Nguyên nhân gây suy giảm đa dạng sinh học và hậu quả

Hệ động thực vật tạo nên sự đa dạng sinh học của thế giới. Con người đang gây ra một mất đa dạng sinh học trên toàn thế giới đang gây ra những vấn đề thực sự cho hành tinh. Chúng tôi nghĩ rằng điều duy nhất quan trọng là các thành phố và các tòa nhà khi chúng ta đang đánh mất tất cả môi trường tự nhiên của mình.

Ở đây chúng ta sẽ giải thích sự mất đa dạng sinh học là gì và những nguyên nhân và hậu quả chính mà nó gây ra trên hành tinh của chúng ta.

Đa dạng sinh học là gì

Khi chúng ta nói về đa dạng sinh học, chúng tôi sẽ đề cập đến tất cả các loại sinh vật tồn tại trên hành tinh. Có nghĩa là, trong một hệ sinh thái, chẳng hạn, có rất nhiều loài sinh vật sống trong đó. Tổng số loài này là cái mà chúng ta gọi là đa dạng sinh học. Bất kể số lượng cá thể, một hệ sinh thái có thể cao hơn hoặc thấp hơn về đa dạng sinh học tùy thuộc vào số lượng loài. Nếu chúng ta không đề cập đến số lượng cá thể sống trong hệ sinh thái đó của mỗi loài, chúng ta sẽ nói rằng đó là sự phong phú của nó.

Đối với các sinh vật sống, chúng có thể sống trong bất kỳ kiểu hệ sinh thái nào giữa thảo nguyên, rừng rậm, rừng rậm, các hệ sinh thái nước ngọt và nước mặn khác nhau. Tầm quan trọng của đa dạng sinh học nằm ở giá trị nội tại của nó. Và chính điều đó, mặc dù nhiều người không biết, Đa dạng sinh học cung cấp một số lượng lớn các dịch vụ và hàng hóa cho con người, những yếu tố cần thiết cho sự tồn tại. Trong số những hàng hóa và dịch vụ này, chúng tôi tìm thấy thực phẩm, nước, nguyên liệu thô và những thứ khác tài nguyên thiên nhiên.

Nhiều cộng đồng sống trong môi trường nông thôn hoàn toàn phụ thuộc vào các dịch vụ mà đa dạng sinh học mang lại.

Nguyên nhân làm mất đa dạng sinh học

Vấn đề mất đa dạng sinh học trong môi trường tự nhiên rất nghiêm trọng. Nó đang được sản xuất ngày càng nhiều bởi những bước phát triển nhảy vọt. Người ta ước tính rằng khoảng 36% các loài có nguy cơ tuyệt chủng. Cần phải tính đến rằng sự suy giảm đa dạng sinh học đang diễn ra với tốc độ nhanh hơn trong môi trường nước.

Những lý do chính khiến chúng sinh khuất phục trước bàn tay của con người là:

  • Khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên. Con người đang làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và để lại những dấu vết ô nhiễm khổng lồ. Ô nhiễm đủ loại gây ra sự tái tạo tồi tệ hơn của các hệ sinh thái và thiệt hại nhiều hơn cho các loài khác phụ thuộc vào nó.
  • Mất và suy thoái môi trường sống tự nhiên. Để các loài sinh vật có thể sống chúng cần một môi trường sống tự nhiên. Với việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên mà chúng ta đã đề cập trước đây, sinh cảnh bị chia cắt, suy thoái và không có đủ điều kiện cần thiết để sinh vật phát triển.
  • Sự ô nhiễm. Do các nguyên nhân trên làm cho nước, đất, không khí bị ô nhiễm. Sự ô nhiễm này làm giảm chất lượng cuộc sống và hệ sinh thái gây thiệt hại.
  • Giới thiệu các loài xâm lấn. Các loài xâm hại có đặc điểm đặc biệt là có thể tồn tại trong môi trường tự nhiên không thuộc về chúng. Điều này là do thực tế là các động vật ăn thịt tự nhiên là nhỏ hoặc không tồn tại hoặc điều kiện khí hậu và môi trường hoàn toàn thuận lợi cho sự phát triển của chúng.
  • Biến đổi khí hậu và những tác động tiêu cực của nó. Tổng hợp của tất cả các nguyên nhân trên đang gây ra và gia tăng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Những thay đổi của khí hậu đến lượt các nguyên nhân trên lại xảy ra với cường độ và tần suất lớn hơn.

