Nêu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ nhặt

Đề bài: Giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.Bài làmI. Mở bàiTruyện ngắn giai đoạn 1945 – 1985 đã đạt được những thành tựu xuất sắc, trong đó Kim Lân là gương mặttiêu biểu, dù nhà văn sáng tác không nhiều. Theo nhà văn Bôn-đa-rép thì nghệ thuật sinh ra từ những tháicực và xung đột. Ý kiến này có thể chưa đúng trong mọi trường hợp nhưng truyện Vợ nhặt ra đời từ một tháicực của đời sống. Vợ nhặt đã ghi lại chân thực cảnh nạn đói mùa xuân năm 1945, một tai họa thảm khốctrong lịch sử của dân tộc ta. Trên cái nền tăm tối ấy, Kim Lân đã làm nổi bật phẩm chất tốt đẹp của ngườilao động Việt Nam. Do đó truyện vừa có giá trị hiện thực vừa có giá trị nhân đạo cao quý.II. Thân bài.1. Giá trị hiện thực.a. Giá trị hiện thực về bức tranh nạn đóiNgay từ đầu tác phẩm, tác giả đã hắt vào truyện thứ ánh sáng của hoàng hôn xám xịt. Theo bước chânTràng từ phố chợ đến miền quê, người chết rải rác nằm cong queo bên lề đường, người sống thì đi lại dậtdờ, mặt mày xanh xám như những bóng ma, những đứa trẻ của xóm ngụ cư ngồi ủ rũ ở những xó đườngkhông buồn nhúc nhích, không khí vấy lên mùi ẩm thối, trên cây gạo đầu làng tiếng quạ gào lên từng hồi thêthiết. Cả một vùng như biến thành bãi tha ma trong không gian đầy mùi tử thi. Mội cõi dương có hơi ám cõiâm. Thời gian và không gian nghệ thuật là một tín hiệu thẩm mĩ, nó báo rằng đó là thời điểm con người đangđứng ở ranh giới giữa ánh sáng với bóng tối, giữa trần gian với địa ngục. Cả dân tộc đang đứng trước hoànghôn của cuộc đời, đứng mấp mé bên bờ vực thẳm. Điều đó cho thấy sự tàn phá ghê gớm của nạn đói, mộthiện thực thê thảm.b. Hiện thực về thân phận người lao động- Trong hoàn cảnh ấy, thân phận con người thật là bèo bọt. Người đàn bà Tràng gặp ngoài kho thóc quần áorách tả tơi, thân hình gầy sọp vì đói. Người đàn bà này theo không Tràng mà chẳng còn chút sĩ diện, danhdự. Đó là một sự thật, một hiện thực mỉa mai, cay đắng mà cũng đầy xót xa. Thân phận con người chẳngkhác gì cỏ rác.- Mẹ con Tràng chỉ chòn cháo cám cầm hơi, nhà cửa chẳng khác gì gia cảnh của chị Dậu [Tắt đèn – Ngô TấtTố]. Họ đứng trước tương lai mờ mịt, nạn đói đang đe dọa đến sinh mạng. Đó là hiện thực về thân phận bọtbèo, hẩm hiu của người lao động trước CMT8.= > Theo bước chân Tràng, truyện mở ra một hiện thực thê thảm, một thế giới điêu tàn xác xơ vì sự pháhoại của nạn đói. Số phận cả dân tộc thật hắt hiu, buồn não. Nguyên nhân là do bọn thực dân, phát xít gâynên truyện không đề cập trực tiếp đến tội ác của chúng nhưng sức tố cáo vẫn mạnh mẽ.2. Giá trị nhân đạoTrong cảnh bần cùng đói rách, người ta có thể sống lạnh lùng, ích kỉ thậm chí tàn nhẫn, nhưng người laođộng Việt Nam vẫn sống nhân hậu, chan hòa yêu thương, vẫn ngời sáng tấm lòng nhân đạo. Từ trong tămtối, đói nghèo vút lên ánh sáng của lương tri, của tinh thần tương thân tương ái. Đó là phần đẹp nhất, là giátrị tư tưởng chính của tác phẩm.a. Kim Lân đã hết lời ca ngợi tấm lòng tốt đẹp của mẹ con Tràng.- Nhìn bề ngoài có vẻ xấu xí nhưng Tràng có cách ứng xử rất đẹp. Khi đẩy thuê xe thóc ra kho, thấy ngườiđàn bà đói thì Tràng cho ăn, dù anh ta chẳng có dư giả gì. Hành động có vẻ ngẫu hứng nhưng cũng thể hiệnsự nhườm cơm sẻ áo. Trong nạn đói miếng ăn là cả vấn đề sinh mạng nên hành động kia là một nghĩa cửcao đẹp. Sau đó người đàn bà theo về làm vợ Tràng cũng chấp nhận, mặc dù anh ta cũng hơi sợ. Tấm lòngcưu mang này còn có một nguyên cớ thật đẹp ở bên trong: niềm khao khát tình yêu và hạnh phúc gia đình.Tâm tư, tình cảm của Tràng đặt trong tình cảnh này thật đáng quý, đáng trân trọng. Dù nghèo nhưng sốngnhân ái nên Tràng đã được bù đắp. Sáng hôm sau, Tràng cảm thấy hạnh phúc thực sự. Bây giờ hắn mới thấyhắn nên người, sự chuyển biến ý thức này có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Vì cái đói không làm người ta trởthành quay quắt mà làm thức dậy những phẩm giá tốt đẹp.