Một số biện pháp rèn kĩ năng giải bài toán bằng hai phép tính cho học sinh lớp 3

Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.

Lượt xem: 51

Lượt xem: 41

Lượt xem: 157

Lượt xem: 146

Lượt xem: 186

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH  LỚP 3 GIẢI BÀI TOÁN BẰNG HAI PHÉP TÍNH Lĩnh vực/ môn : Toán Cấp học : Tiểu học Năm học: 2016 – 2017
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH  LỚP 3 GIẢI BÀI TOÁN BẰNG HAI PHÉP TÍNH Năm học: 2016 – 2017
  3. MỤC LỤC
  4. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính PHẦN MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong tình hình hiện nay, giáo dục là một vấn đề  được cả  xã hội quan  tâm. Đảng và nhà nước ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Bậc học tiểu   học được coi là nền tảng của các bậc học. Quá trình học  ở  tiểu học là nền  móng cho học sinh có vốn kiến thức để  học tiếp lên các lớp trên. Trong các  môn học mà học sinh học ở bậc tiểu học, môn Toán là bộ môn rất quan trọng.   Đây là môn học chiếm tương đối nhiều thời gian học của học sinh trong suốt   quá trình học phổ  thông. Đây cũng là môn học có rất nhiều  ứng dụng trong   thực tiễn cuộc sống. Cùng với các môn học khác, môn Toán góp phần hình  thành nhân cách cho học sinh. Ở  bậc tiểu học, môn Toán cung cấp cho học sinh những hiểu biết ban   đầu một cách tương đối có hệ  thống về  số  tự  nhiên, phân số, số  thập phân,  các đại lượng thông dụng, một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản; hình  thành các kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có nhiều  ứng dụng   thiết thực trong đời sống; bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy   luận hợp lí và diễn đạt đúng cách phát hiện và cách giải quyết vấn đề  đơn  giản, gần gũi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng, chăm học và hứng   thú học tập toán, hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế  hoạch khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo. Quá trình cung cấp kiến thức toán học cho học sinh trong dạy học  ở tiểu   học được chia thành hai giai đoạn thì nội dung toán học lớp 3 được coi là cầu  nối để học sinh học tiếp ở giai đoạn hai. Ở lớp 3, các em tiếp tục hoàn thiện   những kiến thức kĩ năng của giai đoạn một và chuẩn bị cho sự phát triển cao  hơn về  kiến thức kĩ năng của giai đoạn hai  ở  lớp 4 và lớp 5. Trong chương   trình toán học  ở  lớp 3, mạch kiến thức về  giải toán chiếm khoảng 9% tổng  thời lượng của môn học nhưng lại vô cùng quan trọng đối với học sinh bởi:  bước đầu giúp học sinh làm quen giải toán hợp, nội dung này còn được học  kết hợp với nội dung dạy số  học, hình học và bước đầu yêu cầu học sinh  biết tư  duy, tìm tòi, sáng tạo khi biết vận dụng các bài toán đơn đã học để  giải toán. . . Đặc biệt hơn, với học sinh lớp 3, việc giải thành thạo các bài  toán bằng hai phép tính là vô cùng cần thiết bởi những kiến thức này chính là   4
  5. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính cơ sở để học sinh vận dụng học ở giai đoạn hai khi giải những bài toán nhiều  hơn hai phép tính, những dạng toán điển hình. . . . Khả năng tư duy để tìm ra  các bước giải bài toán bằng hai phép tính ở lớp 3 tốt sẽ giúp các em dễ dàng  hơn khi giải các bài toán về tìm số trung bình cộng của các số, tìm hai số khi  biết tổng và hiệu của hai số, tìm hai số  khi biết tổng số  và tỉ  số  của hai số,  tìm hai số  khi biết hiệu số và tỉ  số  của hai số, tính diện tích hình bình hành,  diện tích hình thoi  ở  lớp 4, giải toán về  đại lượng tỉ  lệ  thuận, tỉ  lệ  nghịch,   một số bài toán có nội dung hình học ở lớp 5. Tuy nhiên, trong quá trình dạy học, không phải bất kì một vấn đề  nào  trong sách giáo khoa hay nội dung kiến thức cần cung cấp cho học sinh mà  giáo viên đưa ra học sinh đều hiểu và vận dụng được ngay. Trong quá trình  dạy học, bằng tâm huyết nghề nghiệp và những kinh nghiệm đã đúc rút được  cho từng môn học ở mỗi khối lớp, cho từng mạch kiến thức hay từng bài dạy,  người giáo viên có thể có những biện pháp, những cách thức truyền đạt khác  nhau sao cho học sinh hiểu bài, hiểu sâu, nhớ  lâu và biết vận dụng bài học   vào thực tế cuộc sống. Đó mới chính là cái đích cuối cùng của dạy học: học   để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình. Chính vì những lí do trên mà tôi đã chọn cho mình đề  tài nghiên cứu về  "Một vài biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính " trong  chương trình Toán 3. Việc chọn đề tài này giúp tôi hiểu sâu hơn về nội dung   dạy học giải toán ở lớp 3, các phương pháp và hình thức tổ chức giờ dạy về  giải toán ở lớp 3, các hướng phát triển cho một bài toán về giải toán ở lớp 3.   Từ đó, tôi sẽ vận dụng tốt hơn vào thực tiễn giảng dạy của mình. 5
