Luật kinh tế có máy loại chủ thể

Chủ thể pháp luật là gì? Xem ngay nội dung bài viết sau để được Luật Hùng Sơn giải thích rõ chủ thể pháp luật là gì? Những loại chủ thể pháp luật và những vấn đề liên quan.

Chủ thể pháp luật là những cá nhân, tổ chức có quyền và nghĩa vụ hợp pháp theo quy định của pháp luật. Chủ thể pháp luật khác với chủ thể của quan hệ pháp luật.

Chủ thể của quan hệ pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực pháp luật và năng lực hành vi pháp lý, tham gia vào quan hệ pháp luật, có quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Nói một cách khái quát, cá nhân, tổ chức có thể là chủ thể của quan hệ pháp luật, nhưng đi sâu thì có sự phân biệt giữa cá nhân và tổ chức với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật.

Cũng giống như các quan hệ pháp luật nói chung, chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là những người tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự và có các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó. Chủ thể của quan hệ này bao gồm:

  • Cá nhân: Người có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
  • Pháp nhân: Pháp nhân là tổ chức thống nhất, độc lập, hợp pháp, có tài sản riêng và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Chủ thể này tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập và nhân danh chính mình.
  • Tổ hợp tác: Là loại hình được thành lập dựa trên hợp đồng hợp tác kinh doanh [có chứng thực của UBND xã, phường] của 3 cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng có trách nhiệm và cùng có lợi.
  • Hộ gia đình: Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung để làm kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất, sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và một số lĩnh vực kinh doanh khác theo quy định của pháp luật là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự.
  • Nhà nước: Với tư cách là chủ thể đặc biệt trong giao dịch dân sự. Nhà nước là chủ thể của một số quan hệ như quan hệ thừa kế, quan hệ sở hữu…

Trong quan hệ pháp luật hành chính chủ thể chính là các bên tham gia quan hệ này có năng lực chủ thể với các quyền và nghĩa vụ tương ứng đối với nhau theo quy định của pháp luật hành chính. Chủ thể của quan hệ này gồm: cán bộ nhà nước, đơn vị kinh tế, cơ quan nhà nước, công dân Việt Nam, tổ chức xã hội, người nước ngoài, người không quốc tịch.

Trong đó một loại chủ thể luôn hiện diện trong mọi quan hệ pháp luật hành chính đó là:

  • Chủ thể quản lý hành chính nhà nước: Là cá nhân hoặc tổ chức của con người mang quyền lực hành chính, nhân danh nhà nước và thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước.
  • Chủ thể của quản lý hành chính nhà nước: Là một bên trong quan hệ hành chính pháp lý, chịu sự quản lý và tuân theo mệnh lệnh của chủ thể quản lý. Trong quan hệ pháp luật hành chính, đây có thể là cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia không với tư cách là người có quyền lực hành chính nhà nước; hoặc công dân cá nhân, tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh, tổ chức xã hội không mang quyền lực hành chính nhà nước.

Vì vậy, công dân Việt Nam không chỉ là chủ thể quản lý mà còn có quyền và nghĩa vụ tham gia quản lý nhà nước, làm cho mục đích quản lý hành chính ngày càng thể hiện rõ hơn lợi ích và nguyện vọng của họ của người dân.

Chủ thể pháp luật đất đai là các bên tham gia quan hệ pháp luật đất đai bao gồm nhà nước và người sử dụng đất. Theo đó, người sử dụng đất là chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai. Người sử dụng đất có thể là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trực tiếp tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai, có ý chí độc lập, có quyền và nghĩa vụ nhất định.

Các chủ thể trong quan hệ đất đai bao gồm: Tổ chức trong nước: Cơ quan nhà nước, đơn vị kinh tế, tổ chức chính trị – xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, …, cá nhân trong nước, hộ gia đình, cộng đồng dân cư trên địa bàn hoặc cùng dòng họ, cơ sở tôn giáo, tổ chức nước ngoài với có chức năng ngoại giao, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư và hoạt động văn hóa, khoa học thường xuyên hoặc trở về sinh sống ổn định tại Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam theo quy định của pháp luật về đầu tư.

Nhà nước là chủ thể đặc biệt của Quan hệ pháp luật đất đai, Nhà nước tham gia Quan hệ pháp luật đất đai với tư cách là chủ sở hữu đại diện chủ hữu và thống nhất quản lý toàn bộ đất đai. Nhà Nước thường xuyên tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai và luôn có tư cách chủ thể.

Ngoài Nhà nước còn có các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cơ sở tôn giáo và cộng đồng dân cư. Nhưng không phải mọi tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cơ sở tôn giáo, cộng đồng dân cư đều là chủ thể của pháp luật đất đai mà phải đáp ứng những điều kiện nhất định.

