Nguyên nhân gây ra stress trong xã hội

STRESS TÂM LÍ

Một số vấn đề chung.

Khái niệm stress:

Do không có từ tương thích trong tiếng Việt  nên thuật  ngữ  stress  được  sử  dụng theo từ gốc nước ngoài.

Lúc đầu thuật ngữ stress được sử dụng  trong Vật  lí học, để chỉ sức nén mà  một loại vật liệu phải chịu đựng. Đến  năm 1914, Walter  Cannon đã sử dụng thuật ngữ này trong Sinh lí học, để chỉ các stress cảm xúc.  Năm  1935,  Ông  đi  sâu nghiên cứu sự cân bằng nội môi ở  những  động vật  có  vú  khi  chúng lâm vào  các tình huống khó khăn, như khi  gặp  phải  sự  thay đổi về  nhiệt  độ. Ông cũng mô  tả  các nhân tố cảm xúc  trong quá  trình phát  sinh, phát  triển một số bệnh và xác  định vai trò của hệ thần kinh khi cơ thể đối phó với các tình huống khẩn cấp.

Trong Y học, từ lâu người ta đã đặt vấn đề là tại sao một số người mắc các  bệnh khác nhau lại có những triệu chứng giống nhau. Nhiều tác  giả đã mô  tả các triệu chứng loét dạ dày, ruột ở những người bị  bỏng ngoài   da  [Svon,  1823; Kerling, 1842] và ở những người bệnh sau một phẫu thuật lớn bị nhiễm trùng [Billrot]. Viện Pastuer Rom và viện Yersen đã mô tả tuyến thượng thận của chuột lang bị tăng trưởng và xuất huyết khi bị nhiễm bệnh bạch hầu...

Những nguyên nhân gây ra hiện tượng stress có  thể  rất  khác  nhau,  nhưng phản ứng của cơ thể đối  với  chúng  thì  đều giống nhau.  Tất  cả các  phản ứng này đều diễn ra theo ba giai đoạn:

Giai đoạn đầu: con người cảm thấy có khó khăn.

Giai đoạn hai: con người thích nghi với những khó khăn.

Giai đoạn ba: giai đoạn cuối cùng, con người không chịu đựng được nữa.

Ba giai đoạn này giống như một qui  luật  chung  điều hòa hành vi  của mọi sinh vật khi bị rơi vào những điều kiện đặc  biệt  căng  thẳng và giống như tiến trình của một phản ứng thích nghi không đặc  hiệu của cơ thể  đối với  những tác động mạnh mẽ, đột ngột khác nhau của môi trường.

Hans Selye [nhà nghiên cứu người Canada] là người đầu tiên nêu ra một  khái niệm stress hiện đại. Năm 1936, Ông đã chiết  từ dịch tiết  của buồng  trứng động  vật có sừng một loại hormon và đem tiêm nó  cho  chuột. Sau khi  tiêm một  thời gian, chuột có những biểu hiện như:

Vỏ tuyến thượng thận tăng trưởng  mạnh  và  chứa một  lượng  không lớn các hạt lipit bài tiết.

Tuyến ức, các hạch lympho và các cấu trúc chứa lympho bị teo nhỏ lại [involution].

Thành dạ dày, tá tràng, ruột của chuột bị loét và chảy máu.

Những thí nghiệm khác đã cho thấy  các  chất  chiết  từ  tuyến  thượng  thận, tuyến tụy và một số chất độc cũng  có  thể  gây  ra những  biến đổi  tương tự  như trên.

Lúc đầu, những biến đổi này được gọi là “triệu chứng được gây ra bởi các tác nhân khác nhau”. Về sau, được  đổi  thành  “  triệu  chứng  thích  ứng  chung”,  hay còn gọi là “triệu chứng stress sinh học”. Ba biến đổi trên đã trở thành ba chỉ  số  quan trọng của stress và là cơ sở để phát triển một khái niệm đầy đủ về stress.

Stress tâm lí:

Nhìn chung có thể chia stress thành 2 loại chính:

Stress sinh lí: là toàn bộ những  biến đổi  về  sinh lí, trạng thái sinh lí của cơ  thể nhằm đáp lại tác nhân  gây  stress, ví  dụ những  biến đổi về  nhịp tim, nhịp thở,  các thay đổi về nội tiết…

Stress tâm lí: trạng thái tâm lí xuất hiện nhằm đáp  ứng  với  tác  nhân  gây stress. Ví dụ: những thay đổi về trí nhớ, tập trung chú ý, các phản ứng cảm xúc…

Dưới góc độ Tâm lí học, stress tâm lí là một trạng thái đặc biệt của cảm xúc. Trong trường hợp stress kéo dài, cường độ thấp, nó có thể được xem như là một trong những biểu hiện của tâm trạng. Ngược lại, nếu stress diễn ra đột ngột, trong một khoảng thời gian ngắn thì nó lại là sự thể hiện của xúc động.

