cách tiếp cận trong thực tiễn giáo dục. Một cách tiếp cận
có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức thiết kế khác nhau, ngược lại, một hình
thức thiết kế có thể sử dụng để hiện thực hoá nhiều cách tiếp cận khác nhau
Hỏi: - Chương trình giáo dục mầm non thường được xây dựng dựa trên các
cách tiếp cận và hình thức thiết kế nào?
- Việc lựa chọn các quan điểm tiếp cận khi xây dựng chương trình phụ
thuộc vào các yếu tố nào?
a] Một số cách tiếp cận cơ bản.

6


- Tiếp cận mục tiêu: Dựa trên mục tiêu đào tạo, người xây dựng chương trình
mới đưa ra các quyết định trong việc lựa chọn nội dung giáo dục, phương pháp sư
phạm cũng như đánh giá cách thức đánh giá kết quả học tập
- Tiếp cận nội dung: Mục tiêu chương trình là nội dung kiến thức. Điều quan
trọng khi xây dựng chương trình giáo dục là khối lượng và chất lượng cần truyền
thụ.
- Tiếp cận phát triển: Giáo dục hướng tới phát huy tối đa mọi tiềm năng của
con người, đáp ứng nhu cầu, hứng thú của người học.
- Tiếp cận truyền thống và tiếp cận phù hợp với sự phát triển của trẻ: Tiếp cận
truyền thống nhấn mạnh đến việc dạy kỹ năng và kiến thức qua các môn học riêng
rẽ. Tiếp cận phù hợp với sự thích hợp của trẻ nhấn mạnh việc học của trẻ mang tính

tích hợp và thích hợp
- Tiếp cận dạy học – giáo dục hướng vào trẻ và tiếp cận lấy người lớn làm
trung tâm:
Quan điểm lấy người lớn làm trung tâm là cách thức người lớn tổ chức môi
trường giáo dục dựa trên quan niệm của bản thân về những gì trẻ cần phải học,
người lớn trực tiếp dạy trẻ, người lớn khởi xướng các hoạt động và quyết định cái
gì trẻ được làm và không được làm
Quan điểm dạy học- giáo dục hướng vào trẻ là cách thức tổ chức môi
trường giáo dục dựa trên cơ sở hứng thú, kinh nghiệm, nhu cầu của trẻ, trẻ tự học là
chính, trẻ chủ động khởi xướng các hoạt động theo hứng thú cá nhân.
- Tiếp cận cá nhân - tiếp cận tập thể.
Tiếp cận cá nhân: Chương trình giáo dục chú trọng đến sự khác biệt của cá
thể trẻ như nhu cầu, hứng thú, kinh nghiệm và mặt mạnh, mặt yếu của mỗi trẻ.
Tiếp cận tập thể: Chương trình được xây dựng chung cho tất cả trẻ ở cùng độ
tuổi
- Tiếp cận tích hợp, tiếp cận tương hỗ và tiếp cận tách biệt
Tiếp cận tích hợp: Nhấn mạnh nhiều nội dung giáo dục thông qua các hoạt
động tích cực của cá nhân trẻ với môi trường sống của mình
Tiếp cận tương hỗ: Sự học được thực hiện xoay quanh một ý tưởng [hay một
chủ đề] trung tâm.
Tiếp cận tách biệt: Các hoạt động trải nghiệm của trẻ trong chương trình được
xây dựng một cách tách biệt, ít liên quan đến nhau
- Tiếp cận bình đẳng và tiếp cận phân biệt.
Tiếp cận bình đẳng: Chương trình tạo cơ hội và điều kiện bình đẳng cho tất
cả trẻ được học tập và phát triển.
Tiếp cận phân biệt: Chương trình được thiết kế cho từng nhóm trẻ khác nhau
như trẻ chậm phát triển, trẻ có năng khiếu, trẻ tàn tật…
b] Hình thức thiết kế chương trình
- Chương trình khung
- Chương trình được tổ chức theo môn học

- Chương trình được tổ chức theo các chủ đề
7


- Chương trình được tổ chức theo sự kiện
- Chương trình được tổ chức theo hoạt động
Ngoài ra, còn tồn tại nhiều kiểu thiết kế chương trình khác, như chương trình
được thiết kế dưới hình thức trò chơi, chương trình mạng, chương trình dự án…
Việc xác định rõ quan điểm tiếp cận và hình thức thiết kế chương trình không
chỉ cần thiết trong việc xây dựng chương trình giáo dục mầm non nói chung mà cả
trong việc thiết kế chương trình ở từng nội dung giáo dục và học tập. Mỗi chương
trình có thể xây dựng trên cơ sở của nhiều quan điểm tiếp cận khác nhau. Việc lựa
chọn quan điểm tiếp cận khi xây dựng chương trình phụ thuộc vào mục đích giáo
dục trẻ, đặc biệt là quan điểm về sự học và phát triển của trẻ của người xây dựng
chương trình.
2. Cơ sở thực tiễn của việc phát triển chƣơng trình giáo dục mầm non
Hiện nay đang tồn tại 3 loại chương trình:
+ Chương trình CS - GD trẻ 3 tháng đến 6 tuổi [chương trình chỉnh lý nhà trẻ
và cải cách mẫu giáo]
+ Chương trình đổi mới
+ Chương trình mầm non mới ban hành tháng 9 năm 2006
a. Chương trình chăm sóc – giáo dục trẻ mẫu giáo cải tiến được nghiên cứu và
xây dựng từ những năm 80 của thế kỷ XX, ban hành chính thưc trên toàn quốc từ
năm 1994 đã bộc lộ một số hạn chế:
- Lấy cô làm trung tâm: giáo dục theo ý muốn chủ quan của giáo viên, trẻ bị
thụ động, áp đặt, không tích cực, không năng động ,chỉ học máy móc theo yêu cầu
của cô.
- Chương trình cũ có những bài soạn sẵn dẫn tới giáo viên thụ động, không
sáng tạo, giáo dục đồng loạt trên toàn quốc, không phù hợp với từng trẻ, từng vùng
miền

- Nội dung chương trình cũ thấp hơn so với khả năng thực của trẻ trong giai
đoạn hiện nay, không hướng tới vùng phát triển gần của trẻ, không khai thác được
hết tiềm năng của trẻ.
- Quá chú trọng đến hoạt động học tập làm cho chương trình mang tính phổ
thông hoá.
- Xây dựng chương trình với các bộ môn riêng rẽ, nội dung học chồng chéo.
- Chưa thực sự quan tâm đến môi trường hoạt động của trẻ.
- Chưa quan tâm đến đánh giá kết quả hoạt động của trẻ.
b. Chương trình đổi mới được triển khai từ năm 1996 [giáo dục tích hợp theo
chủ đề] đã phần nào khắc phục được một số hạn chế của chương trình cải cách.
Chương trình giáo dục tích hợp theo chủ đề có nhiều ưu việt:
- Lấy trẻ làm trung tâm, trẻ được hoạt động phát huy tính tích cực hoạt động
của trẻ, giáo viên là thang đỡ, là điểm tựa, tổ chức, hướng dẫn, khai thác tiềm năng
vốn có của đứa trẻ, hướng sự phát triển của trẻ đến vùng “phát triển gần”.
- Các hoạt động giáo dục của trẻ được đan cài, lồng ghép, tích hợp vào nhau
dựa trên nhu cầu, hứng thú của đứa trẻ
8


- Cho phép người giáo viên chủ động, sáng tạo trong công việc: tự lựa chọn
nội dung, phương pháp…tự thiết kế các hoạt động CS – GD trẻ.
- Tăng cường cho trẻ cơ hội lhám phá, trải nghiệm
- Quan tâm đến việc tạo dựng môi trường hoạt động đa dạng, phong phú, hấp
dẫn và an toàn đối với trẻ
- Cho phép người giáo viên linh hoạt, mềm dẻo trong việc chăm sóc, giáo dục
trẻ phù hợp với đặc điểm của từng trẻ, từng trường, từng địa phương, vùng miền…
Tuy nhiên, do giáo viên chưa hiểu rõ bản chất quan điểm tích hợp dẫn tới cách
thực hiện các chủ đề còn chưa phù hợp. Giáo viên còn máy móc trong việc lựa
chọn và tổ chức thực hiện chương trình, còn phụ thuộc nhiều vào sự định hướng
của ban giám hiệu và tài liệu hướng dẫn. Tài liệu hướng dẫn quá cụ thể, chi tiết nên

giáo viên thu động, không sáng tạo, chỉ thực hiện theo tài liệu hướng dẫn.
c. Chương trình giáo dục mầm non hiện nay [tháng 9/2006] mang tính chất là
chương trình khung. Chương trình này được xây dựng theo quan điểm giáo dục
tích hợp, lấy trẻ làm trung tâm, đảm bảo nguyên tắc đồng tâm phát triển, tạo điều
kiện cho mỗi trẻ được hoạt động tích cực, đáp ứng nhu cầu và hứng thú của trẻ
trong quá trình chăm sóc, giáo dục. Từ chương trình khung này từng địa phương và
từng trường sẽ xác định nội dung, phương pháp, hình thức… phù hợp với điều kiện
thực tế của địa phương, trường lớp và nhu cầu khác nhau nhau của từng trẻ…
Kết luận: Trải qua các thời kì phát triển, chương trình giáo dục mầm non đã
có những bước phát triển đáng kể, đáp ứng yêu cầu phát triển nghành giáo dục
mầm non nói riêng và phát triển con người mới nói chung…
Tổ chức hoạt động giáo dục theo hướng đổi mới để đặt nền tảng cơ sở đạo tạo
ra con người mới đáp ứng yêu cầu xã hội hiện nay, mặt khác xu hướng giáo dục
của các nước trên thế giới và trong khu vực là tích hợp các hoạt động giáo dục
trong trường mầm non. Giáo dục tích hợp theo chủ đề đã khắc phục đựơc các hạn
chế của chương trình mầm non cũ và bản thân nó có nhiều ưu việt.
III. Các bƣớc phát triển chƣơng trình giáo dục mầm non
1. Các bước phát triển chương trình đào tạo [thiết kế chương trình]
Khi hiểu phát triển chương trình được xem như một quá trình liên tục phát
triển và hoàn thiện chương trình giáo dục hoà quyện trong quá trình đào tạo thì
người ta chia nó thành các bước.
Năm 1926, Rugg đã phác hoạ hoạt động phát triển chương trình như một quá
trình gồm 3 bước:
1. Xác định những mục tiêu cơ bản
2. Chọn lựa các hoạt động và tài liệu giảng dạy
3. Xây dựng mô hình giảng dạy có hiệu quả nhất
Năm 1950, quy trình “thiết kế, tổ chức và thực hiện chương trình” đã đạt
được sự hoàn chỉnh qua 4 giai đoạn do RalpTyler đề ra:
1. Những mục đích mà nhà trường cần đạt được
2. Nhũng hoạt động cần thiết để đạt được các mục đích của giáo dục

3. Cách thức để hoạt động giáo dục được tổ chức có hiệu quả
9


4. Cách thức có thể xác định mức độ đạt được của các mục tiêu giáo dục
Tim Wentling lại chia quá trình đào tạo thành các giai đoạn chính: giai đoạn
chuẩn bị, giai đoạn thực thi và giai đoạn đánh giá…
Từ việc nghiên cứu các quan điểm trên cho ta thấy, quá trình phát triển
chương trình về cơ bản gồm 5 bước:
1. Phân tích tình hình
2. Xác định mục đích và mục tiêu của chương trình
3. Thiết kế chương trình
4. Thực thi chương trình
5. Đánh giá chương trình
Quá trình phát triển chương trình đào tạo này cần được hiểu như một quá
trình liên tục và khép kín. Ví dụ, trước khi bắt đầu xây dựng một chương trình nào
đó bao giờ chúng ta cũng phân tích đánh giá tình hình [đánh giá chương trình hiện
hành, kết quả thực hiện nó như thế nào, điều kiện thực hiện chương trình trong và
ngoài nhà trường, nhu cầu xã hội, nhu cầu và sự phát triển, sự tiến bộ của người
học] để xây dựng nên mục tiêu của chương trình. Trên cơ sở mục tiêu của chương
trình ta mới lựa chọn nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục thích hợp, lựa chọn
và tạo ra các phương tiện hỗ trợ việc thực hiện chương trình và lựa chọn các
phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả của người học.
2. Các bƣớc phát triển chƣơng trình giáo dục mầm non.
Hỏi: Trình bày các bước phát triển chương trình giáo dục mầm non. Tại sao
các bước phát triểnchương trình phải được xếp trong một vòng tròn khép kín?
Các bước phát triển chương trình giáo dục mầm non là:
1. Phân tích tình hình
2. Xác định cách tiếp cận và hình thức thiết kế chương trình giáo dục của
trường, địa phương mình

3. Xác định mục đích và các mục tiêu cụ thể theo 5 lĩnh vực phát triển phù
hợp với điều kiện thực tiễn
4. Thiết kế nội dung
5. Tổ chức các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng và các hoạt động khám phá,
trải nghiệm cho trẻ để thực thi chương trình
6. Đánh giá kết quả thực hiện chương trình
Sự phân chia các bước như trên chỉ mang tính chất tương đối. Trong thực tế
các bước đó luôn có mối quan hệ qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và thậm chí
đan xen vào nhau và được sắp xếp trong một vòng tròn khép kín. Cách sắp xếp như
vậy muốn thể hiện rằng phát triển chương trình là một quá trình liên tục hoàn thiện
và không ngừng phát triển, khâu nọ ảnh hưởng đến khâu kia. Chúng ta không thể
tách rời một khâu mà không xem xét đến sự tác động hữu cơ của các khâu khác.
Cán bộ quản lý và giáo viên mầm non cần nắm rõ những bước này để vận
dụng một cách linh hoạt, sáng tạo vào việc phát triển và tổ chức thực hiện chương
trình giáo dục mầm non cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương,
10


trường, lớp, phù hợp với đối tượng trẻ của mình. Điều đó có nghĩa là phát triển
chương trình đã góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ.
D. Hƣớng dẫn sinh viên học tập
1. Thế nào là phát triển chương trình giáo dục mầm non?
2. Cho biết cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển chương trình giáo dục
mầm non?
3. Hãy trình bày các quan điểm tiếp cận và hình thức thiết kế chương trình
giáo dục mầm non. Theo anh [chị] việc lựa chọn quan điểm tiếp cận và hình thức
thiết kế chương trình giáo dục mầm non phụ thuộc vào vấn đề gì?
4. Lập sơ đồ để chỉ rõ sự khác biệt giữa các cách tiếp cận trong thiết kế
chương trình giáo dục mầm non.
5. Đánh giá cách tiếp cận trong các chương trình giáo dục mầm non Việt Nam,

từ đó rút ra kết luận về việc lựa chọn cách tiếp cận trong xây dựng chương trình
giáo dục mầm non.
6. Thế nào phát triển chương trình đào tạo? Vẽ sơ đồ biểu diễn quá trình phát
triển chương trình giáo dục mầm non.
7. Hãy phân tích các cơ sở thực tiễn ở các địa phương việt nam trong giai đoạn
hiện nay để phát triển chương trình giáo dục mầm non.

