Preference share là gì

Đây cũng là một hình thức đầu tư vốn cổ phần như cổ phiếu thường, vì cổ phiếu ưu đãi cũng là một chứng minh thư khẳng định quyền sở hữu đối với một công ty, tuy chỉ ở mức độ hạn chế, nghĩa là người sở hữu cổ phiếu ưu đãi không được tham gia bầu cử và ứng cử vào ban quản trị, ban kiểm soát công ty. Thế nhưng đổi lại, họ được dành cho những ưu đãi về mặt tài chính như được hưởng mức cổ tức riêng biệt có tính chất cố định hàng năm, được ưu tiên chia lãi cổ phần thường, được phân chia tài sản còn lại của công ty khi công ty thanh lý, giải thể. Có thể nói các nhà đầu tư này là những người không can dự vào những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của công ty.

Vì cổ tức không tăng nên thị giá cổ phiếu ưu đãi trên thị trường không biến động. Tuy nhiên, để tạo sức hấp dẫn cho cổ phiếu ưu đãi, người ta đã đa dạng hóa cổ phiếu ưu đãi bằng cách phân chia cổ phiếu ưu đãi ra thành bốn loại cổ phiếu khác nhau là:

1. Cổ phiếu ưu đãi tích lũy [và không tích lũy]

Là cổ phiếu ưu đãi cộng gộp [và không cộng gộp ]. Cổ phiếu không cộng gộp là loại cổ phiếu được hưởng cổ tức cố định, nhưng trong trường hợp làm ăn thất bại, không có lợi nhuận để trả cho loại cổ phần ưu đãi, hoặc trả lãi không đủ, thì công ty sẽ bỏ qua luôn phần cổ tức chưa trả hoặc trả thiếu này.

Cổ phiếu cộng gộp thì không như vậy, nghĩa là nếu năm nay không có lợi nhuận để trả cổ tức, hoặc trả không đủ, thì số thiếu đó được ghi vào năm sau và cộng dồn với cổ tức của chính năm đó, hoặc sẽ trả vào một năm nào đó khi công ty có lãi. Khoản nợ cổ tức này công ty sẽ ưu tiên trả trước , rồi sau đó mới đến cổ phiếu thường.

2. Cổ phiếu ưu đãi tham dự chia phần [và không tham dự chia phần]

a. Cổ phiếu ưu đãi không tham dự chia phần

Là loại cổ phiếu chỉ được hưởng cổ tức ưu đãi, ngoài ra không có gì thêm, dù năm đó công ty đạt mức lãi cao. Đôi khi cổ phần thường có cổ tức cao gấp 2 - 3 lần so với cổ phiếu ưu đãi.

b. Cổ phiếu ưu đãi tham dự chia phần

Là loại cổ phiếu mà cổ đông được hưởng một phần lợi nhuận phụ trội theo quy định, trong trường hợp công ty có lãi.

Người sở hữu cổ phiếu ưu đãi nói chung không có quyền tham gia bầu cử, nhưng thông thường, nếu công ty không có khả năng trả lợi tức liên tục trong một số năm, thì cổ đông có cổ phiếu ưu đãi có quyền bầu cử một số người vào hội đồng quản trị.

Phần lớn cổ phiếu ưu đãi thuộc loại cổ phiếu không tham dự chia phần.

3. Cổ phiếu ưu đãi có quyền chuyễn đổi thành cổ phiếu thường

Là cổ phiếu ưu đãi được cho phép chuyển đổi theo tỉ giá nhất định ghi trong cổ phiếu.

Ví dụ loại cổ phiếu có khả năng chuyển đổi mệnh giá là 500.000 đ sẽ được chuyển đổi thành 5 cổ phiếu thường theo tỉ giá 100.000 đ/1 cổ phiếu vào bất kỳ thời điểm nào trong năm tiếp theo.