- Bà cụ Tứ là người mẹ có tấm lòng thật cao cả. Việc Tràng lấy vợ làm bà ngạc nhiên đến sững sờ, nhưngnghĩ lại bà đã hiểu ra. Khi hiểu ra sự tình, lòng người mẹ nghèo cảm thấy xót xa, nghẹn ngào nước mắt. Bàthường cho số kiếp nghèo, bèo bọt, thua thiệt của con trai nên mới đi nhặt vợ… Bà tủi thân già không lođược cho con, hận mình không tròn bổn phận làm cha, làm mẹ nên con trai mới đến nông nỗi này. Thươngcon bao nhiêu, bà thương người bấy nhiêu. Bà nhìn người đàn bà xa lạ kia với ánh mắt ái ngại, cảm thông vàý nghĩ xuất phát từ tấm lòng bao dung, nhân hậu: Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mớilấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thế nên cụ sẵn sàng cưu mang, chấp nhận nàng dâu mới.Nghĩ đến cảnh sống hiện tại, cụ vừa mừng vừa lo cho hạnh phúc của hai con, nhưng cụ lại tin tưởng: ai giàuba họ, ai khó ba đời, rồi ra con cái chúng mày về sau…- Còn người vợ nhặt,bị nạn đói đập cho tơi tả, nhưng cô ta cũng cố bám víu, cố gắng vươn lên tìm lấy sựsống, khát khao được sống, được hạnh phúc. Khi trở thành người thân trong gia đình Tràng, cô ta toát ra vẻđẹp của người vợ hiền, nàng dâu thảo. Như vậy, qua nhân vật Tràng, cụ Tứ và người vợ nhặt, Kim Lân đã cangợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động Việt Nam. Họ luôn sống nhân ái, giàu tình cảm, trong hoạn nạnđã nhường cơm sẻ áo, cưu mang đùm bọc nhau, trong đói nghèo vẫn luôn khao khát tình thương, mái ấmgia đình; vẫn tinh tưởng vào tương lai cuộc đời sẽ tốt đẹp.b. Khi cuộc đời của gia đình nông dân này chưa tìm được lối thoát thì Cách mạng đã đến với họ.Hình ảnh đoàn người đi trên đê Sộp với lá cờ đỏ phấp phới hiện lên trong sự tiếc rẻ của Tràng, thì chắc chắnlần sau anh sẽ đi cùng với họ. Anh sẽ hòa chung với dòng người đói khổ để mang về ánh sáng hạnh phúc nóấm và cả một tương lai tươi đẹp. Cách kết thúc có hậu đã ngầm ca ngợi tư tưởng nhân đạo của một cáchmạng. Trong tác phẩm, Kim Lân còn kín đáo bộc lộ niềm đồng cảm của mình đối với nhân vật qua cách kểchuyện, cách xây dựng hình tượng nhân vật.- Giọng kể chậm rãi, từ tốn, nhẹ nhàng, cái nhìn của người kể gần gũi, cảm thông, cách miêu tả tâm lí tinhtế, sâu sắc; chứng tỏ nhà văn đã nhập thân vào nhân vật nên mới hiểu được những ngóc ngách trong tâm tưthầm kín của họ, mới lắng nghe được khát vọng cùng bao nỗi buồn vui của mẹ con Tràng.- Tác giả xây dựng nhân vật Tràng có vẻ hoang sơ nhưng chưa phải là hoang dã, thô kệch nhưng không thôlỗ, hồn nhiên, vô tâm nhưng chưa phải ngờ nghệch. Còn người vợ nhặt có chút điêu ngoa nhưng chưa phảiđanh đá, nanh nọc; có chút lẳng lơ nhưng chưa hư hỏng. Ranh giới giữa hai khái niệm trên rất mỏng, nếungòi bút thiếu bản lĩnh, rơi vào sa đà thì nhân vật sẽ không chiếm được cảm tình nơi người đọc. Giữ đượcđiều ấy chứng tỏ tác giả đã có một lập trường vững vàng và xây dựng nhân vật của mình bằng cả một tấmlòng.= > Truyện lên án chế độ thực dân phát xít đã gieo rắc đau thương cho nhân dân ta; đồng cảm với cảnh đóinghèo, thân phận đáng thương; ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người lao động, tin tưởng vào phẩmgiá và khả năng vươn dậy của con người… là những biểu hiện cảm động của chủ nghĩa nhân đạo.III. Kết bàiBằng tình huống truyện độc đáo, Kim Lân đã mở ra bức tranh nạn đói mùa xuân năm 1945 với cái nghèokhó, tàn tạ của một gia đình nông dân, những thân phận thấp hèn, tủi buồn, chẳng có được bao nhiêu niềmvui trong ngày cưới. Thế nhưng tác giả đã nhìn vào hiện thực ấy bằng cái nhìn yêu thương, tin tưởng nên đãthấy được vẻ đẹp tấm lòng của những mảnh đời khốn khó, thấy được sử vận động đi lên khỏe khoắn củahiện thực sẽ làm thay đổi những kiếp người trong cuộc đời cũ.