Các hiện tượng tâm lí vốn không tách rời nhau, trong đó trạng thái tâm lí luôn  làm nền cho các quá trình tâm lí. Do vậy, những  quá  trình tâm lí  diễn ra trên nền  của stress đều chịu sự chi phối của stress. Ở mức  độ  tối  ưu, stress đảm bảo  cho các quá trình tâm lí, đặc biệt là các quá trình nhận thức  đạt được hiệu quả cao.  Ngược lại, trong trạng thái mệt mỏi suy kiệt, hiệu quả của các quá trình tâm lí không những bị giảm sút mà toàn bộ nhân cách cũng bị  ảnh hưởng. Đó  chính là những trường hợp rối loạn stress hoặc distress.

Lẽ đương nhiên bất kì một  hiện tượng tâm  lí  nào  cũng  đều xuất  hiện trên cơ sở các quá trình sinh lí. Chính  vì  vậy  stress tâm lí  không thể  tách rời  với  stress sinh lí. Tuy thế, với tư cách là một  lĩnh  vực  khoa học  về  các  hiện tượng tâm lí, Tâm lí học quan tâm và nghiên cứu stress tâm lí nhiều hơn.

Trong thực tế, stress là thuật ngữ  đôi khi  dùng để  chỉ  một  nguyên nhân,  một tác nhân gây ra  phản  ứng  stress  [như  tiếng  ồn  của  thành phố, cái  nắng nóng của sa mạc, bệnh tật, sự thay đổi chỗ ở, việc làm...], hoặc  đôi khi  dùng để chỉ hậu quả của những tác nhân gây kích thích mạnh [như  sự hốt  hoảng  khi  gặp  thiên tai nặng nề; sự cô quạnh khi sống lâu  ngoài  đại  dương; sự căng thẳng khi  gặp những khó  khăn trong công việc...]. Những yếu tố đóng vai trò nguyên nhân  gây  ra  stress thường được gọi là các yếu tố gây stress hoặc  các  stressor. Do  vậy  không  nên nhầm lẫn giữa stress [trạng thái tâm - sinh  lí  bên  trong]  với  các  tác  nhân  gây stress [các yếu tố bên ngoài].

Trong điều kiện bình  thường,  stress  là một  đáp ứng thích nghi  về  mặt  tâm  lí và sinh lí. Stress đặt chủ thể vào quá  trình dàn xếp thích ứng, tạo  ra một cân bằng mới cho cơ thể sau khi chịu những  tác động của môi trường. Nói cách khác, phản  ứng stress bình thường đã góp phần làm cho cơ thể thích nghi.

Nếu đáp ứng của cá nhân với các yếu tố gây stress không đầy đủ, không thích  hợp và cơ thể  không  tạo  ra  được  một cân bằng mới thì những chức  năng của cơ thể ít nhiều sẽ bị rối loạn, những dấu hiệu bệnh lí  cơ thể, tâm  lí, hành  vi  sẽ  xuất hiện và sẽ tạo ra những stress bệnh lí cấp tính hoặc kéo dài.

Nhiều người cho rằng, stress là một chứng bệnh  gắn  liền  với  nền  văn  minh hiện đại, bị chi phối bởi sự cạnh tranh và những mối nguy hại.

Các giai đoạn của phản ứng stress.

Theo H. Selye, phản ứng stress được chia thành 3 giai  đoạn:  giai  đoạn  báo động, giai đoạn thích nghi và giai đoạn suy kiệt.

Giai đoạn báo động:

Giai đoạn này được biểu hiện bằng những biến đổi đặc  trưng của chủ thể  khi tiếp xúc với các yếu tố gây stress. Những biến đổi này là:

Các hoạt động tâm lí được kích thích, đặc biệt là tăng cường quá trình tập  trung chú ý, ghi nhớ và tư duy...

Các phản ứng chức  năng  sinh lí  của cơ thể  được  triển khai  như  tăng huyết áp, nhịp tim, nhịp thở và tăng trương lực cơ bắp...

Những thay đổi tâm lí - sinh lí - hành vi đã giúp con người đánh giá các tình huống stress và bước đầu đề ra chiến lược đáp ứng trước các tình huống đó. Giai đoạn báo động có thể diễn  ra  rất  nhanh  [vài phút]  hoặc  kéo  dài  vài  giờ,  vài ngày... Chủ thể có thể chết  trong giai  đoạn này,  nếu yếu tố  gây stress quá mạnh,  tình huống stress quá phức tạp. Nếu tồn tại được  thì  các  phản  ứng  ban  đầu  chuyển sang giai đoạn ổn định [hay còn gọi là giai đoạn thích nghi].

Giai đoạn thích nghi:

Trong giai đoạn này, mọi  cơ  chế  thích ứng được  động viên để  cơ thể  chống đỡ và điều hòa các rối  loạn ban  đầu. Sức  đề kháng của cơ  thể tăng lên, con người có thể làm chủ được tình huống stress, lập lại các trạng thái cân bằng nội môi [homeostase] và tạo ra sự cân bằng mới  với  môi  trường. Giai  đoạn này còn được gọi là giai đoạn chống đỡ.