Xét về khía cạnh tài chính, việc chuyển đổi này không đem lại lợi ích gì cho chủ sở hữu, trừ khi giá thị trường của cổ phiếu thường cao hơn mệnh giá. Chẳng hạn lúc đó giá thị trường là 120.000 đ, người sở hữu sẽ có lãi 20.000 đ x 5 = 100.000 đ. Ngược lại, nếu giá cổ phiếu thường thấp hơn mệnh giá[ví dụ 90.000 đ], người sở hữu sẽ không thể thực hiện việc chuyển đổi.

Giá cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi trên thị trường dao động khá lớn , bởi nó gắn liền với cổ phiếu thường. Sau thập niên 1950, loại cổ phiếu này phát triển rất mạnh, bởi mặc dù nó chủ yếu dành cho nhӳng người ưa mạo hiểm, nhưng cũng khá phù hợpvới những người chuộng sự yên tĩnh.

4. Cổ phiếu ưu đãi có quyền chuộc lại [còn gọi là cổ phiếu ưu đãi có thể bồi hoàn]

Là loại cổ phiếu luôn phát hành kèm theo điều khoản quy định rằng công ty có thể hoàn lại vốn cổ phần, cộng thêm một khoản thưởng theo tĩ lệ ghi trên mệnh giá.

Cổ phiếu này hay được áp dụng trong trường hợp công ty cần gấp một số vốn để giải quyết một công việc kinh doanh cụ thể, ví dụ như mua lại một công ty khác. Vì thế, cổ phiếu loại này thường có mức lãi cổ phần khá cao. Việc công ty chuộc lại số cổ phiếu này là động thái cần thiết để giữ trạng thái thăng bằng với cổ phiếu ưu đãi có lãi suất thấp hơn. Việc làm này cũng là để lành mạnh hóa tình hình tài chính của công ty.

Cổ phiếu thường [ORDINARY SHARE] là gì?

Cổ phiếu có nguồn gốc từ công ty cổ phần [Joint stock company] và chỉ công ty cổ phần mới có cổ phiếu. Khi một công ty huy động vốn, số vốn cần huy động sẽ được chia ra thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông [Holdershare]. Cổ đông được cấp một giấy chứng nhận cổ phần gọi là cổ phiếu. Nói cách khác, cổ phiếu là một chứng thư xác nhận quyền sở hữu của cổ đông đối với một công ty cổ phần và cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu.

Trong công ty cổ phần, cổ đông có các quyền như được chia cổ tức theo kết quả kinh doanh, được bầu cử vào bộ máy quản trị và kiểm soát công ty, hưởng lợikhi công ty làm ăn có lãi và chịu lỗ khi hoạt động kinh doanh trì trệ... cùng các quyền hạn và trách nhiệm khác được pháp luật thừa nhận.

Thông thường, các công ty phát hành cổ phiếu tại hai thời điểm: lúc thành lập công ty và lúc công ty cần gọi thêm vốn. Giá trị ban đầu ghi trên cổ phiếu gọi là mệnh giá.

Mệnh giá chỉ là giá trị danh nghĩa. Tùy theo lợi nhuận thu được và cách phân phối lợi nhuận mà giá cổ phiếu sẽ tăng lên hoặc giảm xuống. Dần dần, mức giá thực tế sẽ xa rời mệnh giá.

Ví dụ công ty có vốn cổ phần là 10.000.000.000 đ với lưӧng cổ phiếu là 10.000 thì mệnh giá sẽ là 1.000.000 đ. Sau một năm hoạt động, số tiền lãi thu về là 200.000.000 đ, tức tỉ suất lợi nhuận là 200.000.000 : 10.000.000.000 = 0,02 hay 2%

Công ty phân chia cổ tức 50/50, tức là 1/2 để tích lũy và 1/2 để chia cho cổ đông, nghĩa là công ty giữ lại 100.000.000đ để bổ sung vốn cổ đông. Có hai cách để bổ sung vốn:

Tăng thêm số lưӧng cổ phần theo tỉ lệ 1/20, nghĩa là cứ 20 cổ phần thì cộng thêm một cổ phần. Cách này đòi hỏi cổ đông phải có ít nhất 20 cổ phần.