  6. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lí luận Các bài tập về  giải toán bằng hai phép tính thực chất là các bài tập yêu  cầu học sinh phải nắm được các bài toán đơn đã học và biết vận dụng các bài  toán đơn  ấy để  giải quyết các bài toán giải bằng hai phép tính từ  việc suy   luận, thấy được mối liên hệ giữa hai phép tính đó để làm thành các bước giải  cho bài toán giải bằng hai phép tính. Tuy nhiên, để làm được các bài tập này,   các em phải nắm được mấu chốt của vấn đề  là để  giải quyết được yêu cầu  của bài cần xem xét điều chưa biết có liên quan thế  nào với các dữ  kiện đã  cho trong bài toán. Từ  việc hiểu mấu chốt về  các mối liên quan giữa cái đã   biết và cái cần tìm của bài toán đó, học sinh phải biết vận dụng các dạng toán  đã học với các kĩ năng tính toán mà các em có được khi học toán để thành lập   các bước giải cho bài toán nghĩa là các em đã giải quyết được yêu cầu của đề  bài. Việc xây dựng các bài tập về  giải các bài toán giải bằng hai phép tính   dựa vào các kiến thức về giải toán có lời văn mà học sinh đã có khi học toán 1  , 2 và các dạng toán đơn mà các em được học trong chương trình môn Toán ở  lớp 3. Với lứa tuổi của học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh học lớp 3, các  em thường bắt chước hoặc ghi nhớ một cách máy móc. Việc học tập giúp các  em hình thành và phát triển ghi nhớ có ý nghĩa, biết lập luận để tìm ra sự liên   quan giữa dữ kiện bài toán cho biết và yêu cầu của bài. Những kiến thức các  em có được qua học tập môn Toán và được gắn liền với thực tiễn đời sống  sẽ được các em nhớ lâu, kích thích ở các em sự liên tưởng, tìm tòi, khám phá   và sáng tạo. Nhờ  đó ghi nhớ  của trẻ  có ý nghĩa và chất lượng hơn. Những   khác biệt về nhận thức về khả năng tư duy của trẻ thường được biểu hiện rõ  nét trong việc suy luận và vận dụng kiến thức đã học vào thực tế. Ngày nay,  nhà trường hiện đại lấy học trò là nhân vật trung tâm của quá trình dạy học,  học trò mới là chủ  thể  của quá trình học. Trẻ  em ngày nay rất thông minh,  6
  7. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính nhanh nhẹn trong việc nắm bắt cái mới, biết vận dụng kiến thức học trong   nhà trường vào thực tiễn đời sống rất nhanh. Bởi thế  giáo dục cần trang bị  cho trẻ những kiến thức kĩ năng phù hợp với nhận thức của các em. Nói tóm lại:  Quan điểm về  xây dựng chương trình môn Toán phù hợp  với đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 3 là cơ sở  khoa học cho việc soạn   thảo chương trình môn Toán 3 với các mạch nội dung về Số học, Đại lượng   và đo đại lượng, Yếu tố  hình học, Giải toán. Trong đó, mạch kiến thức về  giải toán có nội dung giải bài toán bằng hai phép tính. 2. Cơ sở thực tiễn Trong thực tế, học sinh được tiếp xúc với giải toán có lời văn từ khi bắt   đầu hình thành phép cộng, phép trừ trong môn Toán ở lớp 1 qua những bài tập   có yêu cầu viết phép tính thích hợp dựa vào những hình ảnh cụ thể như: bên   trái có 1 quả bóng bay, bên phải có hai quả bóng bay hoặc trên cành có 3 con   chim đậu có 1 con chim nữa đang bay đến, … với yêu cầu ngày một tăng dần   như  cho biết hình  ảnh và viết sẵn các chữ  số, yêu cầu học sinh điền thêm  dấu phép tính thích hợp; hoặc cho biết hình  ảnh, yêu cầu học sinh tự  viết   thành phép tính thích hợp. Khi học sinh lớp 1 đã thành thạo cộng, trừ  các số  trong phạm vi 10, các em được học về "Bài toán có lời văn" với các dạng toán  về  "gộp", "thêm", "bớt" và một số  bài toán giải bằng phép tính trừ  mà thực   chất đó chính là dạng toán "Tìm số hạng trong một tổng".  Ở lớp 2, cùng với  việc củng cố các bài toán có lời văn đã học ở lớp 1, các em đã được làm quen   và được luyện tập rất nhiều về  giải các bài toán đơn thuộc các dạng toán  điển hình: Bài toán về  nhiều hơn; Bài toán về  ít hơn; So sánh hai số  hơn   [kém] nhau bao nhiêu đơn vị; Các bài toán về “gộp các nhóm bằng nhau”; Các   bài toán về chia đều; Các bài toán về tìm thành phần trong phép tính khi được  học về tìm số hạng trong một tổng, tìm số bị trừ, tìm số trừ,… Lên đến lớp 3,   bên cạnh việc ôn tập, củng cố  các dạng toán đã được học ở  lớp 2, học sinh   được học thêm một số  dạng toán đơn về  gấp một số  lên nhiều lần giảm đi   một số  lần, tìm một trong các phần bằng nhau của một số, các bài toán liên  quan đến hình học như tính chu vi, diện tích hình chữ  nhật, hình vuông. Đặc   biệt, các em được học "Bài toán giải bằng hai phép tính" mà mỗi phép tính  giải trong những bài toán này chính là phép tính để  giải một trong những bài  toán đơn đã học. Việc học các bài toán giải bằng hai phép tính ở lớp 3 có vai   7