Bài văn Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện Vợ nhặt gồm dàn ý chi tiết, 3 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn.

Dàn ý Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện Vợ nhặt

I. Mở bài.

– Giới thiệu vắn tắt về Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt

Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn đặc sắc cuae nhà văn Kim Lân , in trong tập Con chó xấu xí. Vợ nhặt có tiền thân là truyện Xóm ngụ cư – viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Bản thảo chưa in thì bị thất lạc, sau này được tác giả viết lại.

II. Thân bài.

1. Giá trị hiện thực của tác phẩm Vợ nhặt

– Bối cảnh của truyện ngắn Vợ nhặt là khung cảnh nông thôn Việt Nam vào một thời kì ngột ngạt và đen tối nhất- đó là nạn đói năm Ất Dậu 1945. Bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật buộc người nông dân phải nhổ lúa và hoa màu để trồng đay, phục vụ cho nhu cầu chiến tranh. Người dân các tỉnh ở đồng bằng Bắc bộ lâm vào nạn đói khủng khiếp, gần hai triệu người chết đói. Hiện thực đau thương đó đã được phản ánh trong nhiều truyện của Nguyên Hồng, Tô Hoài và thơ của Văn Cao… Nhà văn Kim Lân cũng góp tiếng nói tố cáo của mình trong tác phẩm Vợ nhặt.

– Đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Kim Lân trong tác phẩm Vợ nhặt là mặc dù không có một dòng nào tố cáo trực tiếp tội ác của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật, hình ảnh của chúng cũng không một lần xuất hiện, nhưng tội ác của chúng vẫn hiện lên một cách rõ nét. Khung cảnh làng quê ảm đạm, tối tăm. Những căn nhà úp súp . Những xác chết nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người…

– Cuộc sống của người nông dân bị đẩy đến bước đường cùng. Tính mạng của con người lúc này thật rẻ rúng, người ta “ nhặt” được vợ giống như nhặt cái rơm, cái rác ở bên đường. Thông qua tình huống truyện lấy vợ của Tràng, Kim Lân không chỉ nói lên được thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam trước Cách mạng , mà còn thể hiện được thân phận đói nghèo, bị rẻ rúng của người nông dân trong chế độ xã hội cũ [ Chú ý phân tích cảnh bữa cơm đón nàng dâu mới ở nhà Tràng vào thời điểm đói kém: giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo…rồi nồi “ chè khoán” nấu bằng cám.] Ở phần cuối của tác phẩm, những nhân vật nghèo khó này cũng khao khát sự đổi thay về số phận. Chúng ta cũng thấy thoáng hiện lên niềm dự cảm của tác giả về tương lai, về cách mạng[ qua hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng và những đoàn người đi phá kho thóc của Nhật].

2. Giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ nhặt

– Kim Lân đã viết về cuộc sống của người nông dân Việt Nam trước cách mạng với một niềm đồng cảm, xót xa, day dứt. Nếu không có một tình cảm gắn bó thực sự với người nông dân , không trải qua những năm tháng đen tối ấy, không dễ gì viết nên được những trang sách xúc động và thấm thía đến thế.

– Giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện ở chỗ, nhà văn đã phát hiện và miêu tả những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Mặc dù bị xô đẩy đến bước đường cùng, mấp mé bên cái chết, nhưng những người nông dân vẫn cưu mang, giúp đỡ nhau, chia sẻ cho nhau miếng cơm, manh áo. Hiện thực cuộc sống càng đen tối bao nhiêu [ chú ý phân tích cảnh bà cụ Tứ chấp nhận cô con dâu mới trong lúc gia đình cãng đang rất khó khăn, không biết sống chết lúc nào, đê làm nổi rõ tình người của họ].

– Kim Lân cũng thể hiện một sự trân trọng đối với khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và mái ấm gia dình của người nông dân.

Trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng bà cụ Tứ và vợ chồng Tràng vẫn luôn hướng tới một cuộc sống gia đình đầm ấm, hạnh phúc [ cần chú ý những chi tiết diễn tả tâm trạng bà cụ Tứ, thái độ của Tràng, vợ Tràng trong bữa ăn, rồi nhà cửa , sân vườn đều được quét tước , thu dọn sạch sẽ, gọn ghẽ].Một cái gì mới mẻ, khác lạ đang đến với mỗi thành viên trong gia đình bà cụ Tứ và hé mở trước họ một niềm tin về tương lai.

III. Kết bài.

– Vợ nhặt là một tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân. Qua tác phẩm này, chúng ta không chỉ nhận thấy tài năng của nhà văn, sự hiểu biết sâu sắc, cặn kẽ của ông về cuộc sống của người nông dân, mà điều quan trọng hơn đó chính là cái tâm, cái tấm lòng gắn bó thiết tha, sâu nặng của Kim Lân đối với những người lao động nghèo khó trước Cách mạng.

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện Vợ nhặt - mẫu 1

Trong những tác phẩm văn học Việt Nam, ngoài những nội dung sâu sắc mà tác giả gửi gắm qua thì những tác phẩm đó còn thể hiện những giá trị hiện thực và những tâm tư của tác giả. Và trong tác phẩm “Vợ nhặt’’ cũng vậy, ngoài việc tái hiện lại bức tranh ngày đói mà con người hiện lên thê thảm thì Kim Lân còn thổi vào trong bức tranh đó nhiều giá trị hiện thực và nhân đạo.