Tăng mệnh giá cổ phần theo tỉ lệ 10%, nghĩa là giá phát hành là 1.000.000 đ, còn bây giờ mệnh giá sẽ là 1.100.000 đ.

Với cách phân chia này, mệnh giá ngày càng gia tăng. Đến một lúc nào đó, khi mệnh giá sẽ trở nên quá lớn và khó mua bán trên thị trường chứng khoán, người ta lại chia nhỏ giá trị cổ phiếu.

Trong khi ở các công ty khác mệnh giá là 1.000.000 đ hoặc 500.000 đ thì sau mười năm, giá cổ phiếu của công ty nói trên đã là 2.000.000 đ. Công ty quyết định chia đôi cổ phần, tức là 2.000.000 đ : 2 = 1.000.000 đ.

Việc chia nhỏ này không làm thay đổi tổng số vốn của công ty, cũng như không thay đổi cổ phần của các cổ đông, nhưng lại làm cho số lượng cổ phiếu tăng lên. Đây là yếu tố tác động rất tích cự đến tâm lý của nhà đầu tư, bởi đó là bằng chứng thể hiện công ty đang làm ăn phát đạt. Các nhà đầu tư thích tìm đến những cổ phiếu có giá trị nhỏ này để mua, làm cho giá cổ phiếu tiếp tục tăng lên.

Khác với cổ phiếu, đơn vị phát hành trái phiếu là người mắc nợ nhữngngười mua trái phiếu . Người mua trái phiếu được nhận lợi tức hàng năm hay hàng quý, nên một khi lạm phát gia tăng thì giá trái phiếu trên thị trường sẽ giảm, hay nói cách khác là trái phiếu sẽ mất giá.

Có thể phân chia trái phiếu theo hai cách: theo ghi tên và không ghi tên; và theo chủ thể phát hành.

1. Phân theo ghi tên và không ghi tên

a. Trái phiếu vô danh

Là loại trái phiếu mà danh tính người sở hữu không được ghi trên trái phiếu, cũng như không lưu vào sổ của công ty phát hành.

b. Trái phiếu ký danh

Là loại trái phiếu có ghi tên người sở hữu. Mỗi tờ trái phiếu đều có cuốn phiếu [coupon] là các ô trả lãi. Chủ sở hữu chỉ việc cắt một ô trả lãi đó gửi đến ngân hàng hoặc công ty chứng khoán được ủy thác để nhận lãi.

Người sở hữu trái phiếu, hay còn gọi là trái chủ, có thể giữ lãi trái phiếu khi đến hạn để nhận lại mệnh giá, hoặc có thể bán trên thị trường chứng khoán khi chưa đến hạn. Trong trường hợp này, trái chủ sẽ nhận được giá trị theo giá thị trường. Mức giá đó có thể cao hơn, bằng hoặc thấp hơn mệnh giá, tùy theo tình trạng lạm phát cũng như thị giá của trái phiếu tại thời điểm đó.

Những quy định cụ thể của trái phiếu

- Giá trái phiếu là giá mua bán , còn giá công bố đưӧc hiểu là tỉ lệ phần trăm của mệnh giá.

Ví dụ khi giá công bố của trái phiếu là 100 đ có nghĩa là giá mua bán là100% mệnh giá. Tương tự, giá 90đ có nghĩa là 90% của mệnh giá, giá 110 đ có nghĩa là 110% của mệnh giá. Giá nhỏ hơn mệnh giá gọi là giá chứng khoán. Giá tăng hay giảm 1% gọi là1 điểm . Ví dụ giá từ 90 lên 91 nghĩa là tăng 1 điểm.