Trong một tình huống stress bình thường, chủ thể đáp ứng  lại  bằng  hai  giai  đoạn báo động và chống đỡ.

Nếu giai đoạn chống đỡ tiến triển tốt thì các  chức  năng  tâm,  sinh lí cơ thể được phục hồi. Nếu khả năng  thích ứng  của cơ  thể  mất  dần,  thì  quá  trình phục  hồi không xảy ra và chuyển sang giai đoạn suy kiệt.

Giai đoạn suy kiệt:

Phản ứng stress trở thành bệnh lí  khi  tình huống stress hoặc  quá bất  ngờ,  dữ dội, hoặc ngược lại, quen thuộc  nhưng  lặp  đi  lặp  lại, vượt  quá khả năng dàn xếp của chủ thể.

Trong giai đoạn suy kiệt, các biến đổi tâm lí, sinh lí  và hành  vi  của giai đoạn  báo động xuất hiện trở lại, hoặc  là  cấp  tính  và  tạm  thời, hoặc  là nhẹ  hơn nhưng kéo dài. Có thể chia stress bệnh lí thành  hai  loại: stress bệnh lí cấp tính và stress bệnh lí kéo dài.

Stress bệnh lí cấp tính:

Những tình huống gây ra stress bệnh lí cấp tính thường là không lường trước được, mang tính chất dữ dội, như khi bị tấn công bất ngờ, khi gặp thảm họa...

Trạng thái này được chia thành hai loại  theo  diễn biến của các  phản  ứng cảm xúc cấp tính xảy ra tức thì hay chậm chạp.

Phản ứng cảm xúc cấp xảy ra nhanh:

Trong trạng thái này, chủ thể hưng phấn quá mức về mặt tâm thần và cơ thể:

Tăng trương lực cơ: nét mặt căng  thẳng,  các  cử chỉ  cứng ngắc,  kèm  theo cảm giác đau bên trong cơ thể.

Rối loạn thần kinh thực vật: nhịp tim nhanh, có cơn đau vùng trước tim, cao huyết áp, khó thở, ngất xỉu, chóng mặt  giả,  vã  mồ  hôi, nhức  đầu,  đau nhiều nơi, nhất là đau các cơ bắp.

Tăng quá mức phản ứng của các giác  quan,  nhất  là tai. Người  bệnh có  cảm giác khó chịu cả với những tiếng động bình thường.

Rối loạn trí tuệ: kém khả năng tập trung suy nghĩ do nhớ lại các tình huống stress; trí nhớ về các sự kiện vẫn còn sâu sắc.

Tính tình dễ nổi cáu, bất an, kích động nhẹ; có thể  có  rối  loạn hành vi  và người bệnh gặp khó khăn khi giao tiếp với những người xung quanh.

Trạng thái lo âu, kèm theo nỗi sợ hãi mơ hồ.

Loại phản ứng stress cấp tính này kéo dài  từ vài  phút đến vài  giờ, rồi mờ nhạt dần tùy theo tính chất và tiến triển của stress. Sự mờ  nhạt  càng rõ nét hơn khi  có mặt người khác, làm chủ thể yên tâm và khuây khỏa.

Phản ứng cảm xúc cấp xảy ra chậm:

Các rối loạn xuất hiện chậm. Chủ  thể  có  vẻ  như  chịu đựng được và chống đỡ lại tình huống gây stress. Người bệnh  tự  nhận  thức  được  rằng,  mình  đã  bị  các tình huống stress xâm chiếm.

Cơ thể tiếp tục giai đoạn chống đỡ, nhưng chỉ tạo ra một cân bằng không bền vững, kéo dài trong vài giờ hoặc vài  ngày.  Sau  đó  đột  nhiên xuất  hiện một  phản ứng stress cấp tính, diễn ra chậm. Biểu hiện và tiến triển của nó cũng  giống như  phản ứng cảm xúc cấp tính, diễn ra tức thì.

Điều này chứng tỏ chủ thể không  còn khả  năng  dàn  xếp với  tình huống  stress về mặt tâm lí, bị suy sụp và mất bù một cách chậm chạp.

Stress bệnh lí kéo dài:

Sự hình thành:

Stress bệnh lí kéo dài thường được hình thành từ các tình huống stress quen thuộc, lặp đi lặp lại như  trong trường hợp  người  bệnh  có  những  xung  đột  hoặc gặp những phiền nhiễu, không toại nguyện trong đời sống hàng ngày.

Đôi khi chúng được hình thành từ  các  tình  huống  stress  bất  ngờ  và  dữ  dội [sau một phản ứng cấp, không thoái lui hoặc sau  một  loạt  các  phản  ứng  cấp thoáng qua].

Biểu hiện của stress bệnh lí kéo dài:

Biểu hiện của nó rất đa dạng và thay đổi tùy theo  sự  ưu thế về mặt  tâm lí, cơ thể hay về mặt hành vi.