11


CHƢƠNG 2
LẬP KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHƢƠNG TRÌNH GIÁO
DỤC MẦM NON
15 tiết [10;5]

A. Mục tiêu của bài:
1. Kiến thức: Hiểu rõ khái niệm kế hoạch, ý nghĩa của việc lập kế hoạch.
- Đảm bảo cho SV hiểu rõ nguyên tắc xây dựng KH, cấu trúc và nội dung của
từng loại kế hoạch.
2. Kỹ năng: Biết lập kế hoạch thực hiện chương trình cho một độ tuổi ở một
trường cụ thể trong năm học.
3.Thái độ: Tự giác học tập và nghiên cứu
- Giáo dục giáo sinh thái độ tích cực, chủ động trong học tập.
Nghiêm túc trong học tập, tích cực trao đổi thảo luận.
B. Chuẩn bị
1. Giảng viên:
- Tài liệu chính:
1. Phát triển và tổ chức thực hiện chương trình GD Mầm non- Nguyễn Thị
Thu Hiền- Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam. 2013
- Tài liệu tham khảo:

1. Bộ giáo dục đào tạo, Chương trình chăm sóc giáo dục mầm non - 2013
2. Bộ giáo dục đào tạo, Hướng dẫn thực hiện chương trình CSGD Mầm non
từ 3 - 36 tháng và 3 - 6 tuổi, 2013
3. Phạm Thị Châu- Nguyễn Thị Oanh- Trần Thị Sinh, Giáo dục học trẻ em
tác giả : NXB Đại học Quốc gia, 2010
4. Nguyễn Ánh Tuyết , GDHMN- những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB
Đại học sư phạm, 2010
5. Website chính thức của vụ GDMN: www.mamnon.edu.vn
2. Đối với sinh viên: Đọc tài liệu liên quan
C. Nội dung bài giảng
I. Khái niệm, ý nghĩa của việc lập kế hoạch
1. Khái niệm kế hoạch
12


Kế hoạch là toàn bộ nói chung những điều vạch ra một cách có hệ thống về
những công việc dự định làm trong một thời gian nhất định, với cách thức, trình tự,
thời hạn tiến hành.
Xây dựng kế hoạch là dự kiến hệ thống những công việc phải làm, những
mục tiêu cần đạt và phương án [biện pháp] để thực hiện mục tiêu.
Lập kế hoạch thực hiện chương trình là dự kiến hệ thống các mục tiêu cần
đạt được trên trẻ, xác định và lựa chọn nội dung, phương pháp chăm sóc – giáo dục
trẻ để thực hiện mục tiêu trong một khoảng thời gian nhất định và lên kế hoạch
đánh giá việc thực hiện chương trình trong một khoản thời gian đó. Điều đó có
nghĩa là, khi xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình, chúng ta phải thực hiện kế
hoạch sau:
- Xác định các mục tiêu cần đạt được trên trẻ trong một khoảng thời gian
nhất định. Tuỳ từng loại kế hoạch mà xác định mục tiêu cho phù hợp
- Xác định những nội dung chăm sóc, giáo dục trẻ.
- Xác định và lựa chọn các phương pháp, biện pháp và các điều kiện để thực

hiện kế hoạch
- Lên kế hoạch đánh giá bao gồm xác định mục đích đánh giá, nội dung đánh
giá, phương pháp và hình thức đánh giá
2. Ý nghĩa của việc lập kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục mầm non
2.1. Đối với giáo viên
Xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình đồng nghĩa với việc quyết định
những việc phải làm và làm cách nào để để đạt kết quả tốt nhất nên có tác dụng
định hướng trong công việc của người giáo viên và giúp họ chủ động thực hiện
nhiệm vụ, tránh được tình trạng bị động, tuỳ tiện trong công tác chăm sóc – giáo
dục trẻ, khắc phục tình trạng chồng chéo, lặp lại, đứt đoạn rời rạc trong quá trình
thực hiện công việc giáo dục mầm non và hiện tượng coi trọng hoạt động này, coi
nhẹ hoạt động khác, đảm bảo sự kết hợp hài hoà cân đối, linh hoạt các nội dung và
hình thức giáo dục
Việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch có ý nghĩa giúp giáo viên rèn
luyện năng lực dự báo, năng lực tư duy khoa học, năng lực thiết kế hoạt động và
sáng tạo trong công việc, không rập khuôn máy móc.
Kế hoạch thực hiện chương trình của nhóm, lớp còn có ý nghĩa xây dựng tinh
thần cộng đồng, trách nhiệm, hợp tác chặt chẽ và thống nhất với nhau giữa các giáo
viên cùng làm việc trong quá trình thực hiện chương trình
Lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch còn giúp giáo viên có cơ sở để tự đánh
giá chất lượng tổ chức thực hiện chương trình và có cơ sở để tự đánh giá sự phát
triển, sự tiến bộ của trẻ dưới sự tác động của chương trình. Từ đó, gíáo viên có thể
rút ra nhiều bài học kinh nghiệm và có những điều chỉnh phù hợp trong công tác tổ
chức thực hiện chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ.
2.2. Đối với các nhà quản lý
Việc lập kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục mâm non của một trường
sẽ giúp cán bộ quản lý có sự chỉ đạo thống nhất đối với các bộ phận, các tập thể, cá
13



nhân trong toàn trường; thể hiện được triết lý riêng của từng trường và những định
hướng cơ bản để từ đó, giáo viên xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch trong
từng nhóm, lớp một cách có hiệu quả.
Kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục mầm non của giáo viên và của nhà
trường cũng là cơ sở để cán bộ quản lý của trường tự đánh giá kết quả thực hiện
của trường mình và cấp trên kiểm tra đánh giá chất lượng thực hiện chương trình
của nhà trường, từ đó, cán bộ quản lý có cơ sở để rút kinh nghiệm trong công tác
chỉ đạo thực hiện chương trình trong thời gian tiếp theo.
Việc lập kế hoạch thực hiện chương trình giúp cho cán bộ quản lý và giáo
viên mầm non có cơ sở thực tiễn để phát triển chương trình
2.3. Đối với trẻ mầm non
Việc xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình phải dựa trên kết quả những
gì quan sát được trên trẻ, dựa trên sự hiểu biết về sự phát triển và sự học của trẻ.
Điếu đó sẽ giúp trẻ hình thành được những kiến thức và kỹ năng một cách có hệ
thống, phát triển những năng lực chung và các kỹ năng sống cần thiết giúp trẻ phát
triển toàn diện các mặt nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong chương trình.
Việc thực hiện chương trình cũng sẽ tạo điều kiện cho mỗi trẻ được hoạt
động tích cực, đáp ứng nhu cầu và hứng thú của trẻ trong quá trình chăm sóc, giáo
dục trẻ.
II. Nguyên tắc xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục mầm
non
Nguyên tắc là những yêu cầu, những quy định chung nhất, cơ bản nhất bắt
buộc người giáo viên và cán bộ quản lý phải tuân theo khi xây dựng kế hoạch
nhằm đảm bảo mục đích và hiệu quả của quá trình xây dựng kế hoạch
Quy trình xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình đòi hỏi giáo viên mầm
non và cán bộ quản lý phải quán triệt một số nguyên tắc sau:
1. Xây dựng kế hoạch phải quán triệt mục tiêu giáo dục
2. Xây dựng kế hoạch phải đảm bảo tính khoa học và tính thực tiễn
3. Xây dựng kế hoạch phải đảm tính phát triển
4. Xây dựng kế hoạch phải đảm bảo tính toàn diện

5. Đảm bảo tính pháp lệnh của kế hoạch
III. Các loại kế hoạch thực hiện chương trình, cấu trúc và nội dung của từng
loại kế hoạch
Kế hoạch năm: Bao quát chương trình giáo dục trong 1 năm học, gồm mục
tiêu, nội dung/hệ thống chủ đề trong năm học. [kế hoạch này do sởGD, phòng,
BGH xây dựng]
Kế hoạch tháng / chủ đề: là sự cụ thể hoá các nội dung giáo dục nhằm đáp
ứng với mục tiêu GD theo các lĩnh vực phát triển, được thực hiện qua các hoạt
động học, khám phá, trải nghiệm, vui chơi,... của trẻ trong 1 tháng/chủ đề. [Kế
hoạch này do GV và BGH xây dựng]

14


Kế hoạch tuần, ngày: là sự sắp xếp các hoạt động học, khám phá, trải
nghiệm, vui chơi của trẻ [ở các lĩnh vực phát triển] vào các ngày trong tuần và các
thời điểm trong ngày nhằm triển khai nội dung GD [GV xây dựng]
- Khả năng, nhu cầu, hứng thú của trẻ.
- Những kiến thức đơn giản bắt nguồn từ thực tiễn cuộc sống, văn hoá xã hội
và môi trường tự nhiên của địa phương.
- Chương trình giáo dục mầm non.
- Thời gian trẻ đến và ở tại trường.
- Cơ sở vật chất của trường lớp.
1. Kế hoạch thực hiện chương trình theo năm học cho từng độ tuổi
a] Căn cứ để xây dựng kế hoạch theo năm học cho từng độ tuổi
- Mục tiêu chương trình và mục tiêu độ tuổi
- Nội dung chương trình theo độ tuổi ở từng lĩnh vực phát triển trong chương
trình giáo dục mầm non
- Điều kiện thực tế của trường, lớp; khả năng phát triển của trẻ, số lượng trẻ
trên cô, số lượng trẻ trong lớp; cơ sở vật chất: phòng nhóm, sân chơi, thiết bị,

nguyên vật liệu, đồ dung và đồ chơi; nhu cầu và sự tham gia của cha mẹ trẻ vào
quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ, điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá xã hội của địa
phương nơi trẻ sinh sống…
b] Cấu trúc kế hoạch thực hiện chương trình theo năm học
- Tên kế hoạch. Ví dụ, kế hoạch thực hiện chương trình năm học 2014- 2015
- Khối, lớp. Ví dụ, mẫu giáo lớn [5 – 6 tuổi]
- Trường mầm non.Ví dụ, trường mầm non Tân Trào-TP Tuyên Quang
I. Đặc điểm tình hình
II. Mục tiêu cuối tuổi theo từng lĩnh vực phát triển
III. Những nội dung chủ yếu [nội dung giáo dục theo các lĩnh vực phát triển]
[là cơ sở để GV lập kế hoạch thực hiện chƣơng trình theo tháng, chủ đề]
IV. Dự kiến các chủ đề giáo dục trong năm và phân phối thời gian cho từng
chủ đề
S
Tên
Dự kiến thời
Gh
TT chủ đề
gian
i chú
V. Biện pháp thực hiện nội dung
VI. Đánh giá kết quả thực hành
c] Các bước xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình năm học theo độ tuổi
* Bước 1: Chuẩn bị. cán bộ quản lý và các giáo viên cần thu thập thông tin
làm căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch. Kết quả của bước này thể hiện trong mục
1: đặc điểm tình hình.
* Bước 2: Xác định mục tiêu cuối độ tuổi theo từng lĩnh vực phát triển [thể
chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm - xã hội, thẩm mĩ]
Mục tiêu cuối độ tuổi được xác định dựa trên các cơ sở sau:
15