Như vậy, lãi suất tín dụng thị trường tăng thì giá trái phiếu sẽ giảm, và ngược lại. Tuy nhiên, công thức này chỉ mang tính tương đối, bởi trên thực tế, không phải lãi suất thị trường tăng hoặc giảm bao nhiêu phần trăm thì giá trái phiếu lại tăng giảm theo một tỉ lệ tương ứng. Ở ví dụ trên, khi lãi suất tín dụng thị trường tăng 2% [10% - 8%] thì trái phiếu có mệnh giá 100 đ vẫn sẽ xoay quanh con số 80 đ.

- Mệnh giá là giá mua lúc đầu ghi trên trái phiếu . Nói chung, trái phiếu công ty thường ghi 100.000 đ, 200.000 đ, 1.000.000 đ.

- Thời hạn: trái phiếu là công cụ vốn dài hạn với khoảng thời gian ít nhất là 5 năm, nhưng cũng có thể là 10, 20, 30, 50 năm và lâu hơn nӳa.

Kho bạc Nhà nước thường phát hành tín phiếu [Treasury bill]. Đây cũng là một dạng chứng khoán, nhưng có kỳ hạn ngắn hơn so vớitrái phiếu. Chính phủ và chính quyền địa phương có thể phát hành trái phiếu để huy động vốn cho một số mục đích kinh tế, xã hội nhất định. Thời hạn của trái phiếu này tùy thuộc vào thời hạn thu hồi vốn. Các ngân hàng thương mại và các công ty không phát hành trái phiếu có mục đích, mà ngân hàng thương mại thường phát hành chứng chỉ tiền gửi, hoặc chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng[Negotiable certificate of deposit NCD].

- Lãi suất: mỗi trái phiếu đều được xác định một số tiền lãi cố định so với mệnh giá trong thời hạn nhất định là một năm gọi là lãi suất. Lãi suất được xác định theo tỉ lệ phần trăm so với mệnh giá. Nói là tiền lãi của năm, nhưng thông thường tiền lãi được trả mỗi quý hoặc mỗi sáu tháng.

- Lãi suất hiện hành: là lãi suất của nhà đầu tư so với chi phí đầu tư. Mức lãi này được xác định bằng công thức:

Lãi suất hiện hành = [Mệnh giá x 100] / Giá mua

Ví dụ trái phiếu mệnh giá là1.000.000 đ đưӧc mua 800.000 đ sẽ có lãi suất hiện hành là 1.000.000đ x 100: 800.000đ = 125%.

- Lãi suất đáo hạn: ngay từ khi phát hành, trái phiếu đã được xác định mệnh giá, lãi suất và thời hạn cụ thể. Trải qua quá trình mua đi, bán lại trên thị trường chứng khoán, giá mua sẽ không còn trùng khớp với mệnh giá nữa. Lúc này, mệnh giá chỉ còn là giá trên danh nghĩa. Nhưng khi đến hạn, trái phiếu vẫn được chi trả [hoàn vốn] theo mệnh giá và tiền lãi chỉ được tính theo lãi suất ghi trên trái phiếu.

Để tính lãi suất đầu tư trái phiếu [mua lại], người ta thường tính lãi suất đáo hạn của trái phiếu bằng cách lấy tiền lãi thu được chia cho chi phí, rồi tất cả chia cho số năm [thời gian] còn lại của trái phiếu.

2. Phân theo chủ thểphát hành

a. Trái phiếu công ty:

là trái phiếu do công ty phát hành để vay. Có nhiều loại trái phiếu công ty như:

- Trái phiếu tín chấp [còn gọi là trái phiếu không bảo lãnh]: là loại trái phiếu chỉ dựa vào uy tín của công ty để phát hành mà không đưa ra bất kỳ tài sản nào làm vật bảo đảm cho trái phiếu . Đây thường là trái phiếu do các công ty lớn, có uy tín phát hành.