Các biểu hiện biến đổi tâm lí, tâm thần:

Chủ thể phản ứng quá mức với hoàn cảnh: dễ nổi cáu, có cảm giác khó chịu,  căng thẳng về tâm lí, mệt mỏi về trí tuệ và không thư giãn được.

Rối loạn giấc ngủ: khó ngủ,  hay  thức  giấc  và  không  có  cảm  giác  hồi phục sau khi ngủ.

Các rối loạn này tùy theo tính chất, hoàn cảnh và  sự lặp  lại  của tình huống  stress mà có thể tiến triển thành các triệu chứng sau đây:

Chủ thể chờ đợi stress một cách bi quan.

Có sự cảnh tỉnh một cách cao độ và luôn ở trong tình trạng nghe ngóng, căng thẳng nội tâm, dễ nổi cáu.

Có biểu hiện lo âu - ám ảnh sợ. Những lo  âu  -  ám  ảnh sợ này hình thành trên nền một sự lo âu dai dẳng và xuất hiện những  cơn  lo  lắng về  nơi  đã xảy ra tình huống stress [ở nơi làm việc hay ở gia đình]. Các  rối loạn có khi  mở rộng sang  nhiều lĩnh vực khác nhau như người bệnh sợ các  phương  tiện  giao  thông  công cộng, sợ xung đột với cấp trên, với người thân, ngại giao tiếp, sợ bệnh tật...

Các biểu hiện về cơ thể:

Chủ thể thường có những rối loạn về thần  kinh  thực  vật  ở  mức  độ  vừa.   Những rối loạn này tăng lên khi chủ thể hồi  tưởng  về  các  tình huống stress mà mình đã phải chịu đựng.

Qua những lời than phiền của người  bệnh,  chúng  ta thấy các  rối loạn về  tâm thần và chức năng cơ thể của họ như sau:

Người bệnh trong trạng thái suy nhược kéo dài.

Căng cơ bắp [chuột rút], run tay chân, đổ mồ hôi.

Nhức đầu, đau nửa đầu, đau cột sống kéo dài, dai dẳng.

Đánh trống ngực, đau vùng trước tim và huyết áp tăng không ổn định.

Có biểu hiện bệnh lí chức năng đại tràng và đau bàng  quang  [nước  tiểu  trong]...

Tất nhiên, không phải mọi stress bệnh lí  kéo  dài  đều  có  tất  cả  những  biểu hiện về cơ thể, về  tâm  lí  như  đã nêu ở  trên. Song ngoài  những  triệu chứng trên,  có khi chúng ta còn gặp những biểu  hiện  khác  về  cơ  thể  có  liên quan với  trạng thái lo âu.

Các biểu hiện về hành vi:

Tình huống stress có thể ức chế hoặc kích thích hành  vi  của  người  bệnh.  Những rối loạn chức năng thích nghi của hành  vi  được  biểu  hiện  trong  các  rối loạn hành vi.

Các rối loạn hành vi  xảy  ra do  chủ thể có thái  độ rút lui, tránh né  các quan hệ  xã hội; hoặc ngược lại, do những xung động mất kiềm chế, dẫn đến sự khó  khăn  trong giao tiếp của người bệnh. Có người thay đổi hẳn  tính cách, làm  cho  người khác không nhận ra hoặc có những băn khoăn, suy nghĩ về nhân cách của họ.

Các rối loạn hành vi lúc đầu chỉ  gây  ra sự  khó  chịu,  nhưng  về  sau nó  phát triển và gây ra những tổn thất, làm trở ngại cho công việc của người bệnh.

Có người lúc  đầu muốn dùng  rượu, dùng  thuốc  để  làm dịu những  căng thẳng, lo âu, nhưng sau đó, do  bản  thân  rượu và  thuốc  lại  là chất gây lo âu, nên bắt buộc họ phải tăng dần liều sử dụng. Hành vi  cứ như  vậy  lặp đi  lặp lại  và  tăng dần,  đưa chủ thể vào một vòng xoắn đáng sợ của sự nghiện rượu, nghiện thuốc. Những rối loạn hành vi nghiện này không thể  không  ảnh  hưởng  tai  hại  đến các  quan  hệ  xã hội của chủ thể.

Stress và bệnh cơ thể.

Khái niệm chung:

Từ xa xưa người ta đã cho rằng tâm lí có một vai  trò  nhất  định trong sự xuất  hiện và phát triển bệnh. Tuy nhiên  mãi  đến giữa  thế  kỉ  XX, những tư tưởng này  mới được phát triển mạnh mẽ.  Khởi  đầu cho  hướng mới  này  chính là S. Freud.  Ông cho rằng các rối loạn cơ thể chỉ  là  sự  thể  hiện biểu trưng [Symbol]  của  những xung đột nội tâm bị đè  nén,  ức  chế.  Mặc  dù  S.Freud [1910] đã cự tuyệt việc tuyệt đối hoá vai trò ưu thế của tâm lí đối với cơ thể song điều này đã không ngăn cản được nhiều tác giả khác lí giải bệnh cơ thể theo Phân tâm. Họ cho rằng cũng như rối loạn tâm căn, tất cả các  triệu chứng cơ thể  chỉ là phương thức dung  hoà để giải toả năng  lượng  Libido. Các  dạng co giật  của vận động cơ thể chỉ là sự né tránh căng thẳng của tính dục; các  bệnh  đường hô  hấp  là sự thể  hiện quay  trở lại thời kì nằm trong bụng mẹ, khi mà hệ hô hấp chưa hoạt động...