  8. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính trò rất quan trọng đối với việc học tập môn Toán bởi những bài toán giải  bằng hai phép tính là cơ  sở  để  học sinh vận dụng, suy luận khi các em học  tập  ở  giai đoạn hai để  giải được những bài toán nhiều hơn hai phép tính và  vận dụng nó trong đời sống thực tế hàng ngày. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ Trong thực tế giảng dạy có những nội dung kiến thức mà giáo viên đưa  ra nhiều học sinh không hiểu được bản chất của nội dung đó mà chỉ áp dụng  một cách máy móc. Chính vì vậy nên khi có một nội dung nào đó có yêu cầu   cao hơn, đòi hỏi các em phải suy luận các em sẽ  lúng túng, không biết suy  luận để tìm ra cách giải. Nội dung dạy giải bài toán bằng hai phép tính cũng  vậy, đây là nội dung mới mẻ  và rất khó đối với học sinh. Đối với học sinh  lớp 3, khả  năng suy luận của các em còn hạn chế, lần đầu tiên các em phải  giải nhũng bài toán đòi hỏi phải tư duy, suy luận nhiều. Khi giải các bài toán  đơn, việc tìm câu lời giải cho phép tính, đa số các em đều dựa vào câu hỏi của  bài toán nên khi giải những bài toán bằng hai phép tính, việc tìm câu lời giải   cho phép tính thứ nhất nhiều em còn hạn chế. Nhiều em còn sai khi ghi danh   số của các phép tính, đặc biệt là những bài toán mà danh số của hai phép tính   không giống nhau.  Ở  lớp 3, các bài toán giải bằng hai phép tính rất nhiều  dạng mà hầu như chẳng thể xếp những bài toán ấy thành dạng điển hình nào   nên việc giải các bài toán đó lại càng khó khăn với các em. Còn đối với giáo viên, dạy học sinh giải bài toán bằng hai phép tính đôi  khi cũng còn những hạn chế  như  chưa khắc sâu cho học sinh mỗi phép tính  giải trong bài chính là dạng toán đơn nào các em đã học, chưa hướng dẫn học   sinh mối quan hệ giữa các phép tính trong bài toán, câu hỏi để gợi ý học sinh  tìm bước giải còn chưa sát, chưa khái quát được những dạng toán giải bằng  hai phép tính, … Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể  chỉ  hướng dẫn  học sinh giải những bài toán bằng hai phép tính trong sách giáo khoa mà chưa  chú trọng đến việc khắc sâu dạng toán, chưa đưa ra được những hình thức  dạy học toán nhằm phát triển tư  duy năng lực của học sinh, chưa đòi hỏi  ở  các em sự  tập trung suy nghĩ, tìm tòi, khám phá,.. nên nội dung dạy học còn  đơn điệu, tẻ nhạt. Chính vì vậy mà hiệu quả của việc giải toán còn có những   hạn chế nhất định. III. CÁC BIỆN PHÁP CỤ THỂ 8
  9. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính 1. Hướng dẫn học sinh nắm chắc cách giải các bài toán đơn Các bài toán đơn học sinh được học bao gồm các bài toán giải bằng một  trong các phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Đây là các bài toán các em được học  trong chương trình môn Toán của các lớp 1, 3 và nửa đầu học kì 1  ở  lớp 3.   Ngoài ra, các em còn được học khi giải các bài toán liên quan đến tính chu vi,  diện tích của hình chữ nhật, hình vuông. Các bài toán đơn mà học sinh đã học  đều là các bài toán thuộc các dạng toán điển hình. Có thể  chia các bài toán  đơn thành các dạng như sau: 1.1. Các bài toán đơn giải bằng phép tính cộng Đây là các bài toán thuộc các dạng toán: ­ Bài toán về gộp hai số; ­ Bài toán về thêm một số đơn vị; ­ Bài toán về nhiều hơn; Bài toán về tìm số bị trừ. 1.2. Các bài toán đơn giải bằng phép tính trừ Đây là các bài toán thuộc các dạng toán: ­ Bài toán về bớt; ­ Bài toán về ít hơn; ­ Bài toán về so sánh hai số hơn kém nhau một số đơn vị; ­ Bài toán về tìm số hạng trong một tổng; ­ Bài toán về tìm số trừ. 1.3. Các bài toán đơn giải bằng phép tính nhân Đây là các bài toán thuộc các dạng toán: ­ Bài toán về gộp các nhóm bằng nhau; ­ Bài toán về gấp một số lên nhiều lần; ­ Bài toán về tìm số bị chia; ­ Bài toán về tính chu vi, diện tích của hình chữ  nhật, hình vuông khi đã  biết đầy đủ  chiều dài, chiều rộng của hình chữ  nhật hoặc biết độ  dài cạnh  của hình vuông. 1.4. Các bài toán đơn giải bằng phép tính chia Đây là các bài toán thuộc các dạng toán: ­ Bài toán về chia đều; ­ Bài toán về chia thành các nhóm bằng nhau; 9