Chủ thể của quan hệ pháp luật lao động là những bên tham gia quan hệ pháp luật lao động bao gồm:

  • Người lao động: Là các cá nhân 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động, có đầy đủ năng lực hành vi lao động và năng lực pháp luật lao động. Người lao động bao gồm: công dân, người nước ngoài và người không quốc tịch.
  • Người sử dụng lao động: Là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân nếu là cá nhân thì phải đủ 18 tuổi trở lên và được thuê, sử dụng và trả công. Có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật, phải có năng lực hành vi và năng lực pháp luật lao động.

Hy vọng với những thông tin trên đã giúp ban hiểu rõ chủ thể pháp luật là gì. Nếu còn thắc mác gì liên quan đến chủ thể liên hệ ngay với chúng tôi qua số hotline 19006518 để được tư vấn cụ thể.

Pháp luật kinh tế là gì? Tìm hiểu về luật kinh tế? Đối tượng điều chỉnh của luật kinh tế? Phương pháp điều chỉnh của luật kinh tế?

Luật kinh tế chính là một bộ phận của pháp luật về kinh tế, là hệ thống các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành để nhằm mục đích có thể từ đó điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước và trong quá trình sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau. Luật kinh tế ra đời nhằm mục đích để có thể giúp duy trì và giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại cũng như đảm bảo quy trình hoạt động của các doanh nghiệp trong quá trình trao đổi, giao thương cả trong nước và quốc tế. Chắc hẳn hiện nay vẫn còn nhiều người chưa hiểu rõ về thuật ngữ này.

Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại: 1900.6568

1. Pháp luật kinh tế là gì?

Thực chất, ta nhận thấy rằng, pháp luật kinh tế không phải là ngành luật độc lập theo tiêu chuẩn phân loại của lí luận pháp luật hiện hành mà là khái niệm tổng hợp, bao gồm toàn bộ các văn bản thuộc nhiều ngành luật khác nhau như luật kinh tế, luật tài chính, luật lao động, luật đất đai. Như vậy, trong hệ thống pháp luật kinh tế tồn tại một ngành luật quan trọng điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lí và hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau và với các cơ quan quản lí đó là luật kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay trong thực tiễn vẫn có nhiều quan niệm khác nhau về ngành luật này.

Những người theo trường phái luật kinh tế của GS.VS Laptev đã cho rằng luật kinh tế là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Xô viết, điều chỉnh các quan hệ giữa các tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa và các bộ phận cấu thành của chúng trong lãnh đạo và thực hiện các hoạt động kinh tế. Những quan hệ này được gọi là các quan hệ kinh tế và phát sinh trong quá trình tái sản xuất xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên, đối tượng điều chỉnh của luật kinh tế thực chất cũng không phải là tất cả các quan hệ phát sinh trong quá trình tái sản xuất xã hội chủ nghĩa mà chỉ một phần các quan hệ đó cụ thể đó là các quan hệ kinh tế, với đặc trưng quan trọng nhất của chúng là trong các quan hệ đó bao giờ cũng kết hợp hài hòa yếu tố tài sản và yếu tố tổ chức – kế hoạch. Ngoài ra, những người theo trường phái này còn khẳng định rằng, luật kinh tế không chỉ có đối tượng điều chỉnh riêng mà còn có phương pháp điều chỉnh và các nguyên tắc riêng.

Luật Kinh tế theo trường phái luật kinh tế của GS.VS Laptev được hiểu cơ bản chính là ngành luật điều chỉnh hai nhóm quan hệ xã hội chủ yếu, đó là những quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh và những quan hệ trong quá trình quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh đó. Tương ứng với các quan hệ cụ thể đó, nội dung của luật kinh tế bao gồm hai bộ phận quy phạm pháp luật chính cụ thể đó chính là:

– Thứ nhất, những quy định về việc thực hiện hoạt động kinh doanh.

– Thứ hai, những quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh. Tùy thuộc vào bản chất của nền kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử mà Nhà nước chú trọng ưu tiên phát triển các quy định về thực hiện hoạt động kinh doanh hoặc các quy định về quản lí nhà nước đối với hoạt động kinh doanh.

2. Đối tượng điều chỉnh của luật kinh tế:

Đối tượng điều chỉnh của luật kinh tế là những quan hệ kinh tế do luật kinh tế tác động vào bao gồm:

Thứ nhất: Nhóm quan hệ quản lý kinh tế:

– Nhóm quan hệ quản lý kinh tế được hiểu chính là quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý kinh tế giữa các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế với các chủ thể kinh doanh.