Trên cơ sở lí  thuyết  phân  tâm,  Alexander  [1950] cho  rằng các  yếu tố  tâm  lí và cụ thể là sự xung đột tâm lí đóng vai  trò quan trọng trong 7  bệnh thực  thể: loét  dạ dày – tá tràng; viêm  đại  tràng; ưu năng  giáp; viêm  ruột  non cục  bộ; cao  huyết áp vô căn; viêm khớp dạng thấp và hen phế quản. Luận điểm  về  cơ  chế  bệnh  tâm-thể của Alexander được nhiều người chú ý. Dunbar [1954] cho rằng:  những người cùng bị một loại  bệnh thường có  cùng một  kiểu [profile]  nhân  cách. Theo Bà, có 8 loại bệnh phụ thuộc nhiều vào yếu tố  nhân  cách hơn  so  với  các  bệnh  khác, ví dụ như viêm khớp dạng thấp, tiểu đường, huyết áp cao, loạn nhịp tim ...

Cho đến nay vẫn có nhiều nghiên cứu sử dụng tư  tưởng của Dunbar  về  kiểu  nhân cách làm cơ sở. Quan  niệm  hiện  hành  về  kiểu  nhân  cách  A và  B là một ví dụ.

Engel [1954] đã phát triển chi tiết khái niệm căn nguyên đa yếu tố. Đến năm 1977 ông thiết lập mô hình tâm – sinh – xã hội [biopsychosocial] của bệnh. Theo quan điểm này, việc tìm kiếm và giải  thích  nguyên  nhân  của  bệnh  không  nên thuần túy theo một yếu tố  nào  mà là sự kết hợp của các yếu tố  về  cơ thể, tâm lí và xã hội.

Stress và miễn dịch:

Hệ miễn dịch có chức năng bảo vệ cơ thể, chống lại sự tấn công của virus, vi khuẩn, vật kí sinh… hay các  kháng  nguyên  nói  chung.  Cơ  quan  sản  xuất  các  tế bào miễn dịch nằm rải rác khắp cơ  thể:  tuỷ  xương,  tuyến  ức,  hạch  lymphô,  lá lách, hạnh nhân và ruột thừa.  Do  nằm  ở  nhiều nơi  như  vậy  nên không  thể  đánh  giá được trực tiếp ảnh hưởng của thần kinh trung  ương  đến  hệ  miễn  dịch  mà người ta phải đánh giá một cách  gián  tiếp thông qua máu ngoại  vi.  Sự tuần hoàn  giúp cho máu vận chuyển các thành  tố miễn dịch từ các  cơ quan của hệ miễn dịch đến các khu vực bị viêm nhiễm. Các thành tố  của  hệ  miễn  dịch  tìm  kiếm  và chống lại, vô hiệu hoá các kháng nguyên ngoại  lai.  Chính  vì  vậy,  máu  ngoại  vi đóng vai trò quan trọng trong quá trình miễn dịch, chống viêm nhiễm.

Như đã biết, có 2 loại  xét  nghiệm  miễn dịch chính: xét nghiệm định lượng và xét nghiệm chức năng. Định lượng là nhằm xác định tỉ lệ các loại tế bào bạch cầu  khác nhau ở máu ngoại vi. Các tế bào bạch cầu được quan tâm nhiều hơn từ góc độ miễn dịch gồm: neutro, mono, lympho, trong đó có cả thực bào, lympho T và B

Xét nghiệm định lượng có ý nghĩa quan trọng. Để có  thể  có  được  đáp ứng miễn dịch với kháng nguyên, cơ thể cần có một số lượng tối thiểu các tế  bào  bạch cầu và có sự  cân  bằng  phù  hợp  giữa  các  loại  tế  bào  bạch cầu. Sự tăng hay giảm số lượng tế bào là những chỉ báo về sự thay  đổi  trong hệ  thống miễn dịch.  Miễn dịch còn có thể được chia làm 2  loại:  miễn dịch tế  bào  và  miễn dịch nội  tiết. Miễn dịch tế bào: các tế bào bạch cầu trực tiếp chống lại các kháng nguyên. Miễn dịch nội tiết: sản xuất ra các tế bào miễn dịch.

Trong cuộc sống của con người có rất  nhiều sự  kiện/biến cố vượt  quá  khả  năng giải quyết của cá nhân. Khi đó  xuất  hiện  stress,  cụ thể  đó  là  những  trạng thái tiêu cực về cảm xúc, nhận thức. Stress làm thay đổi hoạt  động của hệ  thống miễn dịch và hệ quả của nó là làm thay đổi khả  năng  nhiễm bệnh theo  hướng cá  nhân dễ bị nhiễm bệnh hơn.