Trước hết, truyện ngắn “Vợ nhặt” mang giá trị hiện thực sâu sắc. Tác phẩm đã phản ánh chân thực nạn đói 1945 khủng khiếp. Đó là một trong những thời kỳ đen tối nhất của nước ta. Cảnh tang thương ảm đạm của nạn đói được Kim Lân diễn tả cụ thể và sinh động. “Những gia đình từ những vùng Nam Định…người chết như ngả rạ”. Chỉ với những câu văn ngắn ngủi mà Kim Lân cho thấy được ranh giới của sự sống và cái chết rất mong manh. Người sống thì thoi thóp, người chết thì như ngả rạ. Bức tranh ngày đói hiện lên như găm sâu vào từng khúc thịt của người đọc bởi quá thê thảm và khủng khiếp. Kim Lân không né tránh sự thật mà ông nhìn vào thẳng vấn đề để diễn tả những tang thương này.

Đồng thời, truyện ngắn “Vợ nhặt” cho chúng ta thấy được thân phận rẻ rúng của con người cùng với sự thê lương của số phận người nông dân trong hoàn cảnh bấy giờ. Điều này được thể hiện rõ nhất qua nhân vật người vợ nhặt. Cái đói cái nghèo đã đùn đẩy tới mức chỉ sau hai lần gặp Thị theo Tràng về làm vợ với mâm cỗ ra mắt là 4 bát bánh đúc và một câu bông đùa. Chỉ vì miếng ăn, cái đói cái nghèo mà đưa đẩy số phận của một con người. Để rồi Tràng lấy vợ mà Kim Lân gọi là “nhặt vợ” như nhặt những đồ vật chẳng có chút giá trị nào trên đường.

Bên cạnh những giá trị hiện thực sâu sắc nhà văn Kim Lân còn gửi vào những trang văn của mình tấm lòng nhân đạo thiết tha. Mỗi câu chữ của nhà văn thể hiện đều thấm đượm lòng thương cảm của nhà văn đối với số phận bi thảm của con người. Mỗi một nhân vật mà tác giả xây dựng đều cho thấy được niềm xót thương, cảm thông với cuộc đời con người trong nạn đói ấy. Có nhiều lúc người đọc có thể cảm nhận được như tác giả nhập thân và chính nhân vật để chia sẻ và cảm thông với cuộc sống của họ. Có những câu văn khi đọc lên còn thấy tác giả dường như rưng rưng xúc động. Chẳng hạn khi miêu tả tâm trạng của các thành viên trong bữa cơm ngày đói, Kim Lân miêu tả: “Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí của mỗi người”.

Bên cạnh đó, nhà văn còn phát hiện, trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của con người trong nạn đói năm 45 ấy. Mặc dù cái đói, cái nghèo truy đuổi ráo riết như vậy nhưng ở họ vẫn sáng lên tư chất của những con người có vẻ đẹp tâm hồn. Ở bà cụ Tứ là lòng yêu thương con sâu sắc, lòng nhân ái và đức hi sinh cao cả. Ở nhân vật Tràng để lại cho người đọc bởi vẻ chất phác, hiền lành, thật thà. Còn ở người phụ nữ làm “vợ nhặt” kia lại là sự đảm đang, biết điều và hiền hậu. Đặc biệt người làng xóm ngụ cư hiện lên là những người đầy tình nghĩa làng xóm, họ quan tâm và động viên Tràng. Để có thể thấy rằng, bức tranh tối mịt ngày đói ấy vẫn le lói thứ ánh sáng của tình người. Chấp nhận trong hoàn cảnh “một sống hai chết” ấy nhưng con người vẫn không đầu hàng số phận.

Kim Lân còn nâng niu và trân trọng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của người nông dân. Ham sống là khát vọng mang tính nhân bản của con người. Kim Lân đã phát hiện và khẳng định điều đó ở nhân vật Thị. Thị cố gắng chạy thoát sự rượt đuổi của tử thần. Việc Thị theo Tràng về làm vợ trong hoàn cảnh ấy quả thực không đáng khinh mà nó là khát vọng sống chính đáng của con người. Đồng thời, qua tác phẩm, nhà văn còn lên án mạnh mẽ đối với bọn thực dân, phát xít. Chính thực dân Pháp và phát xít Nhật đã đẩy nhân dân lao động ta vào cảnh khốn cùng.

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện Vợ nhặt - mẫu 2

Người ta thường nói nghèo thường đi đôi với hèn. Nhưng khi đến với truyện ngắn “vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, ta sẽ hiểu vẫn có những con người đã sống rất thanh cao, rất lương thiện trong cái đói khủng khiếp với cái nghèo bần cùng. Không những thế, tác phẩm còn ẩn chứa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc mà Kim Lân đã gửi gắm vào đó. Bản thân ông cũng là một người được sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo khổ, nên hơn ai hết, ông hiểu rất rõ sự kham khổ của mọi người. Vì thế, trong những trang văn của ông vẫn thường thấp thoáng bóng dáng của những người nông dân tuy sống khắc khổ nhưng tấm lòng trong sạch.