  10. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính ­ Bài toán về giảm đi một số lần; ­ Bài toán về tìm một trong các phần bằng nhau của một số; ­ Bài toán về so sánh hai số gấp, kém nhau một số lần; ­ Bài toán về tìm thừa số trong phép nhân; ­ Bài toán về tìm số chia. Khi dạy học Toán có nội dung chứa bài toán có lời văn mà học sinh đã  được học  ở  các lớp 1, lớp 2, tôi luôn hướng dẫn các em tìm ra mối quan hệ  giữa các dữ kiện đã cho và yêu cầu cần tìm để các em nhớ lại xem bài toán đó  thuộc dạng toán nào đã học, để  giải được bài toán đó thì cần sử  dụng phép  tính nào, có những cách đặt câu lời giải cho phép tính đó như  thế  nào,…  Ở  lớp 3, học sinh được ôn lại một số  dạng toán đơn đã học như  bài toán về  nhiều hơn, bài toán về ít hơn, bài toán về tìm số hạng trong một tổng, bài toán   về gộp hai số; bài toán về so sánh hai số hơn kém nhau bao nhiêu đơn vị. Đặc   biệt,  ở  lớp 3, khi các em được học bảng nhân 6, bảng nhân 7, bảng nhân 8,   bảng nhân 9, các bảng chia 6, bảng chia 7, bảng chia 8, bảng chia 9 thì các em   đều được giải các bài toán đơn về  gộp các nhóm bằng nhau, chia đều, chia  thành các nhóm bằng nhau. Các dạng toán này còn được củng cố  khi học về  nhân số có 2; 3; 4; 5 chữ số với số có 1 chữ số và chia số có 2; 3; 4; 5 chữ số  cho số  có 1 chữ số. Vì vậy, khi gặp các bài toán này, tôi đã vận dụng những   hiểu biết đã có của học sinh để  các em tự  tìm ra dạng toán và cách giải bài  toán. Chính từ  việc gợi ý của giáo viên để  củng cố, khắc sâu dạng toán mà  các em luôn có tâm thế phải suy nghĩ phải tìm tòi, phải đưa ra được cách giải  cho bài toán, từ  đó các em sẽ  nhớ  lâu dạng toán đã học. Việc dạy học bằng  phương pháp gợi mở như  trên, tôi đã giúp học sinh được rèn luyện, củng cố  kiến thức đồng thời cũng đã giúp các em lấy việc giải các bài toán có lời văn  làm phương tiện để phát triển tư duy. Còn khi dạy các dạng toán đơn mới ở  lớp 3 như dạng toán về  gấp một   số  lên nhiều lần, tìm một trong các phần bằng nhau của một số, so sánh hai  số gấp hoặc kém nhau bao nhiêu lần, giảm đi một số  lần, tôi đều hình thành  kiến thức mới cho các em từ những kiến thức đã học. Chẳng hạn như  khi dạy bài "Gấp một số  lên nhiều lần", tôi đã hình  thành quy tắc từ  kiến thức đã được học. Học sinh tự  vẽ  đoạn thẳng AB dài  10
  11. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính 2cm, tìm cách vẽ đoạn thẳng CD dài gấp 3 lần đoạn thẳng AB, tìm cách tính  độ  dài của đoạn thẳng CD. Từ  những việc làm trên của học sinh, chính các   em đã tự tìm ra cách gấp 2cm lên 3 lần, tự lấy được ví dụ về gấp một số nào  đó lên một số lần rồi tìm ra quy tắc gấp một số lên nhiều lần. Sau mỗi dạng toán mà học sinh mới được học, tôi đều cho học sinh   luyện tập củng cố  kiến thức qua các bài luyện tập trong sách giáo khoa và   trong các tiết dạy ở buổi hai. Ngoài ra, tôi còn cho học sinh củng cố mỗi dạng   toán bằng những bài toán ngược để các em tránh bị nhầm lẫn. Ví dụ: Để  củng cố  dạng toán "Gấp một số  lên nhiều lần" ngoài các bài  toán để  củng cố  kiến thức đơn thuần, tôi cho học sinh làm thêm những bài   toán như: Mảnh vải hoa dài 15m và dài bằng  mảnh vải xanh. Hỏi mảnh vải   xanh dài bao nhiêu mét? Bằng phương pháp dạy học gợi mở, phương pháp kiến tạo và luyện tập  với nhiều hình thức tổ  chức khác nhau như  trên, tôi đã giúp học sinh hình  thành, khắc sâu các dạng toán đơn đã học, các em biết lấy giải toán làm điểm   xuất phát để tạo động cơ hình thành kiến thức mới, làm phương tiện để củng   cố  kiến thức và phát triển năng lực tư  duy. Đây cũng chính là những vấn đề  rất cần thiết trong việc dạy­ học "Bài toán giải bằng hai phép tính" sau này. 2. Hướng dẫn học sinh giải những bài toán có hai lần đáp số Các bài toán có hai lần đáp số thực chất là những bài toán mà có hai câu   hỏi, trong đó bao giờ câu hỏi thứ hai cũng có liên quan đến câu hỏi thứ nhất,   đó là muốn giải được bài toán theo câu hỏi thứ hai thì phải làm được bài toán  theo câu hỏi thứ nhất. Ví dụ: Dạy về cộng, trừ các số có ba chữ số [không nhớ] có bài toán: Khối lớp Một có 245 học sinh, khối lớp Hai có ít hơn khối lớp Một 32   học sinh Hỏi khối lớp Hai có bao nhiêu học sinh? [Bài tập 3­ Trang 4­ SGK   Toán 3]. Với yêu cầu trên của đề bài mới chỉ củng cố được cách trừ  hai số có ba  chữ  số  trường hợp không nhớ  nhưng muốn củng cố  được cả  cách cộng hai   số có ba chữ số, tôi yêu cầu học sinh đặt thêm cho bài toán một câu hỏi nữa,  có thể  gợi ý rõ hơn là để  giải bài toán theo câu hỏi của em thì em phải làm   đúng bài toán theo yêu cầu của câu hỏi đã có. Vì vậy, học sinh đã chuyển bài  toán trên thành bài toán như sau: 11