Một loạt những nghiên cứu của Glaser và  CS.  vào  những năm  1980 cho  thấy ảnh hưởng của các kì thi đến chức năng  miễn dịch ở  các  sinh viên y khoa, cụ thể như giảm hoạt động của thực bào, giảm sản xuất tế bào lympho,  giảm  sản  xuất gamma interferon…

Stone và CS. nghiên cứu vai  trò  tích cực/tiêu cực  của  các  sự kiện đời sống đến miễn dịch nội tiết. Kết quả cho thấy những sự kiện dễ chịu kéo theo tăng tiết IgA [Immunoglobulin A] và ngược  lại,  những  sự  kiện  khó  chịu  làm  giảm  tiết IgA. Việc tăng tiết IgA liên quan đến sự kiện dễ chịu kéo dài đến 2  ngày  sau sự  kiện. Điều này cho thấy những sự  kiện vui  vẻ,  dễ  chịu cũng  ảnh  hưởng  tốt  đến sức khoẻ theo góc độ miễn dịch.

Ngoài ra cũng còn rất nhiều nghiên cứu khác về mối quan  hệ  giữa các  yếu tố  tâm lí đến miễn dịch, ví dụ như ở những cư dân sống gần nơi vụ nổ nhà máy điện nguyên tử; những người chăm sóc bệnh nhân Alzheimer [Kiecolt-Glaser và  CS., 1987; Irwin và CS., 1991; Esterling và CS., 1994].

Các nghiên cứu trong phòng thí  nghiệm  cho  thấy  những  người  có  hệ  thần kinh giao cảm hoạt động mạnh [dễ tăng nhịp tim, huyết  áp,  các hormon giao  cảm như epinephrine và norepinephrine] dễ có những thay  đổi  mạnh  trong  đáp  ứng miễn dịch khi phải đối mặt với các  tác  nhân gây stress và ngược  lại. Tuy nhiên sự liên quan giữa hoạt động của hệ thần kinh giao cảm và  miễn  dịch  vẫn  chỉ là sự tương quan mà chưa thể khẳng định được  cái  nào  là nguyên  nhân,  cái nào  là hệ quả.

Cũng có nhiều nghiên cứu đi theo hướng mối  quan  hệ  giữa các  yếu tố  xã hội với miễn dịch. Những người cô đơn, sống  li  thân  hoặc  li  dị, đáp ứng miễn dịch kém hơn, hoạt tính của thực bào bị  giảm  sút  [  Kiecolt-Glaser  và  CS.,  1984, 1985].

Một trong những ví dụ điển hình về cơ chế stress có thể làm cho cơ thể dễ bị bệnh, như đã đề cập ở trên, chính là mối quan hệ giữa stress và  chức  năng miễn  dịch. Cả stress cấp và  mạn  tính đều ảnh  hưởng  đến hoạt  động của hệ  miễn dịch. Sự ức chế hệ thống miễn dịch do stress làm suy giảm khả năng chống chọi  của cơ thể đối với những tác nhân gây bệnh hoặc phục  hồi  sau  chấn  thương.  Các  nhà nghiên cứu cũng đã xác định được sự suy giảm  khả năng gia tăng bạch cầu khi  có  tác nhân gây bệnh [Fisher và CS, 1987; Bachen và CS,  1992;  Zakowski  và  CS, 1994; Delahanty và CS, 1996]. Suy giảm khả năng  sản  xuất  bạch  cầu  được  ghi nhận trong cả trường hợp có stress cấp tính hoặc mạn tính.

Các nhà nghiên cứu cũng đi sâu  nghiên  cứu  ảnh  hưởng  của  stress  đối  với thực bào- những bạch cầu hạt khổng lồ  có  chức  năng  tiêu diệt  rất  nhanh tế  bào virut hoặc ung thư. Bằng các xét nghiệm cận lâm sàng [invitro]  người  ta cũng đã phát hiện thấy ở những  người  có stress kéo dài, các thực  bào  tự nhiễm giảm cả về  số lượng và khả năng tiêu hủy tế bào  ung  thư  [Schedlowski  và  CS,  1993; Delahanty và CS 1996].

Sự thay đổi trong hệ miễn dịch  cũng  liên quan đến hoạt  động  của  hệ  thần  kinh giao cảm [ví dụ  như tăng  nhịp  tim, tăng  huyết áp, tăng  tiết  các catecholamine]. Sự thay đổi các chỉ số của hệ miễn dịch, ví dụ như số lượng bạch  cầu và khả năng của chúng tiêu diệt các tế bào khác  liên quan  đến kích thích tim mạch [đặc biệt là những  thay đổi  về  huyết  áp  và  nhịp tim]. Ngược  lại, những  yếu tố tâm lý như  khả  năng kiểm soát  bản thân,  tính bất  ngờ  của tác  nhân gây stress,  sự hỗ trợ của xã hội và khả năng phản  ứng/đáp  ứng  của  cá  nhân  cũng  có  ảnh hưởng đến hệ miễn dịch. Nhìn chung các tác nhân gây stress bất  ngờ  hoặc không kiểm soát được hoặc những hoàn cảnh ít có  sự trợ giúp xã hội  gây  ức  chế  miễn dịch nhiều hơn [Kennedy và CS, 1988; Barow và CS, 1990; Sieber và CS, 1992; Wiedenfeld và CS, 1990; Zakowski, 1995].