- Mục tiêu cuối độ tuổi nhà trẻ [3 tuổi] hoặc tuổi mẫu giáo [6 tuổi] thể hiện
trong chương trình giáo dục mầm non.
- Dấu hiệu đánh giá ở từng lĩnh vực cụ thể cho từng độ tuổi.
- Mục tiêu phát triển trẻ ở lứa tuổi này trong tài liệu hướng dẫn thực hiện
chương trình.
- Kết quả đánh giá sự phát triển của trẻ ở năm học trước
* Bước 3: Xác định những nội dung chủ yếu trong từng lĩnh vực cho một độ
tuổi cụ thể
Những nội dung được xác định căn cứ vào:
- Các nội dung theo từng lĩnh vực của một độ tuổi cụ thể trong chương trình
giáo dục mầm non
- Mục tiêu cuối độ tuổi đã xác định ở trên
- Đặc điểm vùng miền, thực tế địa phương, trường, lớp, đặc điểm của trẻ
trong lớp
Khi đã xác định được nội dung chủ yếu trong từng lĩnh vực, những người
xây dựng kế hoạch phải dự kiến được các chủ đề sẽ triển khai thực hiện cho trẻ tìm
hiểu khám phá trong năm học, bao gồm: tên các chủ đề, dự kiến trình tự thực hiện
các chủ đề , dự kiến lượng thời gian thực hiện từng chủ đề.
Các chủ đề được lựa chọn phải dựa trên:
- Mục tiêu của chương trình
- Hứng thú và khả năng của trẻ
- Kinh nghiệm đã có [về kiến thức, kỹ năng, thái độ…]
- Điều kiện tổ chức các hoạt động
- Ý tưởng, hứng thú, hiểu biết của giáo viên
- Các sự kiện diễn ra xung quanh
- Sự hỗ trợ của phụ huynh
KL: Có nhiều cách xây dựng kế hoạch, tuy nhiên phải thể hiện rõ các
vấn đề:

- Mục tiêu, nội dung các lĩnh vực phát triển phù hợp với trẻ của trường.
- Dự kiến các chủ đề cho năm học phù hợp với điều kiện, với hoàn cảnh, với
trẻ của lớp , trẻ của từng trường và địa phương.
2. Lập kế hoạch thực hiện chƣơng trình theo tháng ở lứa tuổi nhà trẻ
Khi lập kế hoạch giáo viên không chỉ căn cứ trên kế hoạch thực hiện
chương trình theo năm học, mà còn phải tính đến khả năng, nhu cầu và hứng thú
của trẻ trong thời điểm lên kế hoạch để thúc đẩy sự phát triển của trẻ.
Tạo điều kiện cho trẻ sử dụng các giác quan trong khi khám phá hoạt
động với đồ vật, đồ chơi, vật thật.
Các kiến thức và kĩ năng, thái độ sẽ được lặp đi lặp lại trong kế hoạch
ở các mức độ khó và phức tạp tăng lên. Có thể đưa vào kế hoạch thực hiện trong 2
tuần từ 8-10 nnội dung[kiến thức, kĩ năng, thái độ] khác nhau ở cả 4 lĩnh vực phát
triển., song không phải là phân đều cho mỗi lĩnh vực, mà tùy thuộc vào điều kiện
và thời điểm thực hiện có những lĩnh vực phát triển sẽ ưu tiên hơn. Vidụ: khi lập kế
16


hoạc cho trẻ tìm hiểu về các bộ phận cơ thể thì lĩnh vực phát triển nhận thức và thể
chất sẽ được chú trọng hơn [các kĩ năng quan sát, so sánh bằng các giác quan, các
bài tập phát triển cơ bắp ]; khi cho trẻ tìm hiểu về các thành viên trong gia đình thì
các kĩ năng về tình cảm xã hội sẽ được chú trọng nhiều hơn.
Những nội dung chương trình sẽ được đưa dần dần vào các tháng, sao
cho nội dung chương trình sẽ được thực hiện đầy đủ.
Tháng............năm...............
1. Mục tiêu
Căn cứ trên kế hoạch thực hiện chương trình theo năm học, giáo viên xác
định mục tiêu: kiến thức, kĩ năng và thái độ sẽ hình thành cho trẻ theo 4 lĩnh vực
phát triển [ thể chất, nhận thức, ngôn ngữ và tình cảm xã hội]. Lựa chọn các mục
tiêu sao cho đảm bảo tính phát triển [ từ dễ đến khó, từ gần đến xa, các mục tiêu
này sẽ được Phát triển ở các tháng sau đó].

2. Chuẩn bị
Những đồ dùng, nguyên vật liệu không có sẵn hoặc yêu cầu phụ huynh phải
chuẩn bị.
3. Kế hoạch thực hiện
Các hoạt động ở tuần 1và tuần 3 được lặp lại ở trong tuần 2 và tuần 4 nhưng
mức độ khó và phức tạp sẽ được thực hiện trong kế hoạch từng hoạt động cụ thể.
Tuần 1&2

Tuần 3& 4

T
T
T
T
T
T
T
T
T
T
hƣ2 hứ3
hứ4
hứ5
hứ6
hứ2
hứ3
hứ4
hứ5
hứ6
Đón

trẻ
Thể
dục sáng[
nếu có]
Chơ
i tập có
chủ đích
Dạo
chơi ngoài
trời
Chơ
i- tập buổi
sáng
Chơ
i tập buổi
chiều

3. Lập kế hoạch thực hiện theo chủ đề
Trong chương trình chăm sóc giáo dục mầm non có đưa ra 10 chủ đề, nhưng
những chủ đề này chỉ mang tính chất gợi ý. Giáo viên tự lựa chọn các chủ đề [ chủ
17


đề lớn và các chủ đề nhỏ ] được thực hiện ở lớp mình. Kế hoạch thực hiện chủ đề
có thể theo lược đồ sau:
Tên chủ đề:...........
[........tuần, từ ngày..........đến ngày.............]
1.
Mục tiêu chủ đề
Căn cứ trên kế hoạch thực hiện chương trình theo năm học, giáo viên xác

định mục tiêu, kiến thức, kĩ năng và thái độ sẽ hình thành cho trẻ theo 5 lĩnh vực
phát triển [thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, thẩm mĩ và tình cảm- xã hội]. Không nên
đưa quá nhiều mục tiêu trong một chủ đề. Chú ý phát triển các kĩ năng ở các lĩnh
vực phát triển phù hợp với chủ đề. Lựa chọn các mục tiêu sao cho đảm bảo tính
phát triển [từ dễ đến khó, từ gần đến xa, các mục tiêu này sẽ được phát triển ở các
chủ đề tiếp theo.]
2. Chuẩn bị
Những đồ dùng, nguyên vật liệu không có sẵn hoặc yêu cầu phụ huynh phải
chuẩn bị.
3.Mạng nội dung
Giáo viên dự kiến các nội dung có thể thực hiện trong chủ đề. Mỗi nội dung
có thể coi là một chủ đề nhỏ. Giáo viên có thể chỉ dừng lại ở việc chia chủ đề lớn
thành các chủ đề nhỏ, không làm chi tiết nội dung chủ đề nhỏ mà kết hợp nội dung
trong mạng hoạt động.
4. Mạng hoạt động
Giáo viên dự kiến các hoạt động sẽ thực hiện ở mỗi chủ đề nhỏ. Lưu ý tăng
cường các hoạt động để dạy trẻ cách học [ tìm tòi, thực hành....]
5. Lập kế hoạch thực hiện
Tuần1

Tuần/thứ
Thời điểm

2

Tu

ần2
T T T T T
3 4 5 6


Đón trẻ
Thể dục
sáng
Hoạt
động chung/giờ
học
Dạo chơi
ngoài trời
Chơi ở
các góc buổi
sáng
Chơi ở
các goc buổi
chiếu
18

Tu
ần..

Tu
ần5....


Lưu ý: Giáo viên không nhất thiết phải lập kế hoạch theo cách như đã hưỡng
dẫn ở trên. Mỗi trường, thậm chí mỗi giáo viên có thể có cách làm riêng. Song cần
phải đảm bảo thực hiện được mục đích và nội dung chương trình giáo dục theo độ
tuổi.
4. Lập kế hoạch thực hiện các hoạt động giáo dục trong một ngày
5. Kế hoạch tổ chức hoạt động chăm sóc – giáo dục trẻ

Có thể soạn một dạng hoạt động thao lược đồ sau:
Tên hoạt động:..................................
Mục đích: Trong một hoạt động chỉ nên đặt ra 1-2 mục đích và cố gắng thực
hiện mục đích đó.
Chuẩn bị: Đồ dùng, đồ chơi, nguyên liệu cần, những hoạt động làm quen
trước khi tiến hành hoạt động.
Tổ chức thực hiện/ cách tiến hành: Các bước tổ chức cho trẻ thực hiện hoạt
động để đạt được mục đích đưa ra.
Lƣu ý: Mức độ chi tiết của kế hoạch hoạt động/ bài soạn tùy thuộc vào khả
năng của từng giáo viên. Đối với giáo viên mới có thể soạn chi tiết hơn so với giáo
viên có kinh nghiệm.
Những hoạt động như thể dục sáng, hoạt động chơi, dạo chơi chỉ cần soạn
một lần cho 1-2 tuần. Những lần thực hiện sau bổ sung những điểm thay đổi nếu
có.
Nếu hoạt động hoặc trò chơi được lựa chọn từ một tài liệu nào đó, trò chơi
quen thuộc, trò chơi dân gian chỉ cần ghi tên hoạt động/ trò chơi và những điều
thay đổi[ nếu có] khi thực hiện ở lớp mình, không cần chép lại mà nên trích dẫn tên
tài liệu.
D. Hƣớng dẫn sinh viên học tập
1. Hãy kể tên các loại kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục mầm non.
Trình bày cấu trúc, nội dung của từng loại kế hoạch.
2. Lập sơ đồ thể hiện trình tự các bước lập kế hoạch thực hiện chương trình
theo năm học cho từng độ tuổi.
3. Lập sơ đồ thể hiện trình tự các bước lập kế hoạch thực hiện chủ đề [ở mẫu
giáo] và kế hoạch tháng [ở nhà trẻ].
4. Thực hành nhóm: thảo luận và nêu nhận xét những bản kế hoạch đưa ra
trong phần phụ lục 1 [Một số mẫu kế hoạch – Giáo trình]
5. Hãy lập kế hoạch thực hiện chuơng trình cho một độ tuổi ở một trường cụ
thể trong năm học.
6. Hãy lựa chọn một chủ đề phù hợp với địa phương của bạn và lập kế hoạch

thực hiện chủ đề đó sao cho phù hợp với thực tế của địa phương và của trẻ ở địa
phương đó. Thành lập nhóm 4- 6 người để thảo luận và chia sẻ kinh nghiệm về vấn
đề này.
19


7. Thực hành tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động theo chủ đề do bạn tự
lập. Hãy nêu nhận xét về kết quả thực hiện kế hoạch, những vấn đề cần thay đổi
cho phù hợp với thực tế của trẻ ở lớp và điều kiện của địa phương.
8. Hãy lập kế hoạch tổ chức hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ trong một
ngày và cho một hoạt động. Thành lập nhóm và chia sẻ kinh nghiệm cho nhau.
* Thực hành: 7 tiết
1.Thảo luận và nêu nhận xét những bản kế hoạch của các trường mầm non
2. Lập kế hoạch thực hiện chương trình theo năm học, theo chủ đề…[đối
tượng tự chọn]
* Kiểm tra: 1 tiết

20


CHƢƠNG 3
TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC TÍCH HỢP
THEO CHỦ ĐỀ
14 tiết [6;8]

A. Mục tiêu của bài:
1. Kiến thức: Trang bị cho sinh viên một số kiến thức cơ bản về quan điểm
tích hợp, cách tỏ chức các hoạt động giáo dục tích hợp trong thực hiện CTGDMN
2. Kỹ năng: Sinh viên có kỹ năng cần thiết như: Vận dụng sáng tạo tri thức
cơ bản vào việc tổ chức các hoạt động giáo dục tích hợp, Bước đầu hình thành

những kỹ năng cần thiết như biết thiết kế, tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục
trẻ theo hướng tích hợp ở trường mầm non.
3.Thái độ: Giáo dục SV nghiêm túc trong học tập, tích cực trao đổi thảo luận
B. Chuẩn bị
1. Giảng viên:
- Tài liệu chính:
1. Phát triển và tổ chức thực hiện chương trình GD Mầm non- Nguyễn Thị
Thu Hiền- Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam. 2013
- Tài liệu tham khảo:
1. Bộ giáo dục đào tạo, Chương trình chăm sóc giáo dục mầm non - 2013
2. Bộ giáo dục đào tạo, Hướng dẫn thực hiện chương trình CSGD Mầm non
từ 3 - 36 tháng và 3 - 6 tuổi, 2013
3. Phạm Thị Châu- Nguyễn Thị Oanh- Trần Thị Sinh, Giáo dục học trẻ em
tác giả : NXB Đại học Quốc gia, 2010
4. Nguyễn Ánh Tuyết , GDHMN- những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB
Đại học sư phạm, 2010
5. Website chính thức của vụ GDMN: www.mamnon.edu.vn
2. Đối với sinh viên: Đọc tài liệu liên quan
2. Sinh viên: Đọc tài liệu liên quan
C. Nội dung bài giảng
I. Quan điểm tích hợp