Trong tác phẩm “Vợ nhặt” cũng vậy, Kim Lân cũng viết về cuộc sống cùng cực của vùng quê nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Khi đó, người sống và người chết xuất hiện lẫn lộn nhau. Người chết như ngả rạ, còn người sống dật dờ lang thang như những hồn ma. Kim Lân miêu tả rất chi tiết: những cái thây nằm còng queo bên đường, không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người, xóm chợ về chiều xơ xác hắt hiu, hai bên dãy phố úp sụp tối om không nhà nào có ánh đèn ánh lửa. tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết… Cảnh đói được nhà văn miêu tả lại quá thê lương và xót xa. Chỉ qua một vài hình ảnh, người đọc cũng có thể hình dung ra ngay trước mắt mình cảnh những người chết đói nằm rải rác ngoài đường ngoài chợ, người ta không cả nghĩ đến chuyện chôn cất, ma chay.

Cái đói còn làm cho người ta không dám nghĩ đến chuyện dựng vợ, gả chồng. Khiến cho Tràng – một người cùng khổ trong nạn đói ấy phải “nhặt” vợ. Trong bữa cơm ngày đầu của gia đình mới lẽ ra là một mâm cơm dù không thịnh soạn thì chí ít cũng có đầy đủ chút cơm rau dưa muối. Nhưng không, không cơm, không rau, cũng chẳng dưa cà dưa muối. Bữa cơm ngày đói chỉ có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo. Mỗi người chỉ ăn được hai lưng bát là hết sạch. Mẹ Tràng phải mang cháo cám ra cho cả nhà ăn. Nồi cháo cám đắng xít nhưng lại trở thành một thứ đồ ăn hiếm có.

Chính bọn thực dân phong kiến đã nhẫn tâm bắt người dân phải nhổ lúa trồng đay. Đay nào có thể ăn được. Rồi các loại sưu cao thuế nặng càng làm cho người dân khổ cực. Ăn còn không có miếng mà ăn thì lấy đâu ra tiền ra thóc mà đóng thuế. Bọn chúng đúng là muốn dồn người ta vào bước đường cùng, vào chỗ chết.

Tất cả những điều trên đã làm nên giá trị hiện thực sâu sắc cho tác phẩm. Thế nhưng, giữa cảnh đời thê lương ấy, tình người và niềm ước mong hạnh phúc vẫn luôn rực sáng trong lòng mỗi người. Đây chính là giá trị nhân đạo rất lớn mà tác phẩm đã mang lại cho người đọc. Giữa những cái xác ven đường, giữa những người đói dật dờ như những bóng ma, Tràng và thị lại dắt díu nhau về. Có lẽ sự kiện này có điều gì đó rất nghịch lý. Ngay chính bản thân Tràng cũng chợn nghĩ ở cái thời buổi này đến bản thân mình còn không biết có lo nổi không mà còn đèo bòng. Nhưng rồi, Tràng vẫn bước qua mọi lo lắng, thậm chí là sự sợ hãi, Tràng chậc kệ một cái và cùng thị bước tiếp trong sự ngỡ ngàng của mọi người.

Cuộc “nhặt” vợ chóng vánh đầy hài hước và rất ngẫu nhiên của Tràng tưởng như một chuyện đùa nhưng lại chính là điểm mấu chốt thể hiện niềm tin yêu vào cuộc sống, tin rằng ngày mai cuộc đời sẽ tươi sáng hơn, bớt khổ hơn. Hơn thế nữa, sự kiện này còn thể hiện tình thương yêu, niềm đồng cảm lớn lao giữa những con người cùng khổ. Đúng như câu tục ngữ lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều. Chỉ có điều trong cái xã hội này, có lẽ ai cũng rách như ai. Hai con người cùng chung một số phận nghèo nàn đói khổ, dắt nhau về dù chưa hề có dự tính gì cho tương lai. Trước mắt họ vẫn chỉ là những xác chết ngổn ngang, những bóng người đói dật dờ. Họ thật can đảm, hay nói một cách khác là quá liều lĩnh. Bởi trong lúc đói khổ như thế này, có được miếng ăn đã là một việc lớn lao lắm rồi. Vậy mà họ còn lấy vợ, lấy chồng – một việc quá lớn lao, quá sức tưởng tượng của mọi người. Nhưng dù sao, điều này cũng khiến cho những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì đó lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ.

Cảnh “nhặt” vợ tuy đầy bi hài nhưng lại chính là niềm khát khao hạnh phúc của những con người đang trong tình trạng ngàn cân treo sợi tóc. Sự sống của họ có thể bị cơn đói nhấn chìm bất cứ lúc nào. Nhưng có lẽ, càng cận kề cái chết bao nhiêu thì niềm ham sống lại càng cao bấy nhiêu. Tràng và thị đã cùng nhau đi qua cơn đói, cùng bước qua những xác chết ngổn ngang. Vì niềm hạnh phúc, niềm hy vọng đang tràn ngập trong họ. Đến ngay cả bà cụ Tứ – mẹ Tràng là người đã trải qua bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống, bà hiểu hơn ai hết những khó khăn phía trước của đôi vợ chồng trẻ, nhưng bà vẫn mừng lòng. Hơn nữa, chính bà là người khơi dậy thêm nhiều niềm tin cho con mình ngay trong những ngày đầu tiên có vợ. Nhất là bữa cơm đầu tiên với nàng dâu. Dù chẳng có gì cao sang ngoài rau chuối và cháo nhưng họ đã cùng nhau ăn với tất cả niềm đồng cảm và lòng yêu thương của mình dành cho nhau. Bà nói đến những chuyện vui: khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem. Một niềm ước muốn thật giản dị, thật đơn sơ nhưng đã có sức thúc đẩy niềm hy vọng trong Tràng và vợ Tràng rất lớn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Cháo hết, bà lão nghĩ ngay đến nồi cháo cám. Bà thừa hiểu cháo cám đắng xít, rất khó ăn. Nhưng giữa lúc vui như thế này, bà đã hào hứng dỗ dành con ăn cháo cám như một người mẹ dỗ dành cho con nít ăn một thứ gì đó ngon lắm. Bà hồ hởi: Tao có cái này hay lắm cơ. Bà bưng nồi cháo cám lên, rồi vẫn với giọng vui tươi ấy: Chè đây. Chè khoán đây, ngon đáo để cơ. Những phút giây vui vẻ dẫu chẳng bao nhiêu nhưng vẫn là niềm hi vọng lớn lao của cả gia đình. Mỗi người đều tự nghĩ rằng mình phải có trách nhiệm với căn nhà này.