Hậu quả của mất đa dạng sinh học

Với tất cả những nguyên nhân mà chúng ta đã phân tích trước đây, bây giờ chúng ta phải xem những hậu quả mà đa dạng sinh học phải gánh chịu. Một điều mà mọi người khó nghĩ đến là tầm quan trọng của đa dạng sinh học và hậu quả của sự biến mất của nó. Hậu quả nói chung là khá nghiêm trọng và hơn hết là tác động đến hệ sinh thái.

Sự tuyệt chủng của các loài là nguyên nhân gây ra những tác động đến hệ sinh thái. Điều này chủ yếu là do sự phá vỡ cân bằng sinh thái. Các loài khác nhau tạo thành các mắt xích nhất định trong chuỗi thức ăn hoạt động cân bằng. Nếu sự cân bằng đó bị phá vỡ vì thiếu các loài, các loài còn lại cũng sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. Nó như thể nó là một câu đố. Nếu thiếu các mảnh ghép thì không thể hoàn thành phần còn lại của câu đố.

Nhiều người biết vấn đề hiện tại mà chúng tôi đang gặp phải ong. Ong có tầm quan trọng thiết yếu đối với các loài thực vật, vì chúng là loài thụ phấn. Mặc dù chúng không phải là loài côn trùng thụ phấn duy nhất tồn tại, chúng rất quan trọng trong tất cả các hệ sinh thái.

Mặt khác, cũng có sự mất cân bằng trong các chuỗi dinh dưỡng gây ra sự xuất hiện của các loài gây hại khác nhau. Điều này xảy ra khi động vật ăn thịt của một loài nào đó giảm hoặc biến mất và loài săn mồi có thể phát triển mà không có bất kỳ sự kiểm soát nào. Những loài gây hại này có thể gây ra sự phá hủy các diện tích cây trồng lớn và hậu quả của những loài gây hại này có thể rất nghiêm trọng.

Sự tuyệt chủng của một loài không có giải pháp khả thi. Vì lý do này, sự tồn vong của con người đang bị đe dọa bởi sự biến mất của những sinh vật này. Điều này gây nguy hiểm cho sức khỏe, hạnh phúc của chúng ta, vì nhiều dược chất có nguồn gốc tự nhiên, cả động vật và thực vật. Với sự mất đa dạng sinh học, các loài thực vật không rõ nguồn gốc bị loại bỏ, ngăn ngừa các phương pháp chữa trị các bệnh khác nhau mà ngày nay chúng ta không thể chữa khỏi.

Đất cũng như nước và không khí cũng phụ thuộc vào sự đa dạng sinh học của hành tinh. Thảm thực vật đóng một vai trò cơ bản trong các yếu tố này của khí hậu. Nhờ đó, CO2 có thể được hấp thụ và một phần nhiệt lượng do khí nhà kính giữ lại có thể được loại bỏ.

Như bạn có thể thấy, sự mất đa dạng sinh học đang ngày càng gia tăng và thiệt hại của nó ngày càng có nhiều ảnh hưởng. Không biết đến bao giờ con người mới nghĩ ra được điều gì đó để thực sự sửa chữa cho khỏi lan man. Hành tinh sẽ không đợi chúng ta nghĩ ra giải pháp, giải pháp phải được đưa ra NGAY BÂY GIỜ.

Câu hỏi: Nêu nguyên nhân chính làm suy giảm đa dạng sinh vật hiện nay?

A. cháy rừng

B. ô nhiễm môi trường

C. biến đổi khí hậu

D. con người khai thác quá mức

Trả lời:

Đáp án đúng: D.con người khai thác quá mức

Nguyên nhân chính làm suy giảm đa dạng sinh vật hiện nay là con người khai thác quá mức đã làm cho nhiều loài có nguy cơ tuyệt chủng.

Cùng Top lời giải tìm hiểu về vấn đề này nhé!

1. Khái quát

Đa dạng sinh họctrong tiếng Anh gọi là:Biodiversity.

Đa dạng sinh họclà một từ khái quát để chỉ về các giống loài khác nhau trong tự nhiên. Các giống loài này bao gồm thực vật, động vật, vi sinh vật, các hệ sinh thái và các quá trình sinh thái mà các loài trên là một bộ phận trong đó.

Hiện nay, trên thế giới có khoảng 30 triệu giống loài sinh vật. Giữa các giống loài có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau.