  12. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Khối lớp Một có 245 học sinh, khối lớp Hai có ít hơn khối lớp Một 32   học sinh Hỏi: a] Khối lớp Hai có bao nhiêu học sinh? b] Cả hai khối lớp có bao nhiêu học sinh? Hoặc khi củng cố dạng toán về "Tìm một trong các phần bằng nhau của  một số", học sinh luyện tập bài toán: Một cửa hàng có 40m vải xanh và đã bán được  số vải đó. Hỏi cửa hàng  đã bán được mấy mét vải xanh? [ Bài tập 2 ­ Trang 26 ­ SGK Toán 3] Cũng với cách làm như trên, tôi đã hướng dẫn học sinh đặt thêm cho bài  toán câu hỏi: Một cửa hàng có 40m vải xanh và đã bán được   số vải đó. Hỏi: a] Cửa hàng đã bán được mấy mét vải xanh? b] Cửa hàng còn lại bao nhiêu mét vải xanh? Hoặc khi củng cố dạng toán "Gấp một số lên nhiều lần" có bài tập: Con hái được 7 quả  cam, mẹ  hái được gấp 5 lần số  cam của con. Hỏi   mẹ hái được bao nhiêu quả cam? [ Bài tập 2 ­ Trang 33 ­ SGK Toán 3] Học sinh của tôi đã tự đặt thêm cho bài toán một câu hỏi nữa để bài toán  có hai câu hỏi như sau: Con hái được 7 quả cam, mẹ hái được gấp 5 lần số cam của con. Hỏi: a] Mẹ hái được bao nhiêu quả cam? b] Cả hai mẹ con hái được bao nhiêu quả cam? Bằng cách hướng dẫn học sinh đặt thêm câu hỏi cho bài toán, ngoài việc  củng cố  kiến thức mới học, tôi đã hướng dẫn các em củng cố  thêm được  những kiến thức khác, đồng thời đã giúp học sinh phát huy tính sáng tạo, phát  triển năng lực tư  duy. Biện pháp này tôi thường tiến hành song song, đồng  thời với biện pháp thứ nhất, tôi thấy hiệu quả rất rõ rệt, học sinh nắm chắc   hơn các dạng toán đơn. Việc cho học sinh làm quen với những bài toán có hai câu hỏi như  trên  thực tế là tôi đã cho học sinh làm quen với những bài toán giải bằng hai phép   tính. Đây chính là những bài toán làm bước chuẩn bị  cho học sinh học giải   toán bằng hai phép tính sau này. 12
  13. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Nói tóm lại:  Cả  hai biện pháp tôi đã thực hiện như  trên đều là những   bước chuẩn bị cần thiết để hình thành và hướng dẫn học sinh tìm hướng giải  cho những bài toán giải bằng hai phép tính. 3. Hướng dẫn học sinh hiểu thế nào là bài toán giải bằng hai phép tính Tôi đã tiến hành giúp học sinh hiểu về  bài toán giải bằng hai phép tính   qua các tiết dạy bài mới về "Bài toán giải bằng hai phép tính" [tiết 50 và tiết   51] 3.1.Bài "Bài toán giải bằng hai phép tính" [Tiết 50 ­ Trang 50­SGK Toán 3] Để  học sinh hiểu thế nào là một bài toán giải bằng hai phép tính, tôi đã  hướng dẫn học sinh tự hình thành bài toán và các bước giải trên cơ sở từ hai   bài toán đơn đã học. Tiết dạy được mô tả như sau: * Xác định kiến thức kĩ năng của bài: Học sinh làm quen với bài toán giải bằng hai phép tính; bước đầu biết   tìm cách giải và trình bày bài giải cho bài toán; biết tìm lời giải cho mỗi phép  tính một cách hợp lí, có thể  nêu được câu lời giải cho mỗi phép tính bằng  những cách khác nhau. *Tổ chức các hoạt động dạy học: a. Kiểm tra bài cũ Giải bài toán sau: Hàng trên có 3 cái kèn, hàng dưới có nhiều hơn hàng trên 2 cái kèn. Hỏi   hàng dưới có mấy cái kèn? ­ 1 HS lên bảng tóm tắt và trình bày bài giải, HS dưới lớp làm bài vào vở  nháp ­ GV hướng dẫn HS nhận xét bài của HS. b. Hướng dẫn học sinh hình thành và tìm hướng giải bài toán bằng hai phép tính ­ Từ  bài toán trong phần kiểm tra bài cũ trên, tôi yêu cầu HS đặt thêm   một câu hỏi nữa cho bài toán và trình bày cách giải của câu hỏi đó. Chắc chắn  HS sẽ  đặt câu hỏi như  sau: Hỏi cả  hai hàng có bao nhiêu cái kèn? [bởi việc   làm này tôi đã tiến hành thường xuyên như  tôi đã trình bày  ở  biện pháp thứ  hai]. Lúc đó bài toán như sau: Hàng trên có 3 cái kèn, hàng dưới có nhiều hơn hàng trên 2 cái kèn. Hỏi: a] Hàng dưới có mấy cái kèn? 13