21


Theo quan điểm của nhiều nhà khoa học, giáo dục theo hướng tích hợp là
phù hợp và có hiệu quả hơn đối với bậc học mầm non. Vậy giáo dục theo hướng
tích hợp là gì?
Tích hợp không phải là đặt cạnh nhau, liên kết với nhau mà là xâm nhập, đan
xen các đối tượng hay các bộ phận của đối tượng vào nhau tạo thành một chỉnh

thể..
Tất cả các yếu tố xã hội, tự nhiên và khoa học của môi trường đan quyện
vào nhau tạo thành môi trường sống phong phú của trẻ. Xuất phát từ quan điểm
này mà chương trình giáo dục trẻ nhỏ được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp theo
chủ đề. Giáo dục tích hợp và dạy học tích hợp nhấn mạnh việc kết hợp nhiều nội
dung giáo dục [ xã hội tự nhiên, khoa học ] thông qua các hoạt động tích cực của cá
nhân trẻ với môi trường sống của mình. Trong chách học này, trẻ học một cách tự
nhiên, không có giới hạn tuyệt đối về thời gian, không gian và môn học. Như
Bredekamp viết: “ Việc hộc không chỉ xảy ra trong phạm vi hạn hẹp của mỗi môn
học, sự học và phát triển của trẻ mang tính tích hợp. Một hoạt động thúc đẩy một
mặt phát triển nào đó đồng thời cũng tác động đến các mặt phát triển khác”.
Tích hợp được thực hiện theo nhiều cách khác nhau:
Tích hợp theo chủ đề
Tích hợp trong một hoạt động.
* Tích hợp theo chủ đề là gì?
Tích hợp theo chủ đề là việc tổ chức các hoạt động [các hoạt động có thể
trong một ngày hoặc trong một số ngày] xoay quanh nội dung một chủ đề nào đó.
Ví dụ: Thực hiện chủ đề “các loại quả”. Trong giờ học có chủ đích: cho trẻ
làm quen các loại quả, trong giờ hoạt động góc: cho trẻ nặn các loại quả, vẽ, tô màu
các loại quả, trong giờ hoạt động ngoài trời: cho trẻ quan sát vườn cây ăn quả, học
đếm các loại quả theo một dấu hiệu đặc trưng nào đó; tập pha nước cam.......
* Tích hợp trong một hoạt động là gì?
Theo chúng tôi, tích hợp trong một hoạt động thể hiện ở những điểm sau:
- Khi tổ chức một hoạt động nhằm thúc đẩy một mặt phát triển nào đó, giáo
viên cần chú ý tác động cùng một lúc đến nhiều mặt phát triển khác nhau của trẻ.
Ví dụ: Tổ chức hoạt động với đồ vật [đề tài “ Xếp nhà tặng bạn”]: mục đích
chủ yếu là phát triển, rèn luyện vận động khéo léo của bàn tay, ngón tay và hình
thành ở trẻ kĩ năng xếp chồng các hình khối gỗ theo chủ đề, nhưng đồng thời giáo
viên cũng cần khai thác nội dung đó để phát triển các mặt khác như phát triển về
mặt tình cảm- xã hội, phát triển ngôn ngữ, phát triển nhận thức...

- Tích hợp các lĩnh vực nội dung trong môt hoạt động tức là khai thác nội
dung của các lĩnh vực hoạt động khác nhau vào trong quá trình tổ chức một hoạt
động nào đó.
Ví dụ: Khi tổ chức hoạt động học có chủ đích thuộc lĩnh vực khám phá khoa
học, giáo viên có thể khai thác các nội dung có liên quan ở các lĩnh vực khác như
thơ, truyện, âm nhạc, toán, tạo hình,... nhưng cần lưu ý khai thác các nội dung gđó
phải thực hiện một cách linh hoạt, nhẹ nhàng không làm mất đi tính trọng tâm của
22


nội dung chính của giờ hoạt động. Thông thường người ta tích hợp các nội dung
khác vào đầu hoặc cuối buổi học.
Vì sao giáo dục mầm non phải lựa chọn cách tiếp cận tích hợp?
Theo chúng tôi xuất phát từ những lí do sau :
- Giáo dục tích hợp phù hợp với đặc điểm phát triển của trẻ lứa tuổi này.
- Bản thân cuộc sống chung quanh mang tính tổng thể, trọn vẹn.
II. Tổ chức các hoạt động tích hợp theo chủ đề
1. Khái niệm về chủ đề
Chủ đề trong giáo dục mầm non được hiểu là một phần nội dung kiến thức,
kĩ năng cùng phản ánh một vấn đề nào đó mà trẻ tìm hiểu, khám phá và học theo
nhiều cách khác nhau dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên trong một khoảng
thời gian thích hợp.
Chủ đề có thể rộng[ lớn] hoặc hẹp[ nhỏ]. Một chủ đề lớn có thể bao gồm
nhiều chủ đề nhỏ. Từ chủ đề quê hương- Thủ đô- Bác Hồ có thể phát triển thành
các chủ đề nhánh như: Làng Vạn Phúc của em, dân Tộc Thái của em, Người Việt
Nam, Bác Hồ với thiếu nhi, Thủ đô Hà nội....
Chủ đề có thể cụ thể nhưng có thể trừu tượng, có thể mang tính địa phương
nhưng cũng có thể mang tính chung. Trẻ càng nhỏ, Chủ đề càng phải cụ thể, gần
gũi và mang tính dịa phương có quy mô nhỏ để trẻ có thể liên hệ với những hiểu
biết và kinh nghiệm đã có của mình.

2. Yêu cầu đối với việc lựa chọn chủ đề
Chủ đề cần tính đến nhu cầu, hứng thú và những kiến thức bắt nguồn từ cuộc
sống của trẻ.
Chủ đề cần phù hợp với nhận thức của trẻ ở từng lứa tuổi. Trẻ càng nhỏ thì
chgủ đề càng phải cụ thể, mang tính địa phương và gầ gũi với hiện tại và phạm vi
nội dung hẹp.
Lựa chọ Chủ đề sao cho có thể tạo được nhiều cơ hội để trẻ khám phá, trải
nghiệm, giúp trẻ học tốt nhất.
Chủ đề có chứa đựng những giá trị xã hội mà trẻ cần để sống.
Chủ đề phải đáp ứng được các mục tiêu trong chương trình.
giáo viên có đủ nguồn để cung cấp kinh nghiệm cho trẻ bao gồm cả kinh
nghiệm kiến thức, khả năng tổ chức những ý tưởng thành chủ đề, có thể tổ chức
các hoạt động với đồ vật, đồ chơi, vật thật; các hoạt động đáp ứng nhu cầu và hứng
thú của trẻ, các hoạt động sử dụng các giác quan.
Tên Chủ đề dễ hiểu, gần gũi với trẻ.
Chủ đề phải được tiến hành tối thiểu trong thời gian một tuần.
3. Các cách lựa chọn chủ đề.
Có nhiều cách lựa chọn chủ đề nhưng phổ biến có 3 cách sau:
a. Cách thứ nhất là lựa chọn Chủ đề xuất phát từ trẻ: Đây là cách giáo viên
lựa chọn Chủ đề dựa trên sự quan tâm, hứng thú kinh nghiệm của trẻ, cụ thể thông
qua xảy ra. Lựa chọn, chủ đề theo cách này thường gây sự hứng thú cho trẻ, làm
23


cho chương trình có độ linh hoạt cao, phát huy được sự sáng tạo chủ động của giáo
viên nhưng đòi hỏi giáo viên phải có trình độ chuyên môn, nhạy cảm với những gĩ
xảy ra trên trẻ. Mặt khác, không phải lúc nào trẻ cũng thể hiện một cách rõ ràng
những hứng thú của các biểu hiện, các câu hỏi, các thứac mắc của trẻ về những sự
kiện, hiện tượng đang bản thân.
b. Cách thứ hai là lựa chọn chủ đề xuất phát từ giáo viên: là những chủ đề do

giáo viên chủ động đưa ra dựa trên các chủ đề gợi ý trong chương trình và hướng
dẫn thực hiện chương trình. Mục đích của giáo viên khi thực hiện chủ đề là nhằm
đạt được một mục tiêu giáo dục nhất định nào đó.
Với các chủ đề này, để tạo ra sự hứng thú ở trẻ, tránh sự áp đặt, giáo viên
nên giới thiệu trước với trẻ ý tưởng chính của chủ đề, cho phép trẻ tham gia xây
dựng mạng nội dung cũng như các hoạt động mà trẻ thích.
Hướng xây dựng Chủ đề theo cách này sẽ djễ dàng hơn cho giáo viên trong
quá trình thực hiện.hd
c. Cách thứ 3 là lựa chọn chủ đề xuất phát từ những sự kiện, hiện tượng diễn
ra xung quanh trẻ. Ví dụ nhhư sự kiện Seagame 22, Worlcup...
* Khi lựa chọn chủ đề giáo viên cần lưu ý.
+Thời gian thực hiện một chủ đề cần tính đến hứng thú của trẻ, không
nên kéo dài quá khi trẻ không còn hứng thú nữa. giáo viên có thể kéo dài hoặc
giảm bớt thời gian tùy thuộc vào hứng thú của trẻ và điều kiện thực hiện chủ đề đó.
+
Trình tự thực hiện có thể thay đổi, tùy thuộc vào điều kiện, thời điểm
để thực hiện chủ đề tốt nhất [trẻ có điều kiện quan sát và thực hành]
+
Tên chủ đề, thời gian thực hiện chủ đề, số lượng chủ đề và trình tự
thực hiện chủ đề ở các lớp có thể khác nhau.
+
Nội dung của chủ đề sẽ là phương tiện để hình thành và phát triển các
kĩ năng, tình cảm thái độ ở trẻ. Do đó, tùy thuộc vào mỗi chủ đề cụ thể, giáo viên
chú trọng phát triển ở các mlĩnh vực nhất định. Ví dụ: Như những chủ đề thuộc
lĩnh vực tự nhiên có ưu thế phát triển nhận thức, ngôn ngữ, những chủ đề thuộc
lĩnh vực xã hội có ưu thế hơn về phát triển tình cảm, thái độ....
Như vậy việc lựa chọn chủ đề không phải chỉ dựa vào chương trình và
hướng dẫn thực hiện chương trình như hiện nay một số trường mầm non vẫn làm.
Điều cơ bản cần lưu ý là giáo viên phải biết phối hợp một cách hợp lý giữa các
cách lựa chọn, biết cân bằng giữa cách lựa chọn xuất phát từ cô và cách lựa chọn

xuất phát từ trẻ.
4. Tạo ra hệ thống chủ đề [ hay ngân hàng chủ đề] cho trẻ từng lứa tuổi
nhƣ thế nào?
Tạo ra một hệ thống chủ đề là điểm khởi đầu cho việc lập kế hoạch thực hiện
chủ đề.
Các bạn có thể tham khảo các gợi ý sau đây về cách xác lập hệ thống chủ đề.
Đầu tiên tất cả giáo viên trong khối lớp ở từng lứa tuổi tự mình tạo lập hệ thống các
chủ đề dựa trên các chủ đề lớn được gợi ý trong chương trình. Số lượng chủ đề
càng nhiều càng tốt. Sau đó các giáo viên này sẽ ngồi tập trung lại với nhau cùng
24


trao đổi, chia sẻ và thảo luận kết quả vừa thu được. Chắc chắn rằng, trong nhóm sẽ
có chủ đề cùng xuất hiện. Một số chủ đề chỉ có ở một hay một số người. Khi xem
xét kết quả của đồng nghiệp, chúng ta có thể ghi lại những ý tưởng đó. Đương
nhiên chúng ta có thể bổ sung thêm các ý tưởng mới xuất hiện ở trong đầu. Việc
cuối cùng là ghi chép lại hệ thống chủ đề của nhóm lứa tuổi. Đây là căn cứ để lập
kế hoạch thực hiện chủ đề sau này của từng nhóm lớn. Tuy nhiên, trong quá trình
thực hiện mỗi nhóm, lớp có thể thay đổi, bổ sung chủ đề hoặc phát triển chủ đề nảy
sinh từ các sự kiện diễn ra ở trong lớp hoặc ở trẻ.
Cách làm này có thể áp dụng cho cả việc xây dựng kế hoạch thực hiện chủ
đề.
5. Tổ chức thực hiện chủ đề
Việc thực hiện chủ đề được tiến hành theo 3 giai đoạn:
a. Giai đoạn 1: chuẩn bị
Trong giai đoạn này, giáo viên cần thực hiện nhưng nội dung công việc như
sau:
Lập kế hoạch thực hiện chủ đề.
Thiết kế môi trường học tập để thực hiện chủ đề: Khi tiến hành chủ đề thì
phần lớn môi trường lớp học thể hiện nội dung của chủ đề đó. Tùy thuộc vào khả

năng thực tế về đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu để bố trí môi trường lớp học. Sự
bố trí này chỉ mang tính chất gợi ý cho trẻ hoạt động và sắp xếp môi trường của
mình. Môi trường này sẽ được hoàn thiện trong quá trình thực hiện chủ đề. Giáo
viên cho phép trẻ tham gia vào việc tổ chức môi trường học tập để gây hứng thú
cho trẻ đến chủ đề.
Kiến thức và kinh nghiệm của giáo viên về chủ đề.
b]Giai đoạn 2: Thực hiện chủ đề
Việc thực hiện chủ đề được tiến hành theo 3 bước:
Bƣớc 1: Bắt đầu chủ đề [hay Mở chủ đề ]
Mục đích: Tạo sự chú ý, quan tâm và kích thích sự hứng thú của trẻ đối với
nội dung chủ đề, khai thác kinh nghiệm sẵn có của trẻ về chủ đề để hình thành vấn
đề cần tìm hiểu.
Cách tiến hành: chủ đề có thể giới thiệu cho trẻ bằng nhiều cách khác nhau.
Tuy nhiên giáo viên có thể sử dụng những phương pháp dưới đây một cách linh
hoạt để dẫn dắt trẻ hướng vào chủ đề một cách tự nhiên như:
- Trò chuyện, đàm thoại để giúp trẻ nhớ lại những kinh nghiệm và
kiến thức liên quan đến chủ đề, thông qua đó giáo viên cũng biết được mức độ nắm
kiến thức của trẻ về chủ đề.
- Các hoạt động thể hiện kinh nghiệm của trẻ về chủ đề như vẽ, hát, kể
chuyện, minh họa bằng động tác để tăng cảm xúc. Tất cả những hoạt động đó đều
hướng vào tạo hứng thú và sự quan tâm bước đầu của trẻ đối với chủ đề.
- Khi đã thu hút được sự quan tâm, chú ý, tạo được sự hứng thú của trẻ
đối với chủ đề, giáo viên lần lượt đặt các câu hỏi, đưa ra các vấn đề mà trẻ chưa
biết, chưa trả lời được hay chưa giải quyết được để kích thích nhu cầu muốn tìm
25


nhận thức của giáo viên mầm non về cách tiếp cận tích hợp trong giáo dục mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [1.73 MB, 113 trang ]

