Dđè án ảnh hương công nghiệp vào tingr thanh hóa

Trong 9 tháng năm 2023, phần lớn các sản phẩm công nghiệp chủ yếu của tỉnh Thanh Hóa đều có sản lượng sản xuất tăng trưởng cao so với cùng kỳ; trong đó có một số sản phẩm tăng mạnh, như: Clinker tiêu thụ tăng 67,3%, dầu mỡ bôi trơn tăng 70,2%, điện sản xuất tăng 74,1%, thức ăn gia súc tăng 15,4%, dầu nhiên liệu tăng 18,1%, benzen tăng 26,5%...

Bên cạnh đó, có một số ít sản phẩm có sản lượng giảm do có khó khăn nội tại từ lâu chưa được khắc phục triệt để, như: bia, thuốc lá, thép… Việc nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn phải tạm dừng sản xuất để bảo dưỡng trong thời gian 55 ngày [từ ngày 25/8/2023] đã ảnh hưởng lớn đến sản lượng và giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Thanh Hóa.

Nhưng, một số nhà máy khôi phục tối đa công suất sản xuất đã bù đắp cơ bản việc giảm sản lượng của các sản phẩm lọc hóa dầu như: Nhà máy xi măng Đại Dương hoạt động hết công suất trở lại từ tháng 4/2023, Nhà máy xi măng Long Sơn đã hoạt động hết công suất trở lại cả 4 dây chuyền…

Sản xuất điện năng thương phẩm dự kiến đạt 5,314 tỷ kWh [tăng 4,5% so với cùng kỳ], đạt 63,3% so với kế hoạch năm; điện sản xuất dự kiến đạt 9,142 tỷ kWh [tăng 68,51% so với cùng kỳ, đạt 111,5% so với kế hoạch]. Tuy nhiên, do diễn biến thủy văn bất lợi và ảnh hưởng của hiện tượng El Nino nên lượng nước đổ về các hồ chứa thủy điện rất thấp, làm sản lượng phát điện của các nhà máy thủy điện chỉ đạt khoảng 35 - 50% so với cùng kỳ; ngoài ra, Tổ máy số 2 của Nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn 2 gặp sự cố kỹ thuật đến 05/7/2023 mới khắc phục xong đã ảnh hưởng đáng kể đến sản lượng cung cấp điện của tỉnh lên hệ thống lưới điện Quốc gia....

Chỉ số sản xuất công nghiệp [IIP] của Thanh Hóa trong 9 tháng năm 2023 ước tăng 7,93% so với cùng kỳ năm 2022. Dự kiến hoạt động sản xuất công nghiệp 3 tháng cuối năm vẫn tiếp tục duy trì ổn định và tăng trưởng tốt hơn so với cùng kỳ. Tuy nhiên, có một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu sản lượng không đạt kế hoạch [bia, đường kết tinh, tinh bột sắn, các sản phẩm vật liệu xây dựng…] nên dự kiến Chỉ số sản xuất công nghiệp [IIP] cả năm 2023 chỉ tăng 9,5% [kế hoạch 10,2%].

Theo Đề án Phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tỉnh Thanh Hóa đến năm 2030 được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 506/QĐ-UBND ngày 28/01/2022. Thanh Hóa sẽ tập trung phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, theo hướng mở rộng và đầu tư mới, bổ sung các ngành công nghiệp nặng đi đôi với mở rộng, hiện đại hoá, tăng hiệu quả các ngành công nghiệp nhẹ. Từng bước tăng tỷ trọng các ngành sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, chế biến sâu và xuất khẩu.

Phát triển các ngành công nghiệp chủ lực như lọc hóa dầu, hóa chất, may mặc, da giày; vật liệu xây dựng, chế biến nông lâm, thủy sản, chế tạo máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.

Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp kim loại, cơ khí chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, điện tử - công nghệ thông tin có hàm lượng khoa học công nghệ cao.

Phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo tỉnh Thanh Hóa đến năm 2030, tập trung phát triển các nhóm ngành công nghiệp sau: Nhóm ngành cơ khí, điện tử và sản xuất kim loại; nhóm ngành hóa chất, cao su, nhựa; nhóm ngành sản xuất vật liệu xây dựng; nhóm ngành thực phẩm và đồ uống; nhóm ngành dệt may, da giày; nhóm ngành chế biến lâm sản; nhóm công nghiệp chế biến chế tạo khác.

Phấn đấu phát triển ngành công nghiệp với tốc độ nhanh, bền vững, làm nền tảng chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn tỉnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kết hợp giữa phát triển công nghiệp với đầu tư kết cấu hạ tầng; xây dựng đồng bộ và nâng cao hiệu quả hoạt động các khu công nghiệp, cụm công nghiệp; triển khai nhanh các dự án trong Khu kinh tế Nghi Sơn, tạo hạt nhân tăng trưởng cho nền kinh tế toàn tỉnh phát triển.