Ví dụ: thực vật biến đổi năng lượng mặt trời thành thức ăn cho động vật nhưng ngược lại thực vật cũng nhờ động vật như hoa nhờ ong chuyển phấn hoa…; loài này là thức ăn của loài kia…

Thực vật, động vật và vi sinh vật có gien di truyền và những thông tin chứa trong các gien này là những thông tin hữu ích đối với sự phát triển thuốc trừ vật hại thiên nhiên, các loại động, thực vật có sức đề kháng cao.

Số lượng các loài khác nhau đo lường sự đa dạng giống loài. Trạng thái muôn vẻ của môi trường cư trú, cộng đồng sinh vật và tiến trình sinh thái được gọi là sự đa dạng sinh thái.

Hoạt động của con người đã làm cho tốc độ tuyệt chủng các giống loài tăng nhanh. Con người săn bắt, khai thác bừa bãi các loài thú, rừng, hay sự xuất hiện quá mức của các giống loài làm ảnh hưởng đến các loài khác [ốc bươu vàng ở Việt Nam, Philippines; hoa trinh nữ, bèo Nhật Bản, thỏ ở Úc…

Chương trình môi trường Liên Hiệp Quốc [UNEP] ước tính có khoảng 22 triệu loài động vật. Trong đó có 1,5 triệu loài đã được mô tả; 7 triệu có nguy cơ tuyệt chủng trong khoảng 30 năm tới; 3/4 loài chim trên thế giới đang suy tàn; 1/4 loài có vú có nguy cơ bị tiêu diệt.

Trong nông nghiệp, mỗi năm mất đi một số giống cây trồng, trong đó có những giống được mô tả trong các bộ sưu tập các tư liệu di truyền. Vì vậy, giữ gìn môi trường sống và bảo tồn giống loài đã trở thành vấn đề môi trường cấp bách nhất hiện nay.

2. Đa dạng sinh học ở Việt Nam

Việt Nam được ghi nhận là quốc gia có tính đa dạng sinh học [ĐDSH] cao với khoảng 7.500 loài chủng vi sinh vật; 20.000 loài thực vật bậc cao trên cạn và dưới nước; 10.500 loài động vật trên cạn; 1.000 loài cá nước ngọt; dưới biển có trên 7.000 loài động vật không xương sống, khoảng 2.500 loài cá và xấp xỉ 50 loài rắn biển, rùa biển và thú biển.

Có thể kể đến một số hệ sinh thái tiêu biểu sau đây:

+ Hệ sinh thái rừng: Hệ sinh thái rừng ở Việt Nam khá phong phú với các kiểu rừng kín vùng cao, rừng kín vùng thấp, rừng thưa với hệ thực vật vô cùng phong phú.

+ Hệ sinh thái rừng ngập mặn: Đây là loại hình hệ sinh thái đặc thù ở vùng triều cửa sông, ven biển nước ta. Chúng góp phần quan trọng vào việc bảo vệ đất đai, điều hoà khí hậu đồng thời là môi trường sinh sống của nhiều động thực vật vùng triều có tính đa dạng lớn và còn là nơi nuôi dưỡng ấu trùng của nhiều thuỷ sản có giá trị.

+ Hệ sinh thái rạn san hô: Khu vực và thành phần các loài san hô biển nước ta rất phong phú. Rạn san hô cũng như rừng trên mặt đất, không chỉ cho nguồn lọi sinh vật thuỷ sản lớn mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì trạng thái cân bằng của cà vùng nước.

+ Hệ sinh thái đầm phá, vũng, vịnh: Loại hình hệ sinh thái này chủ yêu tập trung ven biển miền Trung nước ta. Chúng là nơi sinh sống của nhiều sinh vật cửa sông, các loài rong tảo nước lợ, nơi phân bố của nhiều nhuyễn thể hai mảnh quý như trai ngọc, sò, vẹm và một số vùng là nơi cư trú của các loài chim nước có giá trị thuộc đối tượng bảo tồn của Công ước Ramsar.

Thành phần các quần xã ttong các hệ sinh thái nêu ttên cũng rất đa dạng, cấu trúc quần xã trong các hệ sinh thái phức tạp, nhiều tầng bậc, nhiều nhánh. Đặc điểm này làm cho đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam có nhiều điểm khác biệt so với các nước trên thế giới.

Các hệ sinh thái ở Việt Nam phần lớn là những hệ sinh thái có tính mềm dẻo về sinh thái, có khả năng thích ứng và phục hồi nhanh trước những biến động môi trường. Do đó, chúng có tính ổn định không cao, thế cân bằng sinh thái dễ bị phá vỡ khi có tác động từ bên ngoài hay nội tại.