- Trái phiếu thế chấp: là loại trái phiếu mà khi phát hành đã có một lượng tài sản tương ứng ký thác tại cơ quan ủy thác để đảm bảo chắc chắn khả năng hoàn trả của trái phiếu. Tài sản thế chấp thường là các trái phiếu đã mua của các công ty khác, hoặc trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương. Thông thường, giá trị chứng khoán ký thác phải lớn hơn 25% so với tổng trị giá trái phiếu được phát hành.

- Trái phiếu cầm cố ưu tiên một: là loại trái phiếu mà khi phát hành công ty phải cầm cố toàn bộ tài sản của mình. Tài sản cầm cố là những loại tài sản hiện có, đôi khi là cả tài sản sẽ có sau này. Đây là loại trái phiếu an toàn nhất, vì chủ trái phiếu được ưu tiên hàng đầu. Bên cạnh đó cũng có loại trái phiếu cầm cố ưu tiên hai, ba.

- Trái phiếu thu nhập: là loại trái phiếu mà lợi tức được trả tùy thuộc vào lợi nhuận của công ty và không cao hơn lãi suất ghi trên trái phiếu . Đây là loại trái phiếu lưỡng tín, nghĩa là có phần giống với cổ phiếu ưu đãi không tích lũy.

- Trái phiếu có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu thường: là loại trái phiếu hấp dẫn thường được nhiều công ty cổ phần áp dụng. Điều kiện chuyển đổi đại thể giống như cổ phiếu ưu đãi có khả năng chuyển đổi, với chỉ số chuyển đổi và thời hạn chuyển đổi đã được xác định. Chủ sở hữu chỉ được hưởng lợi tài chính khi giá cổ phiếu thường [phổ thông] cao hơn giá thị trường.

- Trái phiếu lãi suất chiết khấu: là trái phiếu mà lãi suất được trả ngay khi phát hành bằng cách khấu trừ luôn vào vốn mua công trái.

- Trái phiếu lãi suất thả nổi: là loại trái phiếu mà lãi suất được điều chỉnh theo từng thời kỳ cho phù hợp với lãi suất thị trường [lãi suất tín dụng].

Bên cạnh đó còn một số khái niệm liên quan như:

- Lợitức trái phiếu công ty: khoản lợi tức này phụ thuộc vào tình hình tài chính của công ty và lợi nhuận bình quân của cả nền kinh tế. Thông thường, lợi tức trái phiếu công ty nhận trả mỗi năm hai hoặc bốn lần. Nếu lạm phát gia tăng, người ta có thể áp dụng lãi suất cao hơn để tính lợi tức.

Để đảm bảo sự an toàn trong việc chi trả khi trái phiếu đến hạn, công ty phải thành lập một quỹ thanh toán [được hưởng lãi] tại ngân hàng [quỹ này còn có tên gọi là quỹ chìm - sinking fund].

- Phiếu trả lãi [coupon]: mỗi tờ trái phiếu thường đi kèm với một cuốn phiếu có các ô trả lãi, và người sở hữu sẽ cắt rời từng ô để nhận lãi.

Về bản chất, trái phiếu là giấy vay nợ, do đó phần lớn trái phiếu công ty đều có quy ước về khả năng chuộc lại.

b. Trái phiếu chính phủ và chính quyền địa phương:

là công cụ mà chính phủ dùng để vay nợ

Trái phiếu chính phủ được phát hành thông qua các tổ chức môi giới chứng khoán bằng phương thức đấu thầu. Đối tượng tham giađấu thầu là các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, công ty tài chính, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư và các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp.

Trước hết, Bộ Tài chính và Ngân hàng Trung ương ước định lượng trái phiếu cần phát hành, sau đó mệnh giá, lãi suất sẽ được xác định thông qua hình thức đấu giá. Các lện h trả giá bao gồm hai nội dung là số lượng mua và lãi suất. Mỗi tổ chức tham gia đấu giá chỉ được đăng ký một lần.