  14. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính b] Cả hai hàng có bao nhiêu cái kèn? ­ Từ  bài toán có hai câu hỏi này mà HS đã trình bày được cách giải, tôi   nêu vấn đề: Bỏ câu hỏi thứ nhất đi, bài toán chỉ còn một câu hỏi 2. HS đọc bài toán như sau: Hàng trên có 3 cái kèn, hàng dưới có nhiều hơn hàng trên 2 cái kèn. Hỏi   cả hai hàng có bao nhiêu cái kèn? Tôi hướng dẫn HS dựa vào bài toán có hai câu hỏi  ở  trên [chính là bài  toán có 2 lần đáp số], nêu cách giải bài toán mới này. Cụ  thể, tôi hướng dẫn   HS bằng một số câu hỏi: Câu hỏi 1 : Muốn tìm số kèn ở cả hai hàng, các em cần biết thêm số kèn   có ở hàng nào? ­ GV kết hợp ghi: Tìm số cái kèn ở hàng dưới : ? cái Tìm số cái kèn ở cả hai hàng: ? cái Câu hỏi 2: Tìm số kèn ở hàng dưới, em đã làm như thế nào? Câu hỏi 3: Tìm số kèn có ở cả hai hàng em đã làm như thế nào? ­ GV kết hợp ghi: Tìm số cái kèn ở hàng dưới : ? cái 3 + 2 = 5 [cái kèn] Tìm số cái ken ở cả hai hàng: ? cái 3 + 5 : g [cái kèn] Như vậy, cùng với việc đặt các câu hỏi của GV, HS nêu ý kiến trả  lời,   tôi đã thiết lập cho HS việc đi tìm các bước giải của bài toán bằng sơ đồ phân   tích đi lên. Từ sơ đồ phân tích đi lên ở trên, HS dựa vào đó có thể nhận ra các  bước giải và phép tính giải bài toán. ­ Từ các bước giải của bài toán đã được thiết lập như trên, tôi giới thiệu   cho HS biết đây là bài toán giải bằng hai phép tính và đặc điểm của bài toán  giải bằng hai phép tính: chỉ có 1 đáp số là kết quả của phép tính thứ hai. Từ  sơ  đồ  phân tích đi lên này, tôi gợi ý để  HS nhận ra muốn giải được   bài toán, cần đặt cho mình câu hỏi phụ: +  Để  tìm được đáp số  của bài toán cần tìm thêm gì? [hoặc biết thêm  gì?]. 14
  15. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính + Để trả lời được câu hỏi mà mình vừa đặt ra cần vận dụng kiến thức  nào đã học [dạng toán đơn nào đã học]. Trả lời được câu hỏi này là bước giải  thứ nhất của bài . + Để  trả  lời được câu hỏi của bài toán cần vận dụng kiến thức nào đã  học [dạng toán đơn nào đã học]. Đây là bước giải thứ hai của bài toán. Với mỗi phép tính trên, tôi đều yêu cầu HS diễn đạt câu lời giải mỗi   phép tính bằng một vài cách khác nhau. c. Hướng dẫn HS vận dụng để giải bài toán tương tự ­ Tôi cho HS vận dụng các bước giải bài toán mới được lập từ  các dữ  kiện của bài toán 1 trong SGK để từ phân tích, thiết lập để tìm các nước giải   của bài toán 2 trong SGK. d. Hướng dẫn HS luyện tập Nội dung luyện tập của tiết học này gồm 3 bài tập. Với bài tập 1 và bài  tập 2, tôi đều cho HS phân tích đề  bài, tự  đặt câu hỏi phụ  để  tìm bước giải  thứ  nhất, tìm câu trả  lời cho câu hỏi phụ  mà mình tự  đặt và câu hỏi của bài   toán cần vận dụng những dạng toán nào đã học. Riêng bài tập số  3, với   những HS chậm, tôi đưa thêm một số bài toán cho HS chọn bài toán thích hợp   với tóm tắt đã cho. Bài 1: Bao gạo nặng 27 kg, bao ngô nặng hơn bao gạo 5 kg. Hỏi cả hai   bao nặng bao nhiêu ki­lô­gam? Bài 2: Bao gạo nặng 27 kg, bao ngô nặng hơn bao gạo 5 kg. Hỏi bao ngô   nặng bao nhiêu ki­lô­gam? Bài 3.: Bao gạo nặng 27 kg, bao ngô nhẹ  hơn bao gạo 5 kg. Hỏi cả hai   bao nặng bao nhiêu ki­lô­gam? Khi học sinh đưa ra cách chọn bài toán phù hợp với tóm tắt, tôi đều phân   tích cho học sinh hiểu cách chọn nào đúng, cách chọn nào sai và tại sao lại   đúng, hoặc tại sao lại là sai? Khi đã chọn được đúng bài toán, học sinh sẽ giải   được bài toán theo hướng phân tích đi lên để  tìm cách giải như  tôi đã hướng   dẫn ở trên. e. Củng cố Khi học sinh đã nắm được thế  nào là bài toán giải bằng hai phép tính,  cách đặt câu hỏi phụ để tìm bước giải thứ nhất, xác định dạng toán cho từng   15
  16. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính bước giải, cuối tiết học tôi cho học sinh nhận xét các phép tính dùng để giải   những bài toán bằng hai phép tính vừa học  ở  trên. Khi đó, tôi khắc sâu cho  học sinh hiểu đây là những bài toán giải bằng hai phép tính cộng, hoặc phép  tính trừ và phép tính cộng. Mục đích của việc làm này là hình thành các dạng  toán giải bằng hai phép tính mà các em sẽ  được học tiếp trong chương trình  môn toán lớp 3. 3.2. Bài "Bài toán giải bằng hai phép tính" [Tiết 51­Trang 51­SGK Toán 3] Với tiết dạy này, tôi tiến hành như sau: *  Xác định kiến thức kĩ năng của bài: HS biết giải và trình bày bài giải của các bài toán giải bằng hai phép tính;  rèn kĩ năng giải bài toán bằng hai phép tính. * Tổ chức các hoạt động dạy học: a. Kiểm tra bài cũ Nội dung kiểm tra bài cũ là yêu cầu giải 1 hoặc 2 bài toán giải bằng hai  phép tính thuộc dạng toán giải bằng hai phép tính mà học sinh đã được học ở  tiết 50. b. Hướng dẫn bài toán mẫu Tôi không đưa ngay bài toán mẫu như SGK mà đưa một số  dữ  kiện như  sau: Một cửa hàng ngày thứ  nhất bán được 7 xe đạp, ngày thứ  hai bán được  số xe đạp gấp đôi ngày thứ nhất. Tôi yêu cầu học sinh tự đặt câu hỏi để các dữ kiện đã cho trên trở thành  một bài toán giải bằng hai phép tính. Khi học sinh đã đặt đúng câu hỏi, tôi lại   tiến hành hướng dẫn học sinh tìm hướng giải cho bài toán bằng đặt câu hỏi  phụ  kết hợp với thiết lập sơ  đồ  phân tích đi lên, đưa bài toán thành hai bài  toán đơn đã học để giải bài toán. Số xe đạp bán ngày thứ hai: ? xe 7 x 2 = 14 [xe đạp] Số xe đạp bán trong hai ngày: ? xe 7 + 14 = 21 [xe đạp] Cuối cùng, tôi yêu cầu học sinh xác định xem bài toán trên được giải   bằng những phép tính nào, mỗi phép tính để giải bài toán liên quan đến những  dạng toán đơn nào. c. Luyện tập 16