3. Suy giảm đa dạng sinh vật:

-Biểu hiện:

+7.291 trong tổng số 47.677 loài trên thế giới đang bị đe dọa tuyệt chủng, bao gồm 21% động vật có vú, 30% động vật lưỡng cư, 35% động vật không xương sống và 70% loài thực vật [số liệu được đưa ra trong các nghiên cứu gần đây của Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới [IUCN]].

+Thế giới đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng tồi tệ nhấtcủa tình trạngtuyệt chủng và suy giảm loài.Ở Tây Ban Nha và BồĐào Nha, loài Linh miêu Iberia [Lynx pardinus] đặc hữu hiện giảm xuống còn 84-143 cá thể -đang ở mức “cực kỳ nguy cấp”. Còn loài mèo bắt cá[Prionailurus viverrinus] ở Nam Á từng được Sách đỏ của IUCN xếp ở mức “dễ bị tổn thương”nay đãnằm trong danh sách loài “nguy cấp” do các mối đe dọa tới môi trường sốngnhư ô nhiễm, sản xuất nông nghiệp, săn bắn quá mức và khai thác gỗ.Tồi tệ hơn, các chuyên gia của Liên Hợp Quốc đã cảnh báo, loài người sẽ không có cơ hội nhìn thấy cá trong các đại dương vào năm 2050.Theo điều tra, năm 1995 toàn quốc có tới 39.671 khẩu súng các loại hiện đang sử dụng để săn bắn chim thú, bình quân mỗi thôn bản có 12 khẩu [Đỗ Tước, 1997].

+ Với số lượng người đi săn với những thứ vũ khí kể trên chưa kể đến các loại bẫy thường dùng như: bẫy treo, bẫy kẹp, bẫy thòng lọng, bẫy sập, bẫy lồng, lưới...nên số lượng cá thể động vật rừng bị săn bắt khá cao. Chỉ kể 18 loài động vật thuộc diện quí hiếm đã ghi trong sách đỏ Việt Nam, từ năm 1991-1995, đã có tới 8.964 cá thể bị săn bắt, bình quân hàng năm có tới 1.743 cá thể động vật quí hiếm bị săn bắt [Đỗ Tước, 1997].

- Nguyên nhân:

Nguyên nhân chính của hiện tượng suy giảm động vật là do sựtăng trưởng dân sốvà nhu cầu ngày càng tăng của con người. Sự gia tăng dân số,ô nhiễm môi trườngvàbiến đổi khí hậu toàn cầucũng là những nguyên nhân gián tiếp khiến cho động vật hoang dã bị suy giảm. sự suy giảm số lượng cá thể ở các loài động vật hoang dã có tác động không nhỏ của việc xâm lấn môi trường sống, tận thu đất nông nghiệp, nạn đánh bắt cá, hoạt động khai thác mỏ và nhiều tác động khác của con người.

Mặt khác, quần thể động vật cũng chịu ảnh hưởng bởibiến đổi khí hậu, ô nhiễm và khai thác tài nguyên quá mức. Do hoạt động khai thác quá mức của con người và do biến đổi khí hậu. Hoạt động của con người đã phá hoại nghiêm trọng các đại dương. Con ngườiđánh bắt cámà không kịp cho chúng sinh sản cũng như phá hủy nơi sinh sản của chúng. Nhiều động vật đã bị suy giảm, mất mát về số lượng do nơi sinh sống bị phá hủy mà nguyên nhân chủ yếu do các hoạt dộng của con người như:phá rừng, xây dựng các công trìnhthủy điện, đốt rừng lấy đất canh tác

Động vật bị khai thác quá mức, như săn bắn thú phục vụ cho con người. Không chỉ tàn phá về môi trường sống mà nạn săn bắt trộm cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự suy giảm nghiêm trọng về số lượng động vật hoang dã. Sự thay đổi trong thành phần hệ sinh thái như khi có một loài bị suy giảm hoặc tuyệt chủng sẽ dẫn đến sự suy giảm của những loài dùng loài đó làm thức ăn. Sự xâm hại của cácloài ngoại laicó thể phá vỡcân bằng sinh tháivà làm suy giảm quần thểđộng vật bản địa.