Đơn vị trúng thầu phải là đơn vị đưa ra mức lãi suất thấp nhất. Nếu trúng thầu, đơn vị đó sẽ đem bán trái phiếu ra thị trường. Thông thường, người ta phải thành lập riêng một thị trường giao dịch dành cho mặt hàng này, gọi là thị trường trái phiếu kho bạc.

Giấy bảo đảm quyền mua cổ phiếu là gì?

Khi một công ty cổ phần kinh doanh hiệu quả và có nhu cầu mở rộng quy mô, họ thường tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu bổ sung. Việc phát hành thêm cổ phiếu có thể dẫn đến tình trạng một số cổ đông ban đầu mất quyền kiểm soát công ty, trong khi họ là những người có công và cần được hưởng chế độ ưu đãi đặc biệt. Để đảm bảo quyền kiểm soát của cổ đông ban đầu, trước năm 1950, các công ty cổ phần thường thực hiện phương thức chia cổ phần thành hai loại A, B.

- Cổ phần A: là cổ phần sáng lập. Người sở hữu loại cổ phần này được hưởng đầy đủ các quyền của những cổ phần thông thường.

- Cổ phần B: là loại cổ phần mới được phát hành bổ sung. Người sở hữu vẫn được hưởng lãi cổ phần theo cổ phần thông thường, nhưng không được quyền tham gia bầu cử.

Nhược điểm của cách phân chia này là vi phạm tính chất cơ bản của cổ phần thường, do đó không khuyến khích người mua mới, cũng như không có tác dụng kích thích để các cổ đông tăng cường đầu tư, và hậu quả là hạn chế tốc độ phát triển của công ty.

Để khắc phục tình trạng đó và bảo vệ lợi ích cơ bản của các cổ đông, đồng thời kích thích đầu tư mở rộng, từsau 1950, các nước đều đưa ra quy định là các cổ đông hiện hữu được quyền mua cổ phiếu với giá thấp hơn giá thị trường theo tỉ lệ tương ứng với số cổ phiếu mà họ đang nắm giữ. Sau đó, số cổ phiếu còn lại mới được bán ra theo giá thị trường.

Ví dụ giá bán là 120.000 đ, giá thị trường là 150.000đ. Nếu cổ đông muốn giữ quyền sở hữu theo tỉ lệ như cũ thì họ sẽ mua thêm cổ phiếu, bằng không, họ có thể bán quyền mua này ra thị trường.

Như vậy, Giấy bảo đảm quyền mua cổ phiếu mới cũng là một loại chứng khoán và nó cũng được giao dịch trên thị trường chứng khoán, giống như cổ phiếu của công ty.

Theo ví dụ trên, giá bán là 150.000 đ sẽ đưӧc tính theo cách sau:

Cổ phiếu cũ có giá thị trường là 150.000đ và cổ đông được quyền mua thêm một cổ phiếu mới là120.000 đ, giả sử theo tỉ lệ 1/1. Vậy cổ đông sẽ có hai loại cổ phiếu với giá bình quân là 135.000 đ, tức là thấp hơn giá thị trường 15.000 đ.

Tuy nhiên, mức giá bán trên thị trường có thể cao hơn hoặc thấp hơn, tùy thuộc vào việc công ty đó đang phát triển hay đình trệ.

Giá bán quyền mua đưӧc xác định theo công thức:

M = [P - F] / [n + 1]

Trong đó:

  • M: giá bán
  • P: giá thị trường của cổ phiếu
  • F: giá ưu đãi đưӧc mua cổ phiếu
  • n: định mức số cổ phiếu cũ đưӧc mua một cổ phiếu mới.

Trở lại ví dụ trên, chúng ta có:

M = [150.000 đ 120.000 đ] : [1+1]= 15.000 đ.

Giấy bảo đảm quyền mua cổ phiếu mới chỉ có giá trị trong một thời gian theo quy định của công ty. Quá thời hạn đó, công ty sẽ đưa cổ phiếu ra bán trên thị trường.

Video liên quan

Chủ Đề