Nếu như ở ngoài đường, ngoài chợ, người ta đang nằm la liệt, kiệt sức vì sắp chết đói thì ở đây, trong căn nhà nhỏ bé xơ xác này dẫu cũng đói, cũng thiếu thốn nhưng có một niềm tin đang được nhóm lên. Họ tin rằng, ngày mai sẽ tươi sáng hơn, nạn đói sẽ sớm được đẩy lùi. Nhất là khi hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới, công cuộc phá kho thóc của Nhật nổ ra. Người nông dân sau bao cam chịu ắt sẽ đứng lên giành lấy độc lập tự do cho chính mình. Họ sẽ không còn phải đói phải khổ như bây giờ nữa.

Người dân càng khổ cực bao nhiêu thì lòng căm phẫn của họ dành cho bọn đế quốc càng sâu sắc bấy nhiêu. Trước sau gì bọn chúng cũng sẽ phải trả giá. Đó là một quy luật tất yếu: có áp bức ắt có đấu tranh. Và đấu tranh vì chính nghĩa vẫn luôn luôn giành thắng lợi.

Như vậy, với giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, tác phẩm đã gieo vào lòng những đọc sự xót xa, đồng cảm cho những kiếp nghèo cùng cực. Đồng thời cổ vũ họ hãy đoàn kết lại rồi tự đứng lên giải phóng cho cuộc đời mình. Kim Lân đã rất thành công khi xây dựng nên câu truyện hấp dẫn này. Cho đến nay, tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị.

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện Vợ nhặt - mẫu 3

Kim Lân đã có lần tâm sự "Ý nghĩa của truyện: trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui, để mà hi vọng" [Cách mạng, kháng chiến và đời sống văn học - NXB Tác phẩm mới, 1985]

Với một ý đồ như thế, Kim Lân chọn nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu làm bối cảnh cho truyện thì quả là đắc địa. Vợ nhặt trước hết là thiên truyện nói về cái đói. Chỉ mấy chữ "Cái đói tràn đến..." đủ gợi lên hoài niệm kinh hoàng cho người dân xứ Việt về một thảm hoạ lớn của dân tộc đã quét đi xấp xỉ gần một phần mười dân số trên đất nước ta. Đúng như chữ nghĩa Kim Lân, hiểm hoạ ấy "tràn đến", tức là mạnh như thác dữ. Cách tả của nhà văn gây một ám ảnh thê lương qua hai loại hình ảnh: con người năm đói và không gian năm đói. Ông đặc tả chân dung người năm đói "khuôn mặt hốc hác u tối" nhưng đáng sợ nhất là có tới hai lần ông so sánh người với ma: "Những gia đình từ những vùng Nam Định, đội chiếu lũ lượt bồng bế , dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma", và "bóng những người đói đi lại lặng lẽ như những bóng ma". Kiểu so sánh ấy thể hiện một cảm quan đặc biệt của Kim Lân về cái thời ghê rợn: đó là cái thời ranh giới giữa người và ma, cái sống và cái chết chỉ mong manh như sợi tóc. Cõi âm nhoà vào cõi dương, trần gian mất mép miệng vực của âm phủ. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, cái tiếng quạ "gào lên từng hồi thê thiết" cùng với "mùi gây gây của xác người" càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Quả là cái đói lộ hết sức mạnh huỷ diệt cuộc sống đến mức kinh khủng. Trong một bối cảnh như thế, Kim Lân đặt vào đó một mối tình thì quả thật là táo bao. Cứ như thủ thuật "trêu tức" của điện ảnh, Kim Lân tạo ra một "xen" thật bi hài. Khi cái dạ dày còn chưa được đầy đủ thì ngay cái sản phẩm tinh thần kì diệu nhất của loài người là tình yêu cũng làm sao tránh được sự méo mó. Chao ôi, toàn chuyện cười ra nước mắt: bốn bát bánh đúc ngày đó mà làm nên một mối tình, nồi cám ngày đói đủ làm cỗ tân hôn...Ngòi bút khắc khổ của Kim Lân không né tránh mà săn đuổi hiện thực đến đáy, tạo cho thiên truyện một cái "phông" đặc biệt, nhàu nát, ảm đạm , tăm tối và phải nói là có phần nghiệt ngã.