Nếu những hành vi xâm phạm nghiêm trọng vào giới tự nhiên không được kiềm hãm hoặc chấm dứt thì không chỉ mất đi những loài sinh vật hoang dã mà chính con người cũng sẽ đối mặt tới nguy cơ diệt vong vì đa dạng sinh học trên thế giới không còn trong vòng "giới hạn an toàn" nên có khả năng đe dọa đến sự tồn tại của con người. Các loài động thực vật đang giảm nhanh đến nỗi mất đa dạng sinh học trên thế giới không còn trong vòng "giới hạn an toàn". Giới hạn an toàn được cho là sự giảm 10% độ phong phú các loài so với số lượng ban đầu trước khi con người chiếm cứ mặt đất. Tuy nhiên một số tin rằng tỉ lệ giảm 70% vẫn nằm ở vùng an toàn, dù như vậy, sự phong phú của loài giảm xuống đến 88% một khi có loài mới trong hệ.

Sự ô nhiễm sinh học cũng là một trong các nguyên nhân gây suy thoái đa dạng sinh học. Lí do là bởi sự nhập các loài ngoại lai không kiểm soát được, có thể gây ảnh hưởng trực tiếp qua sự cạnh tranh, sự ăn mồi hoặc gián tiếp qua ký sinh trùng, xói mòn nguồn gen bản địa và thay đổinơi sinh cư với các loài bản địa.

4. Hậu quả của sự suy thoái đa dạng sinh học

Sự suy thoái đa dạng sinh học dẫn đến các hậu quả chủ yếu xấu thể hiện trong các mối tương tác sau đây:

+ Sự suy thoái của hệ sinh thái sẽ đật các giống, loài trước nguy cơ bị tuyệt chủng: Theo tính toán gần đây, căn cứ tốc độ hiện nay, 5 - 10% số loài trên thế giới bị tiêu diệt vào những năm 1990 - 2020, có nghĩa là mỗi ngày có thể mất đi khoảng 40 - 140 loài và số loài bị tiêu diệt sẽ lên tới 25% vào khoảng năm 2050.

+ Sự thay đổi hay mất đi của các giống, loài sẽ tác động xấu đến môi trường sống, các hệ sinh thái: Đa dạng sinh học và môi trường sống, các hệ sinh thái hên quan chặt chẽ với nhau. Các hệ sinh thái, các môi trường sống không thể có được nếu không có sự tồn tại của các giống loài vốn dựa vào nhau để tồn tại và phát triển. Sự suy thoái của đa dạng sinh học đật môi trường sống và các hệ sinh thái vào nguy cơ bị huỷ hoại.

Sự suy thoái hoặc triệt tiêu các loài sẽ làm mất đa dạng di truyền [hay sự xói mòn di truyền]. Cùng với sự mất đi của các loài, các khu vực phân bố loài, sự xói mòn di truyền trong nội bộ các loài động thực vật, nguồn tài nguyên gen quý giá cũng bị mất theo. Nguồn gen động vật rừng, nguồn gen động thực vật thuỷ sinh trong các sông hồ hay biển cả cũng nằm trong nguy cơ này mà hiện chúng ta chưa thể thống kê hay kiểm soát nổi. Quá trình chuyên canh và việc áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật cũng như sự tuyệt chủng nhanh chóng của các loài sinh vật đã làm cho nguồn gen quý giá của cả các động thực vật hoang dại và những vật nuôi, cây trồng truyền thống, nguyên liệu chính cho lai tạo giống trong sản xuất nông nghiệp đã mất đỉ vĩnh viễn. Thiếu sự đa dạng về nguồn gen, các giống loài cũng sẽ bị thoái hoá dần.

5. Các biện pháp bảo vệ, cải thiện đa dạng sinh học

+ Xây dựng hệ thống vườn quốc gia, khu bảo tồn

+ Bảo vệ tối đa sự hoang dã của khu bảo tồn, vườn quốc gia

+ Giữ gìn vùng triền biển ở trạng thái tự nhiên

+ Bảo tồn các khu đất ngập nước

+ Bảo tồn đa dạng sinh học ở các khu dân cư

+ Tạo sự thuận lợi phát triển sinh học đồng ruộng

+ Bảo vệ tốt rặng san hô và thảm cỏ biển

+ Trồng nhiều loại cây tốt hơn 1 loại cây

+ Trồng cây dọc kênh, mương, ao, hồ

+ Xây dựng vành đai xanh quanh khu vực đô thị, làng bản

+ Sản xuất nông nghiệp theo mô hình VAC

+ Canh tác ruộng bậc thang ở nơi đất dốc

+ Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp kết hợp vùng cửa sông

+ Kiểm soát chặt chẽ cây con biến đổi gen

+ Tổ chức tốt các hoạt động du lịch không săn bắn và gây hại cho môi trường

+ Tuyên chuyền cho mọi người phải biết bảo vệ đa dạng sinh học

Video liên quan

Chủ Đề