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Hồng Thắm

NHẬN THỨC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON VỀ
CÁCH TIẾP CẬN TÍCH HỢP TRONG
GIÁO DỤC MẦM NON

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Hồng Thắm
NHẬN THỨC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON VỀ
CÁCH TIẾP CẬN TÍCH HỢP TRONG
GIÁO DỤC MẦM NON

Chuyên ngành: Giáo dục học [mầm non]
Mã số: 60 14 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THỊ THU HIỀN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố trong bất kì công
trình nào khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên
Trần Thị Hồng Thắm


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được sự động viên, giúp đỡ và hỗ
trợ nhiệt tình từ gia đình, thầy cô, nhà trường và bạn bè. Tôi gửi lời cảm ơn chân thành
đến:
- Gia đình đã luôn luôn mang lại sức mạnh tinh thần cho tôi;
- Tiến sĩ Phan Thị Thu Hiền – giáo viên hướng dẫn trực tiếp đã tận tình giúp đỡ,
chỉ dẫn và định hướng cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn chỉnh luận
văn;
- Quý Thầy Cô trường ĐHSP TP HCM, Đại học Sài gòn, Cao đẳng Sư phạm
Trung ương TP HCM đã tận tình giảng dạy, cung cấp cho tôi những kiến thức
hữu ích trong suốt thời gian học tập chương trình cao học tại trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh;
- Quý Thầy Cô phòng Sau đại học Trường ĐHSP TP HCM đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong quá trình học và nghiên cứu;
- Các chuyên gia, giảng viên sư phạm trường Đại học sài gòn, Cao đẳng Sư phạm
Trung ương TP HCM, Cao đẳng sư phạm Bình Phước;
- Cán bộ Phòng mầm non, ban giám hiệu, giáo viên mầm non 21 trường mầm non
trên địa bàn TP HCM và tỉnh Bình Phước đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện
cho tôi trong quá trình nghiên cứu.
Cuối cùng, xin kính gửi lời chúc sức khỏe và hạnh phúc đến tất cả mọi người.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng 09 năm 2014
Học viên
Trần Thị Hồng Thắm


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 2
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu ........................................................................ 2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 2
6. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 2
7. Đóng góp mới của đề tài ......................................................................................... 4
8. Cấu trúc của luận văn.............................................................................................. 4
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI............................................................... 5
1.1. Bối cảnh nghiên cứu ............................................................................................. 5
1.2. Cơ sở lý luận của đề tài ........................................................................................ 6
1.2.1. Cách tiếp cận tích hợp trong giáo dục............................................................ 6
1.2.1.1. Tích hợp là gì? ......................................................................................... 6
1.2.1.2. Vì sao nên dạy trẻ mầm non theo hướng tích hợp? ............................... 13
1.2.1.3. Những khó khăn của GVMN trong việc hiểu và thực thi tích hợp ....... 18
1.2.2. Nhận thức của GVMN về cách tiếp cận tích hợp trong GDMN.................. 21
1.2.2.1. Nhận thức của GVMN ........................................................................... 21

1.2.2.2. Nhận thức của GVMN ảnh hưởng đến thực tế dạy học của họ ............. 22
1.2.2.3. Những yếu tố chi phối GVMN nhận thức về cách tiếp cận tích hợp
và thực tế dạy học tích hợp của họ ........................................................ 22


Chương 2. THỰC TRẠNG NHẬN THỨC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON VỀ
TÍCH HỢP................................................................................................ 26
2.1. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 26
2.2. Phương pháp tìm hiểu thực trạng ....................................................................... 27
2.2.1. Các phương pháp thu thập số liệu ................................................................ 27
2.2.2. Phương pháp xử lý số liệu............................................................................ 29
2.3. Kết quả tìm hiểu thực trạng nhận thức của GVMN về cách tiếp cận tích hợp
trong GDMN....................................................................................................... 30
2.3.1. Một số thông tin của GVMN trên hai địa bàn điều tra ................................ 30
2.3.2. Giáo viên mầm non hiểu cách tiếp cận tích hợp như thế nào? .................... 33
2.3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức của GVMN về cách tiếp cận tích
hợp và dạy học theo hướng tích hợp ............................................................ 57
2.3.4. Những đề xuất nhằm nâng cao nhận thức của GVMN về chương trình
GDMN với cách tiếp cận tích hợp ............................................................... 67
2.4. Đề xuất biện pháp nâng cao nhận thức của GVMN về cách tiếp cận tích hợp
trong GDMN....................................................................................................... 68
2.4.1. Cơ sở đề xuất biện pháp ............................................................................... 68
2.4.2. Một số biện pháp nâng cao nhận thức của GVMN về tích hợp và vận
dụng vào thực tế dạy học ............................................................................. 68
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................................... 71
PHỤ LỤC ....................................................................................................................... 1
PHỤ LỤC 1 ..................................................................................................................... 2
PHỤ LỤC 2 ..................................................................................................................... 9
PHỤ LỤC 3 ................................................................................................................... 14
PHỤ LỤC 4 ................................................................................................................... 23



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Diễn giải

GDMN

Giáo dục mầm non

GVMN

Giáo viên mầm non

TP HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

BH

Bảng hỏi

GV

Giáo viên

GH

Ban giám hiệu


GD

Cán bộ phòng mầm non

CG

Chuyên gia


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Bảng 2.2. Thông tin của GVMN trên 2 địa bàn điều tra
Bảng 2.3. Đánh giá của GVMN về việc tổ chức hoạt động tích hợp và tích hợp trong
GDMN
Bảng 2.4. Đánh giá của GVMN về những khó khăn khi thực hiện chương trình với
cách tiếp cận tích hợp


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Trình độ chuyên môn
Biểu đồ 2.2. Thâm niên
Biểu đồ 2.3. Quan niệm của GVMN về tích hợp trong GDMN
Biểu đồ 2.4. Quan niệm của GVMN về tích hợp giữa 2 địa bàn
Biểu đồ 2.5. Đánh giá của GVMN về ưu điểm của tích hợp theo chủ đề
Biểu đồ 2.6. Đánh giá của GVMN về hạn chế của tích hợp theo chủ đề
Biểu đồ 2.7. Đánh giá của GVMN về những thành công khi thực hiện chương trình
GDMN với cách tiếp cận tích hợp
Biểu đồ 2.8. Đánh giá của GVMN về những khó khăn khi thực hiện chương trình với
cách tiếp cận tích hợp

Biểu đồ 2.9. Ý kiến của GVMN về những yếu tố ảnh hưởng đến việc hiểu và thực hiện
chương trình với cách tiếp cận tích hợp


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tích hợp là một trong những cách tiếp cận tiên tiến để xây dựng chương trình giáo
dục các cấp nói chung và giáo dục mầm non [GDMN] nói riêng. Tư tưởng này đã
được các nhà giáo dục phương tây [Froebel, Steiner…] [14, tr.6] nói đến từ cuối thế kỉ
19, đầu thế kỉ 20. Đổi mới GDMN ở Việt Nam trong 16 năm qua [1998 – 2014] cũng
không nằm ngoài xu hướng đó. Vì sao tích hợp lại được lựa chọn khi đổi mới chương
trình GDMN?
Trước hết, khối lượng tri thức đang gia tăng mạnh mẽ chưa từng thấy - kiến thức
cũ đi 30% / năm [các nghiên cứu về công nghệ đổi mới - đại học Cambridge 2012], sự
thử thách và cạnh tranh quốc tế thúc đẩy các nhà cải cách GDMN Việt Nam ngay từ
những thập niên 90 đã thấy là phải làm một cái gì đó để thay đổi tình hình giáo dục.
Câu trả lời cho vấn đề này là cải cách chương trình đào tạo theo những tiêu chuẩn và
những điểm mốc đánh giá mới. Cách tiếp cận tích hợp trong GDMN là lựa chọn hợp lý
vì nó đáp ứng được xu thế phát triển của thời đại và mục tiêu giáo dục của thế kỉ 21.
Do đó, nếu giáo viên mầm non [GVMN] hiểu rõ bản chất tích hợp sẽ thực thi tốt
chương trình GDMN và đào tạo được nhiều thế hệ trẻ thích ứng cao cho các bậc học
tiếp theo, ngược lại sẽ gặp rất nhiều khó khăn cho việc học sau này của trẻ.
Giáo viên luôn là thành phần đóng vai trò cực kì quan trọng đưa đến thành công
trong công tác giáo dục ở mọi thời đại cũng như mọi quốc gia trên thế giới. Từ kinh
nghiệm được tiếp xúc trực tiếp với GVMN trong thực tế giảng dạy tại trường sư phạm
cũng như việc đưa sinh viên đi thực tập hàng năm tại một số trường mầm non, tôi nhận
thấy, GVMN chưa tiếp cận một cách rõ ràng những điểm mới từ chương trình đang
thực thi [cả chương trình GDMN đổi mới - 1998 đến chương trình GDMN mới 2009]. Từ đó, họ tổ chức các hoạt động giáo dục ở trường mầm non còn mang hình

thức đối phó và đậm dấu ấn của chương trình cải cách. Ở đây, năng lực nhận thức của
GVMN trong việc hiểu và thực thi cách tiếp cận tích hợp trong GDMN đang là rào cản
rất lớn. Chính vì thế, việc nâng cao nhận thức của GVMN để họ hiểu tích hợp và thực
thi đúng tinh thần của chương trình với cách tiếp cận tích hợp đang là vấn đề cấp thiết.


2

Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài tìm hiểu thực trạng “Nhận thức của giáo
viên mầm non về cách tiếp cận tích hợp trong GDMN”.
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định thực trạng nhận thức của GVMN về cách tiếp cận tích hợp trong GDMN
và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức của GVMN về cách tiếp cận
tích hợp trong GDMN.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhận thức của GVMN về cách tiếp cận tích hợp trong GDMN.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Quá trình thực thi cách tiếp cận tích hợp trong GDMN.
4. Giả thuyết khoa học
Nhận thức của GVMN về cách tiếp cận tích hợp trong GDMN có thể đạt được
thành công: trẻ được học mọi lúc mọi nơi, nhận ra ý nghĩa của việc học đồng thời có
thể còn khó khăn khi GVMN chưa có nhận thức rõ ràng về cách tiếp cận tích hợp do
ảnh hưởng bởi một số yếu tố xuất phát từ bản thân GVMN, các cấp quản lý, cơ sở đào
tạo.
5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu này tìm hiểu nhận thức của GVMN về cách tiếp cận tích hợp trong
GDMN; thực hiện ở 20 trường mầm non đa dạng về loại hình và chất lượng trên địa
bàn tỉnh Bình Phước [2 thị xã và 3 huyện] và TP HCM [4 quận nội thành, 1 quận vùng
ven và 1 huyện ngoại thành].

6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Hệ thống hóa lý luận về i] cách tiếp cận tích hợp trong GDMN và ii] nhận
thức của GVMN về lý luận dạy học.
6.2. Khảo sát thực trạng nhận thức của GVMN về cách tiếp cận tích hợp trong
GDMN.
6.3. Thử lý giải bức tranh thực trạng thu được, từ đó đề xuất một số biện pháp
nhằm nâng cao nhận thức của GVMN về cách tiếp cận tích hợp trong GDMN.
7. Phương pháp nghiên cứu


3

Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, tôi sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau: nghiên cứu tài liệu, điều tra bằng bảng hỏi, quan sát,
phỏng vấn và xử lý số liệu.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Tôi tìm hiểu, thu thập, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa những tài liệu có liên
quan nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài và làm bằng chứng để lý giải thực trạng.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi nhằm tìm hiểu thực trạng nhận thức
của GVMN về cách cách tiếp cận tích hợp trong GDMN, cụ thể là:
-

GVMN hiểu tích hợp là gì?