Nhưng quan tâm chính của nhà văn không phải là dựng nên một bản cáo trạng trong Vợ nhặt, mà dồn về phía khác, quan trọng hơn. Từ bóng tối của hoàn cảnh, Kim Lân muốn tỏa sáng một chất thơ đặc biệt của hồn người. Mảng tối của bức tranh hiện thực đau buồn là một phép đòn bẩy cho mảng sáng về tình người tỏa ra ánh hào quang đặc biệt của một chủ nghĩa nhân văn tha thiết cảm động.

Trong văn chương, người ta nhấn mạnh chữ tâm hơn chữ tài. Song nếu cái tài không đại đến một mức độ nào đó thì cái tâm kia làm sao bộc lộ ra được. Vợ nhặt cũng thế: tấm lòng tha thiết của Kim Lân sở dĩ lay động người đọc trước hết là nhờ tài dựng truyện và sau đó là tài dẫn truyện. Tài dựng truyện ở đây là tài bạo nên tình huống truyện độc đáo. Ngay cái nhan đề Vợ nhặt đã bao chứa một tình huống như thế. Trong một bài phỏng vấn, Kim Lân đã hào hứng giải thích: "Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy giá trị của một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ mấy bát bánh đúc bán ngoài chợ - đúng là "nhặt được vợ như tôi nói trong truyện " [Báo văn nghệ số 19, ngày 8 -5- 1993 -tr5]. Như vậy thì cái thiêng liêng [vợ] đã trở thành rẻ rúng [nhặt]. Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: cái chủ thể của hành động "nhặt" kia là Tràng, một gã trai nghèo xấu xí, dân ngụ cư đang thời đói khát mà đột nhiên lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho xóm làng, bà cụ Tứ và chính bản thân Tràng nữa: "cho đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải như thế . Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?".Tình huống trong gợi ra một trạng thái tinh tế của lòng người: trạng thái chông chênh khó nói - cái gì cũng chập chờn, như có như không. Đây là niềm vui hay nỗi buồn? Nụ cười hay nước mắt?... Cái thế đặc biệt của tâm trạng này đã khiến ngòi bút truyện ngắn của Kim Lân mang dáng dấp của thơ ca.

Dựng truyện hay chưa đủ. Tài dựng truyện giống như tài của anh châm ngòi pháo. Có lửa đốt, châm đúng ngòi nhưng pháo có nhiều quả điếc thì vẫn cứ xịt như thường. Cho nên tài dựng truyện phải gắn với tài dẫn truyện nữa mới tạo sự sâu sắc, hấp dẫn. Tài dẫn truyện của Kim Lân thể hiện qua lối sử dụng ngôn ngữ nông dân đặc biệt thành công, qua lời văn áp sát vào tận cái lõi của đời thực khiến mỗi câu chữ như được "bứng" ra từ chính cái ngồn ngộn của cuộc sống. Song quan trọng nhất vẫn là ở bút pháp hiện thực tâm lý. Phải nói, tình huống truyện trên kia thật đắc địa cho Kim Lân trong việc khơi ra mạch chảy tâm lý cực kỳ tinh tế ở mỗi nhân vật. Rất đáng chú ý là hai trường hợp: bà cụ Tứ và Tràng. Đây là hai kiểu phản ứng tâm lý trước một tình thế như nhau, song không ai giống ai. Trước hết là Tràng, một thân phận thấp hèn nhưng lại là một chú rể có thể coi là hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực bao giờ cũng gây một chấn động tâm lí lớn. Chấn động ở Tràng tạo một mạch tâm lý ba chặng. Khởi đầu là ngỡ ngàng. Hạnh phúc gây men ở Tràng thành cảm giác mới mẻ kì diệu. Cảm giác ấy hút lấy toàn bộ con người hắn: vừa lặn vào tâm linh [Trong người êm ái lửng lơ như người ở trong giấc mơ đi ra] vừa tỏa ra, vật chất hóa thành cảm giác da thịt [Một cái gì đó mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng]. Với cây bút hiện thực, những đoạn văn như thế đã đạt đến "thần bút", vì trạng thái người viết như nhập vào làm một với trạng thái nhân vật [còn gọi là năng lực "hóa thân" trong văn xuôi, năng lực "nhập thần" trong thơ ca]. Rồi cái ngỡ ngàng hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu tình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình - một niềm vui giản dị nhưng lớn lao không gì sánh nổi. Chẳng thế mà một người nổi tiếng như Tsecnưsepxki từng mơ ước: "Tôi sẵn sàng đánh đổi cả sự nghiệp nếu biết rằng trong một căn phòng nhỏ ấm áp nào đó, có một người đàn bà đang ngóng đợi tôi về ăn bữa tối". Chàng thanh niên nghèo hèn của Kim Lân đã thực sự đạt được một niềm vui như thế: "Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng với vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn sung sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng". Một niềm vui thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn giấc mơ. Điều này thì anh Tràng của Kim Lân còn may mắn hơn Chí Phèo của Nam Cao: hạnh phúc đã nằm gọn tay Tràng, còn Thị Nở mới chấp chới tầm tay Chí Phèo thì đã bị cái xã hội đen tối cướp mất. Có một chi tiết rất đắt của Kim Lân: "Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà". So với cái dáng "ngật ngưỡng" mở đầu tác phẩm, hành động "xăm xăm" này của Tràng là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Chẳng thế mà Kim Lân đã thấy đủ điều kiện đặt vào dòng suy nghĩ của Tràng một ý thức bổn phận sâu sắc: "Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này". Tràng đã thực sự "phục sinh tâm hồn" - đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc. Cô Kiều xưa "xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" thì táo bạo đấy mà vẫn cứ chênh vênh, đơn độc thế nào. Cái xăm xăm của Tràng mới thực khỏe, tự tin làm sao!