Phát triển công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp Thanh Hóa hướng đến các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ và chuyên môn hóa cao, phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ gắn kết với phát triển các ngành công nghiệp trong vùng trong khu vực và cả nước; phấn đấu Thanh Hóa trở thành một trong những trung tâm công nghiệp lớn của vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung và cả nước, gắn với phát triển bền vững; cùng với Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh trở thành tứ giác phát triển ở phía bắc của Tổ quốc. Phấn đấu đến năm 2030, tỉnh Thanh Hóa cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại.

tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn [GRDP] ước đạt 17,15%, là mức tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay; trong đó: Cơ cấu các ngành kinh tế trong GRDP chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng chiếm 47,1%, tăng 1,7 lần. Sản xuất công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng cao; giá trị sản xuất ước đạt 126.072 tỷ đồng, tăng 32,6% so với cùng kỳ. Hầu hết sản phẩm công nghiệp chủ yếu đều có sản lượng tăng so với cùng kỳ, trong đó một số sản phẩm tăng cao như: Thép [gấp 49 lần], thuốc lá [tăng 33,3%], giày [25,2%], quần áo [23,7%], đường [19%], bia [19%], xi măng [7,6%]. Nhờ đó mà sản xuất công nghiệp của Thanh óa đứng đầu các tỉnh Bắc Trung bộ, tỷ trọng giá trị gia tăng công có nghiệp -VACN/GRDP toàn tỉnh tăng từ 23,6% năm 2015 lên 30,3% năm 2020 [giá so sánh 2010] có ý nghĩa quan trọng trong hoàn thành mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu GRDP giai đoạn 2016 – 2020.

Trong giai đoạn 2016 - 2020, với việc hoàn thành, đưa vào vận hành nhiều dự án, nhà máy sản xuất công nghiệp lớn cùng các trang thiết bị hiện đại, tiên tiến đặc biệt như nhà máy lọc dầu Nghi Sơn, công trình có quy mô xây dựng với tổng mức đầu tư lớn nhất Việt Nam từ trước tới nay - 9 tỷ USD, công suất tối đa đạt 10 triệu tấn dầu thô/năm, gần gấp đôi nhà máy lọc dầu Dung Quất. Nhà máy đã đóng góp hơn 11,66 nghìn tỷ đồng cho ngân sách nhà nước, giải quyết công ăn việc làm cho hàng 1000 người lao động. Nhà máy xi măng Long Sơn với 2 dây truyền đồng bộ công suất 7000 tấn/ngày. Tổng công suất 14.000 tấn/ngày, tương đương 5 triệu tấn xi măng/ 1 năm. Nhà máy dầu thực vật Nortalic thuộc Công ty TNHH Dầu thực vật khu vực miền Bắc Việt Nam với tổng số vốn đầu tư lên tới 71,5 triệu đô la Mỹ, sở hữu công nghệ sản xuất dầu ăn hiện đại, có thể cung cấp cùng lúc nhiều dòng sản phẩm cao cấp với công suất 1.500 tấn/ngày. Nhà máy bao bì Long Sơn, dây chuyền mới của nhà máy sản xuất gạch Vicenza sẽ tiếp tục có sản phẩm mới đưa ra thị trường. Ngoài ra còn có các Công ty cổ phần gang thép Nghi Sơn. Công ty CP mía đường Lam Sơn, Công ty CP đường mía Việt Nam- Đài Loan và Công ty CP mía đường Nông Cống tất cả đều hoàn thành các mục tiêu, kế hoạch của vụ ép 2019-2020…

Các khu kinh tế [KKT], khu công nghiệp [KCN] và hệ thống các cụm công nghiệp [CCN] trên địa bàn tỉnh có qui mô lớn đã và đang phát huy được hiệu quả, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế của tỉnh, một số KCN như [Lễ Môn, Bỉm Sơn, Đình Hương - Tây Bắc Ga] đạt tỷ lệ lấp đầy cao. KCN Lễ Môn là một trong tám KCN của tỉnh Thanh Hóa có diện tích phát triển lên 87,61 ha với tỷ lệ lấp đầy là 100%. KCN Đình Hương, KCN Tây Bắc Ga [giai đoạn 1], KCN Tây Bắc Ga [giai đoạn 2] có tỷ lệ lấp đầy lần lượt là 87%, 86,64%, 93,7%. KCN Bỉm Sơn diện tích 566 ha tỷ lệ lấp đầy khoảng 37%. KCN Lam Sơn - Sao Vàng 550 ha đã có 01 nhà đầu tư thứ cấp thực hiện với diện tích đầu tư khoảng 6,7ha.