-

Đánh giá của GVMN về cách tiếp cận tích hợp: những ưu điểm và hạn chế;

-


Đánh giá của GVMN về thực tế dạy học theo hướng tích hợp ở các trường mầm

non hiện nay: thành công và khó khăn;
-

Ý kiến của GVMN về những yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức của GVMN về

cách tiếp cận tích hợp và việc dạy học theo hướng tích hợp của họ; và
-

Những đề xuất của GVMN nhằm nâng cao nhận thức của họ về tích hợp và vận

dụng vào thực tế dạy học có hiệu quả.
Phương pháp quan sát
Bên cạnh phiếu hỏi để thăm dò ý kiến của giáo viên, tôi tiến hành quan sát thực tế
dạy học của GVMN nhằm hiểu thêm về thực trạng thực hiện tích hợp trong GDMN: so
sánh nhận thức và đánh giá của GVMN về cách tiếp cận tích hợp với thực tế dạy học ở
các trường mầm non.
Phương pháp phỏng vấn
Ngoài ra, tôi phỏng vấn 6 GVMN; 4 cán bộ quản lý trường mầm non và 4 cán bộ
sở, phòng mầm non; 4 giảng viên các trường sư phạm để tìm hiểu ý kiến của họ về đề
tài đang nghiên cứu:
-

Thực trạng nhận thức của GVMN về cách tiếp cận tích hợp và ảnh hưởng lên

thực tế dạy học của họ;
-


Những thành công và khó khăn của GVMN khi nhận thức về tích hợp và vận

dụng vào thực tế dạy học của họ; và


4

-

Ý kiến đề xuất của các đối tượng phỏng vấn để góp phần làm cho nhận thức của

GVMN về cách tiếp cận tích hợp đạt hiệu quả hơn.
Phương pháp xử lý số liệu
Với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS [Statistical Package for the Social Sciences]
16.0, công ty IBM [International Business Machines Corporation] - Hoa Kỳ, tôi xử lý
số liệu thu thập được từ phiếu hỏi, từ đó phân tích kết quả số liệu và đưa ra nhận xét.
8. Đóng góp mới của đề tài
8.1. Đề tài đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về cách tiếp cận tích hợp
trong giáo dục, GDMN; những khó khăn của GVMN trong việc hiểu và thực thi tích
hợp; nhận thức của GVMN, nhận thức của GVMN ảnh hưởng đến thực tế dạy học
cũng như những yếu tố ảnh hưởng nhận thức về tích hợp và dạy học theo hướng tích
hợp của họ.
8.2. Đề tài đã chỉ ra thực trạng nhận thức của GVMN về cách tiếp cận tích hợp
trong GDMN tại một số trường mầm non trên địa bàn tỉnh Bình Phước, TP HCM dựa
trên cơ sở lý luận, các phương pháp nghiên cứu [điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn,
quan sát] và hỗ trợ của phần mềm xử lý số liệu SPSS.
8.3. Đề tài đã đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức của GVMN về
cách tiếp cận tích hợp trong GDMN và vận dụng vào thực tế dạy học đạt hiệu quả dựa
trên cơ sở lý luận, kết quả phân tích thực trạng cũng như những đề xuất của GVMN,
các bên liên quan và nhận định của người nghiên cứu.

9. Cấu trúc của luận văn
Chương 1 nói rõ sự cần thiết tiến hành nghiên cứu này trong phần bối cảnh nghiên
cứu và trình bày cơ sở lý luận về cách tiếp cận tích hợp; nhận thức của GVMN về cách
tiếp cận tích hợp trong GDMN.
Chương 2 cụ thể hóa mục tiêu nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu tìm hiểu thực
trạng trong đó trình bày cụ thể cách lấy số liệu cũng như xử lý số liệu; lý giải bức
tranh thực trạng nhận thức của GVMN về cách tiếp cận tích hợp trong GDMN. Xuất
phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn, xây dựng một vài biện pháp nâng cao nhận thức của
GVMN về cách tiếp cận tích hợp và vận dụng vào thực tế dạy học hiệu quả đáp ứng
chương trình GDMN đang thực thi. Kết thúc luận văn tôi đưa ra kiến nghị.


5

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Dạy kiến thức tách rời sẽ không chuẩn bị cho học
sinh những kinh nghiệm của cuộc sống thực.
John Dewey [9, tr.83]
1.1. Bối cảnh nghiên cứu
Kỷ nguyên công nghệ với sự bùng nổ của công nghệ truyền thông, kiến thức được
cung cấp khi ngồi trên ghế nhà trường không còn đáp ứng đủ cho con người sống
trong xã hội hiện đại cùng với việc không đủ thời gian cho người học tiếp nhận tri thức
ngày càng đổi mới trong nền kinh tế tri thức. Do đó, con người cần năng động, tích
cực, chủ động trong học tập cũng như khi giải quyết mọi tình huống trong cuộc sống
một cách tổng thể. Nhìn thấy những hạn chế của mô hình dạy học cũ - lấy thầy làm
trung tâm - với cách dạy học truyền đạt không còn phù hợp trong xã hội hiện đại
[người học đa dạng, tri thức cũ đi nhanh chóng…], từ đó các nhà hoạch định chương
trình nhận định cần chuyển sang mô hình dạy học mới - lấy người học làm trung tâm với cách học thông qua trải nghiệm của chính bản thân người học; có năng lực tự học;
khả năng thích ứng với sự phát triển thần tốc của kỷ nguyên công nghệ và năng lực
giải quyết các vấn đề của cuộc sống hiện đại. Chính vì thế, đòi hỏi giáo dục phải đào

tạo những con người có khả năng học tập suốt đời, thích ứng với sự thay đổi của xã
hội và môi trường sống. Xuất phát từ xu thế hội nhập giáo dục các nước trên thế giới
cùng thực tế xã hội Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định đổi mới chương trình
GDMN là hết sức cần thiết. Chính vì thế, chương trình GDMN đổi mới từ năm 1998
và gần đây nhất là chương trình GDMN mới [2009] với cách tiếp cận tích hợp đáp ứng
được yêu cầu bức thiết của xã hội cũng như mục tiêu giáo dục của thế kỉ 21.
Theo Esbjörn-Hargens [dẫn theo [30, tr.14]] lý thuyết tích hợp được vận dụng
trong hơn 35 lĩnh vực chuyên môn và học thuật khác nhau, cho thấy nhiều ứng dụng
của tích hợp và sự cần thiết phải tích hợp trong xã hội hiện đại. Tích hợp trong GDMN
giúp trẻ thấy được ý nghĩa của việc học, mối liên hệ của các sự vật hiện tượng trong


6

thế giới một cách thống nhất và toàn vẹn khi trẻ đắm mình khám phá thế giới theo
cách riêng của trẻ: học qua chơi; học qua khám phá trải nghiệm của chính bản thân
thông qua hoạt động trong các chủ đề hay sự kiện phát sinh; học theo hứng thú... Điều
này càng chứng minh sự cần thiết và đúng đắn khi chương trình các cấp nói chung và
GDMN nói riêng được thiết kế xây dựng theo hướng tích hợp.
Cùng với sự biến đổi của xã hội, nền giáo dục nước nhà còn nhiều biến động thì vai
trò của người giáo viên càng được quan tâm và đề cao, do đó, người giáo viên phải
thực sự là người thầy sáng tạo và hoạt động có hiệu quả. Jerome Bruner [55] cho rằng
giáo viên có vai trò làm “giàn giáo” [scaffolding] trong quá trình dạy và học. Chính vì
thế, có những công trình nghiên cứu [38] khẳng định năng lực nhận thức của giáo viên
đóng vai trò cực kì quan trọng trong quá trình giáo dục, thành tích học tập của học sinh
cũng như tiếp cận với những vấn đề mới; và nếu giáo viên được tham gia trong quá
trình xây dựng và phát triển chương trình thì họ sẽ dễ dàng thích ứng với thực tế dạy
học. Trong khi đó, các công trình nghiên cứu về nhận thức của GVMN cũng như nhận
thức của GVMN về cách tiếp cận tích hợp trong chương trình GDMN ở Việt Nam vẫn
chưa được chú ý đúng mức.

Chương trình GDMN 16 năm đổi mới nhưng lại chưa có công trình nghiên cứu nào
sâu và cụ thể. Ðó là một trong những lý do thôi thúc tôi nghiên cứu đề tài này để lý
giải bức tranh thực trạng đang diễn ra từ đó làm hành trang cho công tác của mình, góp
phần hỗ trợ giáo viên hiểu và thấy được ý nghĩa sâu của cách tiếp cận tích hợp cũng
như những lợi ích mà chương trình với cách tiếp cận mang lại. Từ đó giúp giáo viên có
cái nhìn chính xác hơn để hỗ trợ cho công việc giảng dạy của họ cũng như việc học tập
suốt đời của người học.
1.2. Cơ sở lý luận của đề tài
1.2.1. Cách tiếp cận tích hợp trong giáo dục
1.2.1.1. Tích hợp là gì?
a. Quan niệm về tích hợp trong giáo dục
Trong tiếng Anh tích hợp được viết là “integration” có nguồn gốc từ tiếng Latin
[integer] có nghĩa là “whole” [toàn bộ, toàn thể], là hành động hoặc cách thức kết hợp
hai hoặc nhiều bộ phận với nhau trong một tổng thể. Trong khi Clark [42] chỉ ra rằng:


7

tích hợp là cách tìm kiếm các mối quan hệ thông qua các kỹ năng siêu nhận thức, tư
duy phê phán, từ đó thấy được ý nghĩa của việc học; là quá trình người học kiến tạo tri
thức thông qua việc học tập sâu sắc [deep learning], tìm tòi khám phá... Và học tập
chính là tiến trình tích hợp nhiều kiến thức nhờ đó người học có thể đối mặt những vấn
đề hay tình huống phức tạp. Thêm vào đó Beane [34, tr.9] cũng cho rằng “tích hợp có
nghĩa trọn vẹn và thống nhất chứ không phải là tách và phân mảnh”.
Theo từ điển Tiếng việt [20, tr.1217], tích hợp là “lắp ráp, nối kết các thành phần
của một hệ thống để tạo nên một hệ thống đồng bộ”. Như vậy để có một hệ thống
đồng bộ thì các thành tố của hệ thống cần được nối kết hay lắp ráp với nhau. Từ điển
giáo dục học [11, tr.383] cũng chỉ ra tích hợp là “hành động liên kết các đối tượng
nghiên cứu, giảng dạy, của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng
một kế hoạch dạy học”. Trong dạy học, tích hợp được hiểu như là sự liên kết các đối

tượng giảng dạy, học tập trong cùng một kế hoạch để đảm bảo sự hài hòa, thống nhất,
toàn vẹn của hệ thống dạy học nhằm đạt được mục tiêu một cách hiệu quả.
Có thể hiểu, theo nghĩa động, tích hợp là hành động, cách thức nối kết hai hay
nhiều bộ phận thành một hệ thống trọn vẹn và thống nhất; tích hợp cũng là cách tìm
kiếm, là quá trình kiến tạo tri thức giúp người học đối phó với môi trường làm việc
phức tạp và đa diện [Jacob, theo [42]] và phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề trong xã
hội hiện đại [Davis, theo [42]] cũng như thấy được ý nghĩa của việc học [42] trong một
tổng thể trọn vẹn, thống nhất đã được kết nối một cách tự nhiên, hài hòa. Theo nghĩa
tĩnh, “tích hợp là trạng thái có tính liên kết, tính thâm nhập và tương tác của các lĩnh
vực giáo dục riêng lẻ” [17, tr.143]. Có nghĩa là các lĩnh vực giáo dục riêng rẽ liên kết,
thâm nhập, tương tác với nhau trong một khoảng thời gian nào đó.
Tích hợp liên môn và xuyên môn đã và đang được hướng đến trong xã hội hiện đại:
d’Hainaut [dẫn theo [22, tr.48-49]] khẳng định “nhu cầu của xã hội đòi hỏi chúng ta
phải hướng tới một quan điểm liên môn và xuyên môn” trong đó quan điểm “liên môn”
có sự đóng góp, liên kết của nhiều môn học để giải quyết những vấn đề, tình huống cụ
thể và quan điểm “xuyên môn” phát triển ở người học những kĩ năng có thể áp dụng
trong cuộc sống. Hỗ trợ quan điểm d’Hainaut, xuất phát từ kinh nghiệm cá nhân,
Drake và Burns [37] đưa ra ba cách tiếp cận tích hợp đó là tích hợp đa môn


8

[Multidisciplinary Integration], tích hợp liên môn [Interdisciplinary Intergration] và
tích hợp xuyên môn [Transdisciplinary Intergration]. Trong đó, tích hợp liên môn
được hiểu khi nhiều môn học liên quan được kết lại thành một môn học mới; tích hợp
xuyên môn giáo viên tổ chức chương trình xoay xung quanh câu hỏi và những mối
quan tâm của học sinh từ đó người học phát triển kĩ năng sống và vận dụng vào cuộc
sống thực, có hai con đường đó là học tập theo dự án và thương lượng chương trình
học. Thêm vào đó, Franzie [40] dùng “phép ẩn dụ về lát đá cẩm thạch so với chiếc
bánh bông lan để biểu hiện cấp độ khác nhau của tích hợp, bánh bông lan có nghĩa là

mỗi lớp bánh đại diện một môn khoa học duy trì một bản sắc trong một khóa khoa học
tổng quát trong khi lát đá cẩm thạch gồm nhiều vấn đề dựa trên các ngành khoa học
khác nhau góp phần giải quyết vấn đề”. Ở Việt Nam, tích hợp liên môn đã được tác
giả Phạm Thị Kim Anh [4, tr.169] nói đến: “tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách
hữu cơ, có hệ thống các kiến thức trong một môn học hoặc giữa các môn học thành
một nội dung thống nhất”. Có thể thấy quan niệm liên môn, xuyên môn của các nhà
giáo dục Việt Nam và trên thế giới tương đồng, hỗ trợ nhau: hình ảnh bánh bông lan
tượng trưng cho tích hợp liên môn, hình ảnh lát đá cẩm thạch tượng trưng cho tích hợp
xuyên môn. Giáo dục cần hướng đến tích hợp liên môn và xuyên môn, như thế người
học sẽ có hiểu biết sâu sắc và vận dụng được kiến thức để giải quyết vấn đề, tình
huống trong cuộc sống thực, thấy được ý nghĩa của việc học.
Hơn nữa, nhà giáo dục Bennet [Anh] [tài liệu tập huấn giáo viên tiểu học trường
quốc tế Việt Úc - Phan Thị Thu Hiền, 2013] cho rằng tích hợp các môn học là một
trong những yếu tố đem lại hiệu quả của mô hình dạy học mới – lấy học sinh làm trung
tâm, khuyến khích học sinh tích cực, chủ động. Như vậy, tích hợp các môn học, lấy
người học làm trung tâm và dạy học tích cực luôn đi liền nhau không tách rời. Quả thế,
nếu dạy học tích hợp và dạy học tích cực hay lấy người học làm trung tâm không liên
kết với nhau sẽ khó đạt được mô hình dạy học hiệu quả.
Tóm lại, trong giáo dục tích hợp không phân chia các môn học riêng rẽ mà đảm
bảo mối liên kết giữa các môn học, các lĩnh vực nhận thức một cách có ý nghĩa thông
qua tìm hiểu, khám phá những vấn đề, chủ đề gắn liền với cuộc sống. Bởi “kiến thức
học rời rạc sẽ nhanh chóng bị lãng quên” [53] và học những môn học riêng rẽ thì