Bệnh truyền nhiễm được xem như là bệnh có tác nhân gây bệnh rõ rệt, ví dụ:  virut, vi khuẩn… Bệnh có khả năng truyền từ người này sang người khác. Cơ chế phòng vệ ban đầu chính là hệ thống miễn  dịch.  Hệ  thống  này  được  huy  động nhằm phá hủy, vô hiệu hoá các tác nhân gây bệnh. Do stress làm cho hệ thống miễn dịch có những lúc hoạt động bị yếu đi do đó khả năng chống đỡ của nó  [hệ miễn dịch] đối với các tác nhân gây bệnh truyền nhiễm  cũng  bị  giảm  đi.  Các nghiên cứu thực nghiệm  và  tự  nhiên  đều cho  thấy stress liên quan  đến khả năng  dễ bị mắc bệnh truyền nhiễm [Cohen & Williamson, 1991;  McEwen  &Stellar, 1993; Kiecolt và CS, 1995; Biodi và CS, 1997]. Trong  điều kiện tự nhiên, stress tăng càng làm cho dễ phát bệnh [Stone và CS, 1987; Kasl  và  cs,  1979;  Rahe, 1972]. Stress cũng làm cho các bệnh truyền nhiễm tiễm ẩn dễ phát bệnh  hơn [Kiecolt và CS, 1987, 1988].

Các nghiên cứu tương quan cũng cho thấy những người có nhiều stress  trong cuộc sống là những người dễ bị cảm lạnh [Stone  và CS,  1992;  Cohen  và  CS, 1998].

Stress và ung thư:

Mối quan hệ giữa stress với  miễn dịch và ung  thư phức  tạp hơn nhiều so  với mối quan hệ giữa stress và  nhiễm  khuẩn.  Nếu  bệnh  nhiễm  khuẩn  thường  khởi phát một cách cấp tính thì ngược lại  ung  thư  mang  tính chất  kéo  dài.  Người  ta  vẫn chưa xác định được rõ vai trò của hệ  miễn dịch trong việc  kiểm  soát  sự đột biến trong quá trình khối u  chuyển  từ  lành  tính sang  ác  tính và  sau đó  sang  di căn. Cũng có tác giả cho rằng có  sự liên quan  giữa  trầm  cảm  và  ung  thư  song cũng có tác giả phủ định điều đó [Hahl và CS, 1988, Kaplan và Reynolds, 1988; Costa và Metrae, 1989]. Nhìn chung mới chỉ có những cứ liệu cho thấy tress liên quan đến tiến triển của ung thư và có khả  năng  liên quan  đến cả cuộc  sống cũng như yếu tố nhạy cảm chung, nguy cơ và chất lượng cuộc sống.

Stress và bệnh tim:

Có nhiều tác giả đề cập đến sự ảnh hưởng của stress đối với bệnh động mạch vành. Sự ảnh hưởng này chủ yếu diễn ra thông qua hệ thần  kinh  giao  cảm.  Stress làm tăng tiết epinephrine và norepinephrine dẫn đến tăng hoạt hoá của các thụ thể beta và alpha [Kamarck và Jennings, 1991; Markovitz  và  Mathews,  1991].  Tăng hoạt hoá beta dẫn đến tăng nhịp tim, do đó tim phải co bóp nhiều hơn và huyết áp cũng tăng cao. Tăng hoạt hoá alpha làm co thành mạch [cả  động  mạch  và  tĩnh mạch] dẫn đến làm tăng cản trở ngoại vi nói  chung và  lưu thông máu  quay trở lại tĩnh mạch nói chung. Những điều này đều dẫn đến một đích:  tăng  huyết   áp [Guyton, 1991].

Stress cũng góp phần vào xơ  vữa  mạch  máu  và  những  quá  trình  khác  thông qua cơ chế ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thần kinh giao cảm.

Ngoài những liên quan đến động mạch vành, stress tâm  lý  cũng  có  thể  góp phần làm giảm việc cung cấp oxy cho tim, do  đó  góp phần  hạ thấp ngưỡng thiếu  máu cơ tim  hoặc  thúc  đẩy loạn nhịp  cấp thông qua  hoạt  hoá hệ  thần  kinh  thực  vật, làm tăng các cơn nhồi máu cơ tim. Các kết  quả  nghiên  cứu cũng cho  thấy những biến cố stress cấp tính, ví dụ như phát  biểu ở  chỗ  đông người,  các  tình huống gây tức giận có thể làm thay đổi điện tim và  dẫn  đến loạn nhịp hoặc  nhồi  máu cơ tim. Rối loạn loạn nhịp còn có thể liên quan đến trạng thái tâm lý chủ đạo của cá nhân. Ví dụ: các rối loạn trầm cảm  lo  âu,  nhân  cách typ A,  rối loạn stress sau nhồi máu [Camerou, 1996; Frasure-Smith và CS, 1995; Moser và Dracup, 1996; Rosenman, 1996; Tennant, 1987].