Xem thêm: Quan hệ pháp luật kinh tế và quan hệ pháp luật dân sự

– Đặc điểm của nhóm quan hệ quản lý kinh tế:

+ Quan hệ quản lý kinh tế phát sinh và tồn tại giữa các cơ quan quản lý và các cơ quan bị quản lý [các chủ thể kinh doanh] khi các cơ quan quản lý thực hiện chức năng quản lý của mình

+ Các chủ thể tham gia quan hệ này ở vào vị trí bất đẳng [vì quan hệ này hình thành và được thực hiện dựa trên nguyên tắc quyền uy phục tùng].

+ Cơ sở pháp lý của nhóm quan hệ quản lý kinh tế chủ yếu thông qua các văn bản pháp lý do các cơ quan quản lý có thẩm quyền ban hành.

Thứ hai: Quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau:

– Quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau thực chất chính là những quan hệ kinh tế thường phát sinh do thực hiện hoạt động sản xuất, hoạt động tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện các hoạt động dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Trong hệ thống các quan hệ kinh tế thuộc đối tượng điều chỉnh của luật kinh tế, nhóm quan hệ này là nhóm quan hệ chủ yếu, thường xuyên và phổ biến nhất.

– Đặc điểm của quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau:

+ Quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh phát sinh trực tiếp trong quá trình kinh doanh nhằm đáp ứng các nhu cầu kinh doanh của các chủ thể kinh doanh.

Xem thêm: Luật kinh doanh là gì? Luật kinh doanh và luật kinh tế có giống nhau không?

+ Quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh phát sinh trên cơ sở thống nhất ý chí của các bên thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng kinh tế hoặc những thoả thuận.

+ Chủ thể của nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh này chủ yếu là các chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế tham gia vào quan hệ này trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và các bên cùng có lợi.

+ Nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh này là nhóm quan hệ tài sản – quan hệ hàng hoá – tiền tệ.

Thứ ba: Quan hệ kinh tế phát sinh trong nội bộ một số doanh nghiệp:

Quan hệ kinh tế phát sinh trong nội bộ một số doanh nghiệp được hiểu cơ bản chính là các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh giữa tổng công ty, tập đoàn kinh doanh và các đơn vị thành viên cũng như giữa các đơn vị thành viên trong nội bộ tổng công ty hoặc tập đoàn kinh doanh đó với nhau.

Cơ sở pháp lý của quan hệ kinh tế phát sinh trong nội bộ một số doanh nghiệp thông qua nội quy, quy chế, điều lệ, cam kết.

3. Phương pháp điều chỉnh của luật kinh tế: 

Bởi vì thực chất pháp luật kinh tế vừa điều chỉnh quan hệ quản lý kinh tế giữa chủ thể không bình đẳng vừa điều chỉnh quan hệ tài sản giữa các chủ thể bình đẳng với nhau phát sinh trong quá trình kinh doanh cho nên luật kinh tế sử dụng và phối hợp nhiều phương pháp tác động khác nhau và các phương pháp này trong thực tiễn cũng có những vai trò cũng như ý nghĩa khác nhau.

Các phương pháp điều chỉnh của luật kinh tế bao gồm:

Xem thêm: Tốt nghiệp chuyên ngành luật kinh tế có được vào ngành công an không?

– Phương pháp mệnh lệnh:

Phương pháp mệnh lệnh được sử dụng chủ yếu nhằm mục đícg để điều chỉnh nhóm quan hệ quản lý kinh tế giữa các chủ thể bất bình đẳng với nhau. Để có thể phù hợp với đặc trưng của nhóm quan hệ này luật kinh tế đã tác động vào chúng bằng cách quy định cho các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế trong phạm vi chức năng của mình và sẽ có quyền ra quyết định chỉ thị bắt buộc đối với các chủ thể kinh doanh [bên bị quản lý]. Còn bên bị quản lý có nghĩa vụ thực hiện các quyết định cụ thể đó.

– Phương pháp thoả thuận:

Phương pháp thoả thuận được sử dụng để nhằm mục đích có thể điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể bình đẳng với nhau.

Bản chất của phương pháp thoả thuận là thể hiện ở chỗ: Luật kinh tế quy định cho các bên tham quan hệ kinh tế có quyền bình đẳng với nhau, thoả thuận những vấn đề mà các bên quan tâm khi thiết lập hoặc chấm dứt quan hệ kinh tế mà không bị phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào. Điều này có nghĩa là pháp luật quy định quan hệ kinh tế chỉ được coi là hình thành trên cơ sở sự thống nhất ý chí của chủ thể là các bên và không trái với các quy định của nhà nước.

Các tìm kiếm của các chủ thể liên quan đến các phương pháp điều chỉnh của luật kinh tế, ví dụ phương pháp điều chỉnh của luật kinh tế, chủ thể của luật kinh tế, vai trò của luật kinh tế, nguyên tắc bình đẳng trong luật kinh tế, trình bày những nội dung mà luật kinh tế điều chỉnh, pháp luật kinh tế, tài liệu luật kinh tế.

Video liên quan

Chủ Đề