9

người học khó liên kết các mảng kiến thức lại với nhau để vận dụng vào cuộc sống. Do
đó dạy học tích hợp giúp người học thấy ý nghĩa của việc học trong một chỉnh thể
thống nhất cũng như vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề trong cuộc sống thực.
Ngoài ra, để đạt được mô hình dạy học hiệu quả, trong thực tế dạy học tích hợp luôn đi

kèm với lấy người học làm trung tâm [luôn tôn trọng cách học của người học] và dạy
học tích cực [người học chủ động giải quyết vấn đề, học qua trải nghiệm của chính
mình…].
b. Quan niệm về tích hợp trong GDMN
Bên cạnh chương trình giáo dục phù hợp, cần lựa chọn cách tổ chức nội dung học
phù hợp đến người học. Sự phân chia các môn học rạch ròi như những ngăn kéo riêng
rẽ hay đảm bảo mối liên kết giữa các môn học, các lĩnh vực nhận thức. Đâu là cấu trúc
nội dung học phù hợp với trẻ lứa tuổi mầm non? Cách tổ chức nội dung học đảm bảo
mối liên kết của các môn học, các lĩnh vực nhận thức là phù hợp với trẻ mầm non, trẻ
mầm non cần học theo cách tiếp cận tích hợp. Hỗ trợ cho nhận định này, Bredekamp
[dẫn theo [7, tr.33]] cho rằng “việc học của trẻ không chỉ xảy ra trong phạm vi hạn
hẹp của mỗi môn học; sự phát triển và học của trẻ mang tính tích hợp”. Các nhà giáo
dục [8], [15] cũng cho rằng: trẻ nhìn nhận thế giới một cách tổng thể và tự nhiên như
là nó vốn có, không chia cắt rạch ròi các sự vật hiện tượng, có nghĩa là trẻ không nhìn
nhận, phân tích thế giới từng chi tiết mà nhìn một cách tổng thể, học một vấn đề và
nhiều khía cạnh theo vấn đề đó. Fisher [dẫn theo [14, tr.8]] viết “trẻ nhỏ học qua con
đường chỉnh thể thống nhất chứ không phải qua những ngăn hộp ngăn nắp và gọn
gàng chứa đựng tri thức”. Như vậy, cách tổ chức nội dung học “lồng ghép nhiều môn
học trong một hoạt động và đảm bảo sự liên kết giữa các mảng kiến thức bằng cách tổ
chức nội dung chương trình giáo dục thành các chủ đề” [14, tr.3] phù hợp với trẻ
mầm non. Bởi lẽ, kiến thức trẻ lĩnh hội ở lứa tuổi mầm non còn nông cạn, hời hợt, bề
ngoài, chưa chuyên sâu và chưa trừu tượng. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trọng lượng não
rất nhanh đặc biệt là giai đoạn 0 đến 3 tuổi; mỗi người có bộ não rất riêng, phong cách
riêng khi xử lý thông tin và dạy học tích hợp não sẽ xử lý thông tin tốt hơn dạy học rời
rạc; dạy học tích hợp giúp trẻ nhìn thấy các mối liên hệ về kiến thức và kỹ năng giữa
các lĩnh vực [36].


10


Vì sao dạy học tích hợp đảm bảo các mối liên kết? Vì tích hợp không phân chia các
môn học riêng rẽ mà trong cùng hoạt động, chủ đề nó đồng thời khám phá được nhiều
môn học hay lĩnh vực nhận thức. Quả thế, việc học của trẻ cần đảm bảo sự liên kết,
đan xen các nội dung học trong các chủ đề giáo dục và các chủ đề này phải gắn liền
với cuộc sống, là một phần của cuộc sống, nó như sợi chỉ đỏ liên kết những gì trẻ học.
Một số tác giả [8, tr.10] nhận định “hoạt động dạy học ở mẫu giáo được tổ chức theo
hướng tiếp cận tích hợp các nội dung học. Các nội dung học này không phân chia
thành các “bộ môn” mà kết hợp trong một chủ đề có chứa đựng những tri thức sơ
đẳng của đời sống văn hóa – xã hội và tự nhiên”. Có nghĩa khi trẻ khám phá chủ đề
cũng đồng thời khám phá nhiều lĩnh vực kiến thức khác nhau trong đời sống tạo cơ hội
cho trẻ trở thành “nhà nghiên cứu” tích cực, năng động, có khả năng vận dụng kiến
thức, kĩ năng vào cuộc sống thực có ý nghĩa [15, tr.26]. Nhận định trên càng được
chứng minh khi một số tác giả [8, tr.12], [15, tr.26] nhấn mạnh: “tích hợp nhìn nhận
thế giới tự nhiên, xã hội và con người như là một thể thống nhất, không chia cắt rạch
ròi các sự vật và hiện tượng của thế giới xung quanh, tích hợp không chỉ là đặt các đối
tượng cạnh nhau, liên kết các đối tượng với nhau mà còn là xâm nhập, đan xen các
đối tượng hay các bộ phận của đối tượng vào nhau, tạo thành một chỉnh thể…”. Điều
cần nhấn mạnh ở đây là sự đan xen, xâm nhập các đối tượng để tạo nên chỉnh thể chứ
không phải là đặt cạnh hay liên kết đối tượng với nhau, có thể hiểu dạy học phải làm
sao giúp trẻ thấy được các mối liên hệ tự nhiên giữa những gì trẻ học trong một chỉnh
thể thống nhất chứ không phải là cố gắng gượng ép, chắp vá hay phối hợp các đối
tượng với nhau. Với cách tổ chức nội dung học đảm bảo mối liên kết của các môn học,
các lĩnh vực nhận thức không chỉ phù hợp với trẻ lứa tuổi mầm non mà hiện nay ngay
cả phổ thông trung học cũng đang nói đến tích hợp. Bởi vì, nếu các môn học bị chia
cắt có nghĩa là mối liên hệ tự nhiên của chúng đã bị chặt đứt, kiến thức sẽ rời rạc, tách
rời, nội dung kiến thức được đặt trong các “khoang kín nước” sẽ nằm mãi trong đó và
“không thể có giá trị trong những điều kiện thực của cuộc sống” [9, tr.84]. Ph.ĂngGhen [1, tr.74] viết “tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một hệ
thống, một tập hợp gồm các vật thể khăng khít với nhau…”. Chính vì thế cần dạy học
tích hợp để giúp trẻ thấy được mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng, đối tượng trong



11

một chỉnh thể thống nhất. Hơn nữa, cách tổ chức nội dung học không chỉ đảm bảo mối
liên kết giữa các môn học, các lĩnh vực nhận thức bằng cách tổ chức nội dung chương
trình thành các chủ đề mà còn phát triển nhiều mặt giáo dục bởi tích hợp còn là sự đan
xen của các mặt giáo dục. Về khía cạnh này một số tác giả [8, tr.12] cho rằng “trẻ mẫu
giáo phát triển về nhiều mặt: thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm – xã hội, thẩm
mĩ – sáng tạo…; các mặt này có liên quan chặt chẽ với nhau. Do đó, việc chăm sóc
nuôi dưỡng và giáo dục trẻ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và được tiến hành đồng
thời, không có sự tách bạch”. Bredekamp [dẫn theo [7, tr.33]] nhận định “một hoạt
động thúc đẩy một mặt phát triển nào đấy thì cũng tác động đến các mặt phát triển
khác”. Quả thế, cùng lúc nhà giáo dục có thể đạt được nhiều mục tiêu phát triển trong
cùng một hoạt động của trẻ vì “giáo dục tích hợp ở bậc học mầm non chính là quá
trình tác động sư phạm một cách phù hợp với sự phát triển tình cảm, đạo đức và trí
tuệ của trẻ” [15, tr.26]. Như vậy, cùng lúc trẻ không chỉ được học nhiều môn học mà
còn phát triển nhiều mặt giáo dục thông qua các hoạt động, chủ đề giáo dục. Trái lại,
tác giả Nguyễn Thị Thanh Hà [3, tr.117] lo ngại “chương trình với cách tiếp cận tích
hợp theo chủ đề cũng tiềm ẩn nguy cơ áp đặt nội dung hoạt động từ giáo viên lên trẻ”.
Về vấn đề này, các nhà giáo dục trên thế giới [Palmer và Pettitt] cũng cho rằng dạy
học tích hợp cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ rắc rối. Tuy nhiên, không nhất thiết các lĩnh
vực giáo dục là ngang bằng nhau trong mỗi chủ đề bởi lẽ tri thức ở mỗi lĩnh vực, mỗi
môn học có những điểm đặc trưng riêng. Hỗ trợ nhận định này, Palmer và Pettitt [dẫn
theo [14, tr.5]] lưu ý “giáo viên có thể tích hợp các môn học theo kiểu không đảm bảo
sự công bằng và giá trị của từng môn học” và nhấn mạnh “trong những chủ đề chung
và rộng, chúng ta có thể dành chỗ cho hầu hết các môn học liên quan vị trí trung tâm
ít nhất là tại một thời điểm. Hoặc là một số hoạt động riêng bên ngoài chủ đề có thể là
cần thiết”. Bởi lẽ “chương trình tích hợp không phải là thuốc chữa bách bệnh cho mọi
vấn đề giáo dục. Cách tiếp cận chương trình tích hợp chỉ được xem như là công cụ có
thể giúp giáo dục học sinh và khuyến khích họ trong quá trình học tập” [57, tr.2-3].

Tích hợp được hiểu rộng hơn là cách tổ chức hoạt động dạy học mọi lúc mọi nơi,
trong mọi hình thức dạy học và trong nuôi có dạy, trong dạy có nuôi, học mà chơi,
chơi mà học - gắn với khái niệm “ngày tích hợp”, “nội dung học không phân chia vào


12

các giờ học” [8, tr.10]. Cách hiểu này rộng hơn cách hiểu về phương thức tích hợp
thống nhất các lĩnh vực giáo dục: “tìm ra mối liên hệ phụ thuộc giữa các lĩnh vực giáo
dục trong một dạng hoạt động của trẻ hoặc trong mục tiêu và nội dung giáo dục, trong
đó có một lĩnh vực là chủ đạo và các lĩnh vực khác chỉ ở vai trò bổ sung” [17, tr.177].
Điều này dễ nhận thấy khi quan niệm cho rằng hoạt động dạy học ở mọi lúc mọi nơi,
trong mọi hoạt động ở trường mầm non trong đó có những hoạt động chứa trong lòng
phần lớn các lĩnh vực nhưng cũng có những hoạt động chỉ chứa vài lĩnh vực giáo dục,
điều cần nhấn mạnh ở đây là các lĩnh vực đó có sẵn những mối liên hệ tự nhiên, vốn
có. Với quan niệm hoạt động dạy học thực hiện trong giờ học tích hợp trong đó có một
lĩnh vực là chủ đạo và các lĩnh vực khác ở vai trò bổ sung khi cố gắng tìm ra mối liên
hệ phụ thuộc giữa các lĩnh vực giáo dục. Tuy nhiên, Bennett [56] cho rằng “ngày tích
hợp có thể thành công xuất sắc và có thể thảm hại, ngày tích hợp vô tổ chức không có
lợi cho trẻ và chán nản, mệt mỏi cho giáo viên”. Chính vì thế, để có ngày tích hợp
thành công giáo viên cần có kế hoạch tương đối cũng như sự hợp tác của trẻ. Hỗ trợ
cách hiểu này, thuật ngữ “chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non” trong chương trình
GDMN thể hiện sự liên kết chặt chẽ giữa “chăm sóc” và “giáo dục” và mối quan hệ
này là bất khả xâm phạm [indissoluble] [48, tr.25]. Thuật ngữ này rộng, toàn diện, tích
hợp và thống nhất cách tiếp cận.
Trong chương trình với cách tiếp cận tích hợp theo chủ đề, kiến thức được xem xét
theo chiều dài từ giai đoạn chuẩn bị đến đánh giá thực hiện chủ đề. Trong đó, chủ đề
“là một phần nội dung kiến thức, kĩ năng cùng phản ánh một vấn đề nào đó mà trẻ có
thể tìm hiểu, khám phá và học” [12, tr.9], chủ đề là hình thức nhà giáo dục liên kết các
môn học, các lĩnh vực giáo dục. Giáo viên có thể dạy học truyền đạt trong chương

trình GDMN với cách tiếp cận tích hợp theo chủ đề? Hoàn toàn có thể. Để tránh nguy
cơ người dạy truyền đạt tri thức đến người học trong chương trình tích hợp, dạy học
tích hợp phải luôn đi kèm với dạy học tích cực và lấy trẻ làm trung tâm. Như vậy, tích
hợp các môn học, lấy trẻ làm trung tâm và dạy học tích cực là một khối thống nhất
trong mô hình dạy học hiệu quả. Bởi lẽ, nếu nhà giáo dục dạy học tích hợp thì vẫn có
thể dạy truyền đạt hoặc nếu dạy học lấy trẻ làm trung tâm, dạy học tích cực trong khi
kiến thức vẫn tách biệt từng môn học như những ngăn kéo thì trẻ sẽ không thấy được ý


13

nghĩa của việc học cũng như khó vận dụng kiến thức có được ở nhà trường vào thực tế
cuộc sống. Đó là nguyên nhân Franzie [40] cho rằng chương trình phân môn không
thu hút người học trong những tình huống thực của cuộc sống do đó được thay thế
bằng chương trình tích hợp.
Tóm lại, tích hợp trong GDMN được hiểu không phân chia các môn học, các lĩnh
vực nhận thức hay các mặt giáo dục riêng rẽ trong những ngăn hộp mà đảm bảo mối
liên kết giữa chúng thông qua các chủ đề giáo dục gắn liền với cuộc sống; tổ chức hoạt
động mọi lúc mọi nơi, trong mọi hình thức dạy học; tích hợp luôn tôn trọng cách học
của trẻ [lấy trẻ làm trung tâm] và trẻ phải chủ động giải quyết vấn đề, đắm mình vào
cuộc sống, cho trẻ hoạt động, học qua trải nghiệm của chính mình. Chính vì thế, tích
hợp luôn đi kèm với dạy học tích cực và lấy trẻ là trung tâm. Chương trình GDMN
Việt Nam với cách tiếp cận tích hợp theo chủ đề hiện nay là phù hợp bởi vì “Nếu trẻ
không được dạy theo cách này, ý tưởng trở thành “trơ” và kiến thức vẫn “chết”. Kết
quả, đứa trẻ không hiểu được mối liên hệ giữa cuộc sống hàng ngày và những gì trẻ
được giảng dạy trong trường học” [41].
1.2.1.2. Vì sao nên dạy trẻ mầm non theo hướng tích hợp?
a. Cơ sở lý luận của tích hợp
“Tích hợp” không còn quá xa lạ đối với mọi người nói chung và những người hoạt
động trong lĩnh vực giáo dục nói riêng, có lẽ nó tồn tại cùng với sự tồn tại của con

người vì “cuộc sống là bài học tích hợp” trong mọi thời đại. “Vì cuộc sống quanh trẻ,
tự bản thân nó, đã tồn tại trong một logic tích hợp” [22]. Thế giới luôn có những mối
quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng, nó là cái vốn có, là cái khách quan, đó là “sự tác
động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các
giai đoạn phát triển của một sự vật, hiện tượng” [2, tr.322]. Xuất phát từ cuộc sống và
mong muốn người học thành công trong học tập cũng như trong xã hội, các nhà tâm lý
- giáo dục học từ thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 đã có tư tưởng về xây dựng mô hình dạy học
tích hợp và lấy trẻ làm trung tâm. Đại biểu là Frobel [dẫn theo [14, tr.7]], một trong
những nhà giáo dục người Đức nổi tiếng trên thế giới, viết: “đừng bao giờ quên rằng
nhiệm vụ chính yếu của trường học không phải là dạy thật nhiều mà là kết nối sự đa
dạng và nhiều vẻ của tất cả mọi sự vật để làm nổi bật sự thống nhất muôn thuở có ở


14

trong tất cả mọi sự vật”. Cùng với Frobel, Steiner [58] với quan điểm phát triển cá
nhân người học và coi phát triển nhận thức, tình cảm và hành vi của trẻ em được liên
kết với nhau. Ngoài ra, những luận điểm chính trong thuyết phát sinh nhận thức của
Piaget làm cơ sở xây dựng mô hình tích hợp trong GDMN. Trước hết, Piaget nhấn
mạnh sự phát triển cá nhân của mỗi đứa trẻ - học tập là quá trình cá nhân trẻ phải tự
hình thành các tri thức cho bản thân mình. Quan điểm này thống nhất với các quan
niệm “lấy trẻ làm trung tâm”, người học là “người tự lực, tích cực hành động tìm tòi,
khám phá” - Brunner đề xuất hay Paulo Friere [thuyết phê phán] cho rằng trẻ em có
quyền chủ động và lựa chọn trong mọi hoạt động [28, tr.2]; thứ hai, cấu trúc nhận thức
được hình thành dần dần, tuần tự trên cơ sở các kích thích của môi trường xung quanh
– phù hợp quá trình phát triển của trẻ; thứ ba, quá trình phát triển nhận thức phụ thuộc
vào sự trưởng thành và chín muồi của các chức năng sinh lý thần kinh - các giai đoạn
phát triển trí tuệ của trẻ em. Quá trình này là tiền đề để người lớn lựa chọn, tổ chức các
hoạt động thách thức trẻ và đưa trẻ vào những tình huống phải đối mặt cần giải quyết
từ đơn giản đến phức tạp dần theo khả năng cũng như độ tuổi. Từ lý thuyết của Piaget

và lý thuyết “vùng phát triển gần” của Vugotxky, Bruner xây dựng mô hình dạy học
đòi hỏi giáo viên phải tạo môi trường ở đó trẻ được tự lực tìm tòi khám phá theo khả
năng, hứng thú cùng với việc trẻ có thể tự do đặt câu hỏi hay đưa ra những vấn đề đến
giáo viên hoặc các chuyên gia cũng như lý thuyết “giàn giáo” trong đó giáo viên chắp
cánh cho trẻ phát triển ở mức độ cao hơn. Thêm vào đó, Beane [34] chỉ ra rằng chương
trình tích hợp xuất phát từ quan điểm kiến tạo, người học có cơ hội vận dụng kỹ năng,
kiến thức để nghiên cứu trả lời cho những câu hỏi hay mối quan tâm của chính mình
và vì thế nó có ý nghĩa hơn việc người học chỉ tập trung chuẩn bị cho kì thi hay lớp
học tiếp theo. Quan điểm trên của Frobel, Steiner, Piaget, Vugotxky… phù hợp với
giáo dục hiện đại ngày nay và được vận dụng vào việc xây dựng, phát triển chương
trình GDMN lấy trẻ làm trung tâm, học qua chơi, dạy học tích cực và dạy học tích
hợp.
Xuất phát từ cơ sở tâm – sinh lý của trẻ mầm non, trẻ như một thực thể tích hợp, trẻ
nhìn nhận thế giới một cách tổng thể và tự nhiên như là nó vốn có [các yếu tố tự nhiên
xã hội và khoa học đan quyện vào nhau tạo thành thể thống nhất] chứ không chia cắt


15

rạch ròi các sự vật hiện tượng. Một số nhà nghiên cứu đã khẳng định “trẻ em học
trong những năm đầu của cuộc sống nhiều hơn bất cứ giai đoạn phát triển nào” [43,
tr.2], do đó họ cho rằng đây là “thời điểm vàng” để chăm sóc và giáo dục trẻ em. Bởi
lẽ, tốc độ tăng trọng lượng não rất nhanh đặc biệt là giai đoạn 0 đến 3 tuổi; mỗi người
có bộ não rất riêng, phong cách riêng khi xử lý thông tin và dạy học tích hợp não sẽ xử
lý thông tin tốt hơn dạy học rời rạc. Các nhà tâm lý – giáo dục học đã chứng minh hoạt
động chủ đạo ở từng giai đoạn lứa tuổi là khác nhau trong đó hoạt động chơi phù hợp
cho mọi giai đoạn vì chơi là cơ chế tự nhiên để học tập và mang đầy ý nghĩa, bởi thế
chơi và học có mối quan hệ cực kì chặt chẽ [36]. Không những thế, Vưgốtxki cho rằng
chơi là điểm khởi đầu cho sự phát triển và giúp trẻ phá vỡ rào cản giữa các môn học,
các lĩnh vực phát triển. Bên cạnh đó ngôn ngữ, các quá trình tâm lý cùng các phẩm

chất tâm lý phát triển nhanh và ngày càng hoàn thiện. Vugotxky [dẫn theo [14, tr.8-9]]
nhấn mạnh sự liên kết, đan xen của các chức năng tâm lý trong quá trình phát triển:
Những chức năng tâm lý khác nhau [chú ý, trí nhớ, tri giác, ý chí và tư duy]
không phát triển bên cạnh nhau như là bó các cành cây được đặt trong một
cái bình, chúng cũng không phát triển giống như các cành cây khác nhau
mọc trên cùng một cây và được kết nối với nhau bởi thân cây. Trong quá
trình phát triển tất cả những chức năng đó hợp thành một hệ thống có phân
cấp phức tạp trong đó chức năng trung tâm, hay chủ đạo, chính là sự phát
triển của tư duy, chức năng hình thành khái niệm.
Quả vậy, nếu đánh đồng sự phát triển là như nhau của các chức năng tâm lý ở mỗi
trẻ hay các giai đoạn phát triển thì giáo dục khó đi đến sự thành công, vì vậy, tiếp cận
cá nhân trong giáo dục cần được xem xét giống như tầm quan trọng khi nhà giáo dục
nắm lấy giai đoạn “phát cảm” trong sự phát triển của trẻ. Vai trò “điểm tựa”, “giàn
giáo” [thân cây] của nhà giáo dục càng được khẳng định, do đó quá trình tổ chức các
hoạt động cho trẻ trải nghiệm cần dựa trên các đặc điểm tâm – sinh lý lứa tuổi mầm
non.
Trên đây là cơ sở lý luận, những định hướng quan trọng trong đổi mới giáo dục
theo hướng tích hợp. Tóm lại, cách tiếp cận tích hợp trong giáo dục được xây dựng từ
những tư tưởng tiến bộ, hiện đại của nhiều nhà triết học, tâm lý - giáo dục học nổi


16

tiếng trên thế giới. Điều này làm xua tan những nghi ngờ khi chương trình GDMN
được xây dựng với cách tiếp cận tích hợp mang lại những thành công đáng kể.
b. Tích hợp mang lại gì cho trẻ?
Đây là câu hỏi của khá nhiều người trong lĩnh vực giáo dục từ những người quan
tâm cũng như không quan tâm đến tích hợp. Tích hợp thực sự mang lại gì cho người
học - trẻ lứa tuổi mầm non? Nhiều nghiên cứu của các nhà giáo dục trên thế giới từ
cấp học mầm non đến đại học trong phong trào tiến bộ giáo dục đều đi đến kết luận:

“lấy người học làm trung tâm với cách tiếp cận tích hợp là phù hợp và đem lại hiệu
quả cao trong quá trình giáo dục” [49, tr.14]. Trước hết, tích hợp giúp trẻ dễ dàng
trong việc vận dụng những gì đã học vào cuộc sống thực bởi lẽ khi dạy học tích hợp,
nội dung dạy học thường xoay xung quanh những chủ đề gần gũi với trẻ, trẻ được học
từ những tình huống thực trong cuộc sống do đó trẻ thấy được mối liên hệ giữa những
gì trẻ học với cuộc sống cũng như phát huy được vốn kinh nghiệm đã có của mình.
Chứng minh cho nhận định này, Fan [38] cho rằng, nếu người học không được học
trong chương trình tích hợp thì sẽ khó thấy được mối quan hệ giữa cuộc sống hàng
ngày với kiến thức được trang bị ở trường, không có khả năng đánh giá, không có sự
sáng tạo. Trong khi đó khả năng tự học, đánh giá, năng lực sáng tạo là những thành tố
quan trọng giúp con người thành đạt trong cuộc sống. Tiếp đến, tích hợp giúp người
học nhận ra ý nghĩa của việc học cũng như nắm được giá trị sâu của tri thức, bởi “tri
thức khoa học phụ thuộc vào sự hiểu biết về những ứng dụng đời sống xã hội hàng
ngày” [9, tr.135]. Do đó trẻ sẽ có cơ hội vận dụng kiến thức và kỹ năng của mình vào
các lĩnh vực khác có liên quan hay giải quyết các vấn đề của cuộc sống thực. Từ đó,
trẻ trở nên tự tin, độc lập hơn không chỉ trong học tập mà còn trong cuộc sống, đây
chính là động lực thúc đẩy trẻ tích cực tham gia cũng như khởi xướng nhiều hoạt động,
chuẩn bị cho học tập suốt đời và cuộc sống trong tương lai. Quả vậy, giáo dục tích hợp
không chỉ giúp con người thông minh mà còn để trở thành một người tốt; không chỉ
cho mọi người kiến thức mà còn giúp họ vận dụng kiến thức thực sự uyên thâm vào
các lĩnh vực của cuộc sống thực; không có sự phân chia giữa nhà trường và xã hội, học
tập và cuộc sống con người, kiến thức và lòng tốt [38].


Video liên quan

Chủ Đề