Stress và tiểu đường:

Như trên đã đề cập, tất cả các hệ thống nội tiết, thần  kinh đều đáp ứng với  stress. Đối với người bị các rối  loạn nội  tiết, việc  kiểm soát hormon  là rất cần  thiết. Một khi stress làm rối  loạn sự kiểm soát  đó  thì  các  triệu chứng bệnh càng trở lên tồi tệ hơn do mất  cân bằng  hormon.  Bên cạnh  việc  ảnh  hưởng  trực tiếp  đến nồng độ hormon, stress cũng còn ảnh hưởng đến nhiều những yếu tố nguy cơ liên quan đến khởi phát bệnh, hoặc  làm  bệnh  trầm  trọng  thêm,  ví  dụ  như  ăn kiêng, dùng ma tuý, thực hiện chế độ điều trị.

Một trong những rối loạn nội tiết thần kinh phổ  biến là tiểu đường. Có  2 loại tiểu đường: typ I [phụ thuộc insulin] và  typ II [không phụ thuộc insulin]. Cả 2 typ  này đều do lượng đường trong máu tăng cao, đều có các triệu chứng như mắt  mờ, mệt mỏi không rõ nguyên nhân hay khát nước và đi tiểu nhiều.

Nguồn năng lượng ban đầu cho các tế bào cơ thể chính là glucoza. Tuy nhiên glucoza được dùng tại các  tế  bào  phải  thông  qua tác  động của một  loại  hormon đó là insulin.

Ở typ I, hệ thống miễn dịch tấn công vào các  tế bào  sản xuất  insulin nằm ở  tuyến tụy, làm giảm mức độ bài tiết insulin và giảm năng lượng glucoza được sử  dụng ở các tế bào. Tiểu đường typ I thường khởi phát trước  tuổi  40, trong đó khoảng 50% khởi phát trước tuổi 20 [Tracey Avà CS, 2001].

Ngược lại, tiểu đường typ II khởi  phát muộn.  Tiểu  đường  typ  II  phát  triển một cách từ từ do các tế bào cơ thể kháng lại tác dụng của insulin dẫn  đến giảm lượng glucoza thâm nhập vào tế bào.

Stress không trực tiếp gây tiểu đường, tuy nhiên nó  có  thể  làm cho  cá nhân dễ bị bệnh hơn. Ví dụ, trong trạng thái stress, các  tế  bào  cơ  thể  cần  nhiều  năng lượng hơn. Với tiểu đường typ I, đòi hỏi như vậy có thể  vượt  quá  khả năng của  tuyến tuỵ, do vậy  bệnh có  thể  khởi  phát sớm hơn tương tự, đối với  tiểu đường typ II, các hormon stress có thể chi phối đến việc sử dụng insulin. Do đó có thể nhận thấy stress đóng vai trò là một yếu tố nguy  cơ đối  với  khởi phát tiểu đường cũng như có thể ảnh hưởng đến điều trị thông  qua  sự  ảnh  hưởng  đến  kiểm  soát glucoza.

Các hành vi liên quan  đến stress, ví  dụ như  ăn uống,  sử dụng  rượu, hút  thuốc  lá, ít hoạt động trí  tuệ, quên uống thuốc…  cũng ảnh  hưởng  đến việc tự chăm sóc  và đây cũng là những nguy cơ gây tăng lượng glucoza trong máu.

Stress có thể ảnh  hưởng  trực  tiếp đến việc  quản trị các triệu chứng bệnh. Như đã đề cập, stress có  thể  làm tăng lượng glucoza trong máu.  Với  tiểu đường typ I, cơ thể không sản xuất đủ lượng insulin cần thiết để xử lý lượng glucoza cao trong máu, còn trong typ II, do các tế bào  có  thể  từ  chối  insulin nên lượng glucoza  trong máu vẫn ở mức độ cao. Lượng glucoza cao trong  máu  dẫn  đến  nguy  cơ nhiễm axit xetonic và hôn mê [Guyton, 1991].

Như vậy có thể thấy stress đóng vai  trò  rất  quan trọng đối với  sức  khoẻ  của con người. Nó ảnh hưởng đến khởi bệnh cũng như diễn biến và kết thúc  [tốt hoặc xấu]. Stress chính là khâu quan trọng giữa cơ  thể/cá  nhân  với  môi  trường; kích thích con người chống lại hoặc né tránh các tác nhân gây stress.

Stress ảnh hưởng đến mọi hệ thống của cơ thể và thông qua các hệ thống này, stress ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người.

Chủ Đề