Bình luận truyện Vợ nhặt, không hiểu sao có một câu rất quan trọng của Kim Lân mà mọi người cứ bỏ qua. Đó là câu kết truyện: "Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói lả và lá cờ đỏ bay phấp phới...". Một câu kết như thế, chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật sẽ sa vào lối kết cấu khép của văn học hiện thực phê phán. Sự bổ sung chi tiết này tạo ra một kết cấu mở khiến Vợ nhặt thực sự vượt qua phạm trù của văn học 1930 - 1945 để bước tới phạm trù của nền văn học mới. Nhờ thế, thiên truyện đã đóng lại mà một số phận mới vẫn tiếp tục được mở ra. Cái "lá cờ đỏ" kia như tín hiệu của một sự đổi đời. Nhân vật Tràng tiếp tục vận động về phía niềm tin, về phía cuộc sống. "Lá cờ đỏ" như gợi mở một sự thanh toán triệt để ở Tràng một số phận bế tắc kiểu anh Pha, chị Dậu, Chí Phèo... Chi tiết này không phải là một mơ ước viển vông, một ảo tưởng cổ tích mà có cơ sở chắn chắn từ trong hiện thực đời sống.

Quá trình tâm lý của cụ Tứ có phần còn phức tạp hơn nhân vật Tràng. Nếu ở đứa con trai, niềm vui làm chủ, tâm lý phát triển theo chiều thẳng đứng phù hợp với một chàng rể trẻ tuổi đang tràn trề hạnh phúc thì ở bà mẹ, tâm lí vận động theo kiểu gấp khúc, hợp với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của người già từng trải và nhân hậu.

Cũng như con trai, khởi đầu tâm lý ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng. Anh con trai ngỡ ngàng trước một cái dường như không hiểu được. Cái cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu như một hiện tượng lạ. Trạng thái ngỡ ngàng của cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn: "Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con trai mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục. Ai thế nhỉ? Rồi lại: "Ô hay, thế là thế nào nhỉ". Trái tim người mẹ có con trai lớn vốn rất nhạy cảm về điều này, vậy tại sao Kim Lân lại để cho nhân vật người mẹ ngơ ngác lâu đến thế? Một chút quá đà, một chút "kịch" trong ngòi bút Kim Lân? Không, nhà văn của đồng nội vốn không quen tạo dáng. Đây là nỗi đau của người viết: Chính sự cùng quẫn của hoàn cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm đó.

Nếu ở Tràng, sự ngỡ ngàng đi thẳng tới niềm vui thì ở bà cụ Tứ, sự vận động tâm lý phức tạp hơn. Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão "cúi đầu im lặng". Cái thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao: "Biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?". Trong chữ "chúng nó" , người mẹ đã đi từ lòng thương con trai sang con dâu. Trong chữ "cúi đầu", bà mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh, khác hẳn anh con trai tiếp nhận hạnh phúc bằng một nhu cầu, bằng một ước mơ tinh thần phơi phới.

Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lý triền miên day dứt. Tác giả xoáy vào dòng ý nghĩ của bà mẹ: nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ đời mình, nghĩ đến tương lai của con... để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng, yêu thương trong một câu nói giản dị "Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá". Trên đống buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh lên: Cảm động thay, Kim Lân lại để cái ánh sáng kì diệu đó tỏa ra từ ...nồi cháo cám. Hãy nghe người mẹ nói: "chè đây - bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Chữ "ngon" này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt. Đó không phải là xúc cảm về vật chất [xúc cảm về vị cháo cám] mà là xúc cảm về tinh thần: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chứng minh cho cái chất người: trong bất kì hoàn cảnh nào, tình nghĩa và hy vọng không thể bị tiêu diệt. Con người vẫn muốn sống cho ra sống, và cái chất người thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hy vọng. Nhưng Kim Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với nồi cháo cám "đắng cay và nghẹn bùi".

Thành công của nhà văn là đã thấu hiểu và phân tích được những trạng thái khá tinh tế của con người trong hoàn cảnh đặc biệt. Và vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ. Cái thế vượt hoàn cảnh ấy tạo nên nội dung nhân đạo độc đáo và cảm động của tác phẩm. Thông điệp của Kim Lân là một thông điệp mang ý nghĩa nhân văn. Trong tiểu thuyết nổi tiếng Thép đã tôi thế đấy, nhà văn Nga Nhicôlai Ôxtrôpxki đã để cho nhân vật Paven Coocsaghin ngẫm nghĩ: "Hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa". Vợ nhặt là bài ca về tình người ở những kẻ nghèo khổ, đã "biết sống" cho ra người ngay giữa thời túng đói quay quắt.

Thông điệp của Kim Lân đã được chuyển hóa thành một thiên truyện ngắn xuất sắc với cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là bút pháp miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề