Câu chuyện cậu be thông minh có mấy nhân vật

Một ông vua sai viên quan đi tìm người hiền tài. Viên quan ấy đến đâu cũng ra những câu đố hóc búa để thử tài.

Một hôm, thấy hai cha con làm ruộng, quan hỏi một câu hỏi khó “trâu của lão cày một ngày được mấy đường?”. Cậu con trai nhanh trí hỏi vặn lại khiến viên quan thua cuộc. Nhận ra người tài, viên quan về báo vua. Vua tiếp tục thử tài, bắt dân làng đó nuôi để trâu đực đẻ ra trâu con. Cậu bé nghĩ ra cách và cứu được dân làng. Lần thử tài sau, cậu bé vượt qua thử thách khiến vua nể phục.

Vua láng giềng có ý xâm lược, muốn dò xét nhân tài nước ta, sai sứ giả mang sang chiếc vỏ ốc vặn thật dài và đố xâu sợi chỉ qua. Cả triều không ai tìm ra cách, vua tìm cậu bé. Cậu bé thông minh chỉ ra cách giải, giúp đất nước tránh được một cuộc chiến. Vua phong cậu làm trạng nguyên.

I. Đọc - Hiểu văn bản

Câu 1 : Hình thức dùng câu đố để thử tài nhân vật có phổ biến trong truyện cổ tích không ? Tác dụng của hình thức này ?

- Hình thức dùng câu đố để thử tài nhân vật khá phổ biến trong truyện cổ tích.

- Tác dụng của hình thức này là :

+ Tạo ra tình huống để phát triển cốt truyện.

+ Tạo ra sức hấp dẫn cho truyện.

+ Tạo ra thử thách cho nhân vật bộc lộ tài năng phẩm chất.

Câu 2 : Sự mưu trí, thông minh của em bé được thử thách qua mấy lần ? Lần sau có khó hơn lần trước không ? Vì sao ?

- Sự mưu trí, thông minh của em bé được thử thách qua 4 lần :

+ Lần 1: đáp lại câu đố của viên quan [trâu cày một ngày được mấy đường]

+ Lần 2: đáp lại thử thách của vua với dân làng về việc nuôi ba con trâu đực trong ba năm thành chín con

+ Lần 3: vượt qua thử thách của vua [về việc làm một con chim sẻ thành ba cỗ thức ăn]

+ Lần 4: vượt qua thử thách của sứ thần nước ngoài về việc xâu một sợi chỉ mảnh qua ruột con ốc vặn rất dài

- Qua bốn lần, cứ thử thách sau lại khó hơn lần trước, bởi vì :

+ Về vị trí quan trọng của người đố : lần đầu là viên quan, hai lần tiếp theo là vua và lần cuối cùng là em bé phải "đương đầu" với người nước ngoài.

+ Nội dung và yêu cầu của câu đố ngày càng oái oăm, khiến những thành phần giải đố [bố, dân làng, các đại thần] đều bất lực, vò đầu suy nghĩ, lắc đầu bó tay.


Câu 3 : Trong mỗi lần thử thách, em bé đã dùng những cách gì để giải những câu đố oái oăm ? Theo em, những cách ấy lí thú ở chỗ nào ?

- Trong mỗi lần thử thách, em bé đã dùng những cách rất thông minh để giải đố :

+ Lần 1 :  Cậu bé giải đố bằng cách đố lại : ngựa một ngày đi mấy bước.

+ Lần 2 : Cậu bé giải đố bằng cách đóng kịch, trách cha không đẻ em bé để cho vua tự nói điều phi lí. Cậu bé dùng lí lẽ của vua [giống đực không đẻ] để bác ý vua.

+ Lần 3 : Cậu giải đố bằng cách đố lại : yêu cầu vua rèn cái kim may thành dao để làm thịt con chim sẻ dọn thành ba cỗ thức ăn.

+ Lần 4 : Cậu bé giải bằng kinh nghiệm dân gian khiến mọi người bất ngờ thú vị vì nó giản dị và hồn nhiên.

- Những cách giải đó nói trên của em bé thông minh rất lí thú : khi thì làm cho người ra câu đố tự thấy tính chất phi lí của câu đố, khi thì khéo léo chuyển thế bí sang người ra câu đó. Đồng thời, cách giải đố của em bé không dựa vào kiến thức sách vở mà sử dụng ngay kiến thức trong đời sống, làm cho người ra câu đố, người chứng kiến và người nghe ngạc nhiên và thán phục, chứng tỏ trí tuệ thông minh sắc sảo hơn người của em bé.


Câu 4 : Hãy nêu ý nghĩa của truyện cổ tích Em bé thông minh.

- Truyện đề cao trí thông minh của con người. Đó là trí thông minh được đúc rút từ kinh nghiệm phong phú của đời sống và khả năng vận dụng thích hợp trong thực tế.

- Truyện tạo ra các tình huống bất ngờ, đem lại tiếng cười thú vị.

II. Luyện tập

Câu 1 : Kể diễn cảm truyện này.

Học sinh tự thực hiện.

- Để kể diễn cảm truyện Em bé thông minh, cần xác định và nêu bật các tình huống truyện, đồng thời giọng kể và giọng đối thoại đặc sắc giữa em bé với người ra câu đố, câu nói của người cha...

- Riêng lời đối thoại của em bé, cần thể hiện sự hồn nhiên dí dỏm phù hợp với lứa tuổi của nhân vật chính.

 

Câu 2 : Hãy kể một câu chuyện "Em bé thông minh" mà em biết.

Nội dung câu chuyện Em bé thông minh được kể phải có tình huống nổi bật để thể hiện những yếu tố thông minh của nhan vật được kể.

Bạn tham khảo nhé

Bài làm

Thông minh vốn là quý thật của con người. Sự thông minh và trí khôn dân gian giúp con người vượt qua những thách đố oái ăm, có được nguồn trí thức cần thiết cho cuộc sống. Câu chuyện Em bé thông minh là tôi kể ra đây sẽ thể hiện điều đó. Chuyện như sau.

Thuở xưa có vị vua nọ sai một viên quan đi dò la khắp nơi tìm người tài giỏi. Viên quan đi thật nhiều nơi, đến nhiều chỗ, đến đâu cũng ra những câu đố oái ăm để hỏi mọi người. Thế nhưng viên qua thấy vẫn chưa có người nào thông minh, lỗi lạc.

Một hôm, viên quan cưỡi ngựa đi qua một cánh đồng làng, chợt thấy bên đường có hai cha con nhà nọ đang cày ruộng. Quan bèn dừng lại hỏi:

- Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường? Câu hỏi thật khó nên người cha chỉ biết ngẩn ra, chưa tìm được cau trả lời cho viên quan. Thấy thế, đứa con chừng bảy, tám tuổi nhanh miệng hỏi lại quan rằng:

- Thế xin hỏi lại ông câu này đã. Ông cho tôi biết ngựa của ông đi một ngày được mấy bước thì tôi sẽ cho ông hay trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.

Viên quan nghe cậu bé hỏi vậy thì há hốc mồm sửng sốt, chưa biết đáp sao cho ổn. Quan thầm nghĩ, nhất định nhân tài có ở đây rồi, cha phải đi tìm đâu cho tốn công sức. Quan bèn hỏi tên, quê quán của hai cha con rồi một mạch về tâu vua.

Nghe chuyện, vua mừng lắm. Nhưng, để biết chính xác hơn, vua cho thử tài một lần nữa. Vua sai ban cho làng có em bé ở ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh nuôi làm sao cho ba con trâu đực ây đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải nộp đủ, nếu không thì cả làng bị tội.

Khi nghe tin này, cả làng đều lo lắng. Bao nhiêu cuộc họp làng, bao nhiêu lời bàn ra tán vào nhưng vẫn chưa tìm được cách giải quyết. Mọi người đều lo cho tai họa sắp tới. Việc đến tai em bé con người dân cày, em liền bảo cha:

- Chả mấy khi được lộc vua ban, cha cứ thưa với làng giết thịt hai con trâu nấu thúng gạo nếp để dân làng ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một trâu, một thúng gạo, ta xin làng làm tổn phí cho cha con mình trẩy kinh lo liệu việc này.

- Đã ăn thịt trâu còn lo liệu thế nào? Mày đừng có bày dại mà bay mất đầu, con ạ!

- Cha cứ mặc con lo liệu, liệu thế nào cũng xong xuôi mọi chuyện.

Người cha ra đình trình bày ý kiến với dân làng. Mọi người nghe nói đều sứng sốt, đến nước cùng, họ nghe theo nhưng bắt cha con phải làm giấy cam đoan, rồi ngả trâu đánh chén.

Sau đó mấy hôm, hai cho con lên đường vào kinh thành. Đến hoàng cung, người con bảo cho đứng đợi ở ngoài còn mình thì lẻn vào sân rồng khóc nức nở. Vua sai lính đưa em bé vào, phán hỏi:

- Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?

Em bé vờ vĩnh đáp rằng:

- Tâu đức vua, mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cho con đẻ được nhờ.

Nghe nói, vua và các quan đều bật cười. Vua lại phán:

- Mày muốn có com thì phải kiếm vợ khác cho cha mày, chứ cha mày là giống đực sao mà đẻ được.

Em bé như mở cờ trong bụng. Em đáp:

- Thế sao làng của con lại bị lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!

Vua cười bảo:

- Ta thử đấy thôi! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra giết thịt mà ăn với nhau à?

Em bé tươi tỉnh đáp:

- Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc vua ban, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.

Vua và các triều thần chịu đứa bé là thông minh, lỗi lạc. Nhưng vua còn muốn thử em một lần nữa. Qua hôm sau, khi hai cha con đang ăn cơm ở công quán, bỗng có sứ nhà vua mang đến một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Em bé nhờ cho lấy cho mình một cái kím may rồi đưa cho sứ giả, bảo rằng:

- Ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.

Sứ giả về tâu vua, vua thán phục tài trí của cậu bé rồi lập tức cho gọi ca hai cha con vào, ban thưởng rất hậu.

Cùng thời gian đó, có một nướng láng giềng lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta. Để dò xem bên ta có nhân tài hay không, họ sai sứ giả đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rộng hai đầu, đố làm sao xâu một sởi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.

Sau khi nghe sứ thần trình bày mục đích của cuộc đi sứ ở nước ta, vua quan đưa mắt nhìn nhau, chẳng tìm ra câu giải đáp. Không trả lời được câu đố oái ăm tức là tỏ ra thua kém và thừa nhận sự khuất phục của mình đối vơi nước láng giềng. Các đại thần đều vò đầu suy nghĩ. Có người dùng miệng hút, có người lấy sáp bôi vào sợi chỉ cho cứng để dễ xâu... Nhưng tất cả đều vô hiệu. Bao nhiêu nhà thông thái, bao nhiêu trạng nguyên được triệu vào đều lắc đầu bó tay. Cuối cùng, triều đình mời sứ thần ra ở công quán để có thời gian hỏi ý kiến em bé thông minh nọ.

Khi viên quan mang dụ chỉ đến thì em bé còn đùa nghịch ở sau nhà. Nghe nói việc xâu chỉ vào vỏ ốc, em bé hát lên rằng:

Tang tình tang, tình tính tang

Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng

Bên thời lấy giấy mà bưng

Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang

Tang, tình tang...

Em bé bào thêm:

- Cứ theo cách đó là xâu được ngay!

Viên quan mừng rỡ vội trở về tâu vua. Vua và các triều thần nghe nói rất vui mừng, mọi người vơi đi những lo toan trong bụng. Quả nhiên con kiến càng đã xâu được sởi chỉ xuyên qua đường ruột ốc hộ cho nhà vua trước sự thán phục của sứ giả láng giềng.

Thế là, em bé được vua ban làm Trạng Nguyên và được vua cho dinh thự ở một bên hoàng cung để vua tiện hỏi han.

Sự thông minh của em bé đã làm nên việc lớn. Trí thông minh của em đã giúp ích cho gia đình, giúp ích cho quê hương, đất nước.

Video liên quan

Chủ Đề