  17. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Nội dung luyện tập trong tiết này cũng gồm 3 bài tập. Với các bài tập 1   và bài tập 2, tôi tổ chức cho học sinh tự tìm các bước giải và giải bài toán rồi  xác định từng bước giải của mỗi bài toán thuộc dạng toán nào đã học. Còn bài  tập số  3 chỉ là bài toán về số  học nhằm giúp củng cố  học sinh kiến thức về  gấp một số lên nhiều lần, thêm một số đơn vị, bớt một số  đơn vị, …  nhưng  để giúp học sinh củng cố kiến thức về giải bài toán bằng hai phép tính, tôi đã  đưa ra một số  bài toán yêu cầu học sinh chọn bài toán phù hợp với sơ  đồ  có   trong bài, nêu cách giải mỗi bài toán đó. Bài toán 1: Lan gấp được 6 cái thuyền, số thuyền của Nga gấp được gấp  đôi số thuyền của Lan, Bình gấp được ít hơn Nga 2 cái thuyền. Hỏi Bình gấp   được bao nhiêu cái thuyền? Bài toán 2: An có 56 viên bi. Sau khi chia cho các bạn, số  bi của An bị  giảm đi 7 lần. Tùng lại cho An thêm 7 viên bi nữa. Hỏi lúc này An có bao  nhiêu viên bi? d. Củng cố Cuối tiết học, tôi yêu cầu HS nhắc lại các bài toán giải bằng hai phép  tính đã học được giải bằng những phép tính nào, liên quan đến những dạng   toán đơn nào đã học để khắc sâu kiến thức cho các em. Như  vậy bằng phương pháp dạy học kiến tạo, bằng hệ  thống câu hỏi  gợi mở, tôi đã hướng dẫn HS vận dụng kiến thức đã học để  hình thành bài  toán giải bằng hai phép tính từ  việc gộp bài toán có 2 lần đáp số, biết cách  phân tích để tiện hướng giải của bài toán giải bằng hai phép tính là tìm ra mối   quan hệ  giữa các dữ  kiện đã cho và dữ  kiện cần tìm, đưa chúng về  hai bài  toán đơn đã học và vận dụng kiến thức đã học để  giải quyết từng bài toán   đơn đó. Nói tóm lại: Nếu học sinh lớp 3 không thấy được mối quan hệ giữa các  dữ kiện trong bài toán thì việc tìm câu trả lời cho câu hỏi phụ sẽ rất khó khăn.   Nếu học sinh lớp 3 không nắm chắc các dạng toán giải bằng một phép tính  thì việc tiến hành các bước giải cho bài toán cũng khó mà thành công. Còn   nếu kĩ năng tính toán của học sinh lớp 3 còn hạn chế thì việc giải các bài toán  bằng hai phép tính sẽ rất chậm chạp và có thể  đáp số  của bài toán sẽ  không  chính xác. 17
  18. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Điều này càng chứng tỏ  rằng giải toán bằng hai phép tính là bài toán  kiểm tra tổng hợp nhiều kiến thức toán học của học sinh. 4. Hướng dẫn học sinh nắm chắc một số dạng toán giải bằng hai phép  tính qua luyện tập Từ  sau bài "Bài toán giải bằng hai phép tính", học sinh được luyện tập  một số  bài toán giải bằng hai phép tính. Nội dung giải toán này được luyện  tập rất nhiều trong suốt quá trình học Toán 3 của học sinh. Những bài toán  giải bằng hai phép tính này không được sắp xếp thành những dạng cụ thể nào  mà chúng chứa một hoặc cả  hai phép tính được dùng để  củng cố  khắc sâu  kiến thức của một bài mới nào đó như nhân, chia số  có 3, 4, 5 chữ  số  với số  có một chữ  số; củng cố  các đơn vị  đo đại lượng; … Nhiều bài không thuộc  một dạng toán điển hình nào mà để  khái quát chúng thành dạng nào đó, trong  quá trình luyện tập, học sinh phải tìm ra các bước giải mỗi bài toán ấy bằng   cách đưa chúng về hai bài toán đơn như tôi đã hướng dẫn học sinh ở trên. Chẳng hạn: Bài tập 1 [trang 52]: Tóm tắt Có : 45 ô tô Rời bến: 18 ô tô và 17 ô tô Còn lại : … ô tô? ­ Khi hướng dẫn HS đặt câu hỏi phụ để tìm cách giải bài toán, các em sẽ  đưa ra hai cách trả lời khác nhau. Với mỗi cách trả lời trên, tôi hướng dẫn HS  tìm ra một cách giải. Từ mỗi cách giải đó, tôi đều hướng dẫn HS nhận xét để  rút ra bài toán được giải bằng những phép tính nào, mỗi phép tính đó là dạng  toán đơn nào đã học. Vậy chúng ta có thể hệ thống các bài toán giải bằng hai phép tính ở lớp  3 như sau: 4.1. Những bài toán không điển hình 4.1.1. Bài toán  giải bằng hai phép tính cộng Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học sau: ­ Bài toán về nhiều hơn, gộp hai số; ­ Bài toán về thêm 2 lần liên tiếp; ­ Bài toán về gộp 3 số hạng. 4.1.2. Bài toán giải bằng hai phép tính trừ 18