Đặc biệt là KKT Nghi Sơn là một trong năm KKT trọng điểm ven biển của cả nước đã có bước phát triển nổi trội. Tổng nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí cho các dự án đầu tư phát triển hạ tầng trong KKT Nghi Sơn là 2.650 tỷ đồng, từ năm 2016 đến nay, đã có 98 dự án mới đầu tư vào KKT Nghi Sơn, trong đó có 86 dự án đầu tư trong nước và 12 dự án đầu tư nước ngoài, với tổng vốn đầu tư là 36.925 tỷ đồng và 3.036,3 triệu USD.

Tại các KCN khác, hạ tầng cũng ngày càng hoàn thiện, thu hút được 124 dự án đầu tư trong nước và nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký lần lượt là 5.263 tỷ đồng và 175,2 triệu USD.

Về tình hình phát triển các cụm công nghiệp đến nay, trên địa bàn tỉnh có 57 CCN với diện tích 1646,79 ha, tỷ lệ lấp đầy bình quân các cụm công nghiệp đạt 60%. Tốc độ tăng trưởng bình quân của các CCN đạt 18%/năm, đóng góp ngân sách tỉnh đạt từ 130 - 150 tỷ đồng và tạo công ăn việc làm cho 6.000-7.000 lao động.

Bên cạnh những kết quả đạt được thì ngành công nghiệp Thanh Hóa vẫn còn bộc lộ những tồn tại như: Cơ cấu ngành công nghiệp của tỉnh tuy đã có thay đổi nhưng vẫn còn chậm phát triển dù nhiều kỳ quy hoạch đều đặt ra định hướng. Hầu hết các nhà máy dây chuyền sản xuất đã đầu tư lâu năm, cải tạo nhiều lần nên không đồng bộ, công nghệ lạc hậu, năng suất chất lượng sản phẩm không cao, giá trị gia tăng trong đơn vị sản phẩm thấp. Một số dự án đầu tư sản xuất công nghiệp [SXCN] lớn trong kỳ không triển khai được hoặc chậm tiến độ, ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng như: KCN Hoàng Long, dự án nhiệt điện Công Thanh, Nghi Sơn… Một số nhà máy do không hiệu quả đã dừng sản xuất như: Ô tô VINASUKI, các dự án Ferocon. Việc gắn kết giữa sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm để hình thành các chuỗi giá trị còn gặp nhiều khó khăn. Nguồn nhân lực ngành công nghiệp, thương mại tuy nhiều nhưng không mạnh, chất lượng và tính chuyên nghiệp chưa cao.

Để ngành công nghiệp tỉnh tiếp tục phát triển trong thời gian tới, Thanh Hóa đã đề ra mục tiêu chung từ nay đến năm 2030: Đẩy mạnh phát triển công nghiệp với tốc độ cao, đưa Thanh Hóa trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại hóa. Tầm nhìn đến năm 2050: Tập trung phát triển công nghiệp theo chiều sâu, phát triển mạnh các ngành công nghiệp công nghệ cao, đưa Thanh Hóa trở thành trung tâm công nghiệp của cả nước, với các ngành công nghiệp ưu tiên công nghiệp hóa lọc dầu và chế phẩm từ dầu; sản xuất, lắp ráp linh kiện điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất sản phẩm y dược; chế biến nông, lâm, thủy sản; sản xuất vật liệu mới. Phấn đấu giá trị sản xuất công nghiệp [theo giá so sánh năm 2010] đến năm 2030 đạt 631.310 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021-2030 đạt 15,3/năm.

Để hoàn thành những mục tiêu trên, Thanh Hóa đã đưa ra một số giải pháp để phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn tới. Ưu tiên tập trung vào các nhiệm vụ cụ thể như tháo gỡ khó khăn, vướng mắc tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển; đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, huy động nguồn lực xã hội hóa cho đầu tư hạ tầng các KKT, KCN, CCN theo hướng đồng bộ, hiện đại, cải tạo mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả; đẩy mạnh và đa dạng hóa các hoạt động xúc tiến thương mại của tỉnh; đổi mới công nghệ sản xuất các sản phẩm truyền thống, nâng cao chất lượng và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm thông qua việc chuyển giao và áp dụng công nghệ mới tiên tiến vào sản xuất; ưu tiên các dự án đầu tư sử dụng công nghệ cao, công nghiệp sạch thân thiện môi trường, từng bước thay thế dần các công nghệ thiết bị lạc hậu bằng các công nghệ tiên tiến, hiện đại, phấn đấu 100 % các khu công nghiệp, làng nghề có khu vực xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước, quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế; minh bạch các thông tin liên quan đến đất quy hoạch phát triển để mọi tổ chức cá nhân quan tâm có thể tiếp cận và sử dụng; đổi mới công tác xây dựng kế hoạch phù hợp với thực tiễn./

Chủ Đề