  19. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học sau: ­ Bài toán về bớt 2 lần liên tiếp; ­ Bài toán về ít hơn ­ Bài toán về hơn, kém một số đơn vị. 4.1.3. Bài toán giải bằng phép tính nhân và phép tính trừ Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học sau: ­ Bài toán về gộp một số nhóm bằng nhau, bớt đi một số đơn vị; 4.1.4. Bài toán giải bằng phép tính trừ và phép tính chia Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài   toán về bớt một số đơn vị, chia đều. 4.1.5. Bài toán giải bằng phép tính cộng và phép tính chia Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: ­ Bài toán về gộp hai số, chia đều ­ Bài toán về nhiều hơn, so sánh số lớn gấp số bé bao nhiêu lần. 4.1.6. Bài toán giải bằng phép tính nhân và phép tính cộng Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: ­ Bài toán về gộp một số nhóm bằng nhau, gộp hai số [một số là kết quả  của gộp các nhóm đó] 4.1.7. Bài toán giải bằng hai phép tính chia Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài   toán về chia đều, chia thành các phần bằng nhau. 4.1.8. Bài toán giải bằng phép tính nhân và phép tính chia Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài   toán về gộp các nhóm bằng nhau, chia đều 4.1.9.Bài toán giải bằng phép tính chia và phép tính cộng Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Tìm  một trong các phần bằng nhau của một số; gộp hai số. 4.2. Những bài toán điển hình Ngoài các dạng toán giải bằng hai phép tính ở lớp 3 được thống kê ở trên  thì học sinh còn được học một số dạng toán sau: 4.2.1. Bài toán có phép chia có dư 4.2.2. Các bài toán trên quan đến hình học 4.2.3. Bài toán liên quan đến rút về đơn vị 19
  20. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính ­ Khi dạy học sinh giải những bài toán bằng hai phép tính có phép chia có  dư, tôi khắc sâu cho học sinh: Trong câu hỏi thường có từ   “ít nhất” và khi  trình bày bài giải thì phép tính thứ  hai là phép cộng mà số  hạng thứ  nhất là  thương của phép chia còn số hạng thứ hai là 1 . ­ Khi dạy các bài toán giải bằng hai phép tính có liên quan đến hình học  thì tôi lưu ý học sinh: Phép tính thứ  nhất thường đi tìm một trong các yếu tố  chiều dài, chiều rộng của hình chữ  nhật hoặc cạnh của hình vuông sẽ  liên  quan đến một trong những dạng toán đơn đã học, phép tính thứ hai thường là  áp dụng cách tính chu vi, diện tích của một hình. Tuy nhiên, có một số  bài   phép tính thứ nhất đi tìm một trong các yếu tố chiều dài, chiều rộng của hình  chữ  nhật hoặc cạnh của hình vuông lại dựa vào chu vi hoặc diện tích cho   trước của hình đó. ­ Khi dạy các bài toán liên quan đến rút về đơn vị, tôi lưu ý học sinh: Các  bài toán này chỉ  giải bằng phép tính nhân, chia hoặc bằng cả  hai phép chia.   Khi hướng dẫn học sinh hình thành các bước giải tôi cũng hướng dẫn đưa   những bài toán thuộc dạng toán này thành hai bài toán đơn đã học và hướng   dẫn các em phân biệt hai kiểu bài trong dạng toán “Bài toán liên quan đến rút  về đơn vị” để các em không bị nhầm lẫn khi giải dạng toán này. Như vậy, bài toán giải bằng hai phép tính ở lớp 3 quả là rất phong phú.   Đó là những nội dung hay nhưng đồng thời cũng khó đối với cả  giáo viên và   học sinh trong quá trình dạy ­ học. Song với việc tiến hành luyện tập giải  toán như trên, tôi đã khắc sâu cách giải từng bài toán bằng cách thiết lập các  bước giải, hướng dẫn học sinh tìm mối quan hệ  giữa các dữ  kiện của bài  toán, củng cố các dạng toán đơn đã học, đôi khi còn dùng cả những cách củng   cố  có thể  cho là máy móc như  dạng bài liên quan đến phép chia có dư, hình  học, bài toán liên quan đến rút về đơn vị. Nhưng những việc tôi đã tiến hành   như  trên tôi thực sự  thấy hiệu quả, học sinh của tôi giải toán bằng hai phép  tính tốt hơn, biết tìm các bước giải, xác định được các phép tính để  giải bài   toán. Như vậy, việc học và luyện tập giải các bài toán bằng hai phép tính đã  đạt được những mục đích như rèn kĩ năng vận dụng tri thức, củng cố tri thức,   phát triển năng lực tư duy. 5. Tổ chức cho học sinh luyện tập giải toán trong các tiết dạy ở buổi hai 20

Page 2

YOMEDIA

Mục đích của sáng kiến này là giúp hiểu sâu hơn về nội dung dạy học giải toán ở lớp 3, các phương pháp và hình thức tổ chức giờ dạy về giải toán ở lớp 3, các hướng phát triển cho một bài toán về giải toán ở lớp 3.

04-03-2021 61 13

Download

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề