So sánh tuyên bố chết và tuyên bố mất tích năm 2024

[LSVN] - Tôi có một người họ hàng đi biệt tích từ rất lâu, cả gia đình đã nhiều lần đi tìm kiếm và nghe thông tin nhưng đều không có tin tức gì. Vậy theo pháp luật hiện hành thì một người mất tích bao lâu thì người đó sẽ bị tuyên bố chết? - Bạn đọc N.K. [Yên Bái] có hỏi.

Ảnh minh họa.

Việc tuyên bố chết được quy định cụ thể tại Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ thể, Tòa án tuyên bố một người là đã chết khi có yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan trong các trường hợp sau:

- Bị Tòa án tuyên bố mất tích: Sau 03 năm từ ngày quyết định tuyên bố mất tích có hiệu lực mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;

- Biệt tích trong chiến tranh: Sau 05 năm kể từ ngày chiến tranh kết thúc vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;

- Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai: Sau 02 năm kể từ ngày tai nạn, thảm họa, thiên tai chấm dứt mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

- Biệt tích: Thời gian biệt tích là 05 năm trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống.

Trong đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 68 Bộ luật Dân sự 2015 thì thời gian biệt tích được xác định như sau:

- Từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó;

- Nếu không xấc định được ngày có tin tức cuối cùng thì tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng;

- Nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.

Căn cứ quy định trên, tùy vào từng trường hợp cụ thể, một người sẽ bị tuyên bố đã chết sau thời hạn mất tích tương ứng nêu trên.

Bên cạnh đó, tại khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định về người có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người đã chết như sau:

Điều 71. Tuyên bố chết 1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây:

  1. Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống. ...

Khoản 1 Điều 391 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định về quyền yêu cầu tuyên bố một người là đã chết: "Người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người là đã chết theo quy định của Bộ luật Dân sự".

Như vậy, người có quyền yêu cầu tuyên bố một người là đã chết là người có quyền, lợi ích liên quan đến người bị tuyên bố đã chết. Có thể kể đến một số trường hợp như sau:

- Người có quan hệ hôn nhân và gia đình: Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố đã chết; con đẻ, con nuôi… của người bị Tòa án tuyên bố đã chết;

- Người có quan hệ thừa kế: Người cùng hàng thừa kế với người bị tuyên bố đã chết; Người được hưởng thừa kế nếu Tòa án tuyên bố 01 người đã chết.

...

Khi gửi yêu cầu Tòa án tuyên bố một người đã chết thì người có quyền, lợi ích liên quan phải gửi đơn yêu cầu. Không chỉ vậy, gửi kèm đơn yêu cầu phải là tài liệu, chứng cứ để chứng minh người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết thuộc các trường hợp tuyên bố chết ở trên.

So sánh tuyên bố mất tích và tuyên bố chết theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. BLDS 2015 có quy định về tuyên bố chết và tuyên bố mất tích với mục đích bảo vệ quyền, lợi ích của nguời có liên quan đến nguời bị tuyên bố chết hoặc mất tích như quyền về tài sản, trách nhiệm dân sự, hay quan hệ hôn nhân gia đình,.... Nội dung so sánh trong bài gồm:

  • Khái niệm
  • Điều kiện tuyên bố
  • Hậu quả pháp lý

So sánh tuyên bố mất tích và tuyên bố chết

1. TỔ CHỨC, CÁ NHÂN có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng hoá do mình sản xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp.

2. Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường nhưng do người khác sản xuất với điều kiện người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm và không phản đối việc đăng ký đó.

3. Tổ chức tập thể được thành lập hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu tập thể để các thành viên của mình sử dụng theo quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể; đối với dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ, tổ chức có quyền đăng ký là tổ chức tập thể của các tổ chức, cá nhân tiến hành sản xuất, kinh doanh tại địa phương đó; đối với địa danh, dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương của Việt Nam thì việc đăng ký phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.

4. Tổ chức có chức năng kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính, nguồn gốc hoặc tiêu chí khác liên quan đến hàng hóa, dịch vụ có quyền đăng ký nhãn hiệu chứng nhận với điều kiện không tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đó; đối với địa danh, dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương của Việt Nam thì việc đăng ký phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.

5. Hai hoặc nhiều tổ chức, cá nhân có quyền cùng đăng ký một nhãn hiệu để trở thành đồng chủ sở hữu với những điều kiện sau đây:

  1. Việc sử dụng nhãn hiệu đó phải nhân danh tất cả các đồng chủ sở hữu hoặc sử dụng cho hàng hoá, dịch vụ mà tất cả các đồng chủ sở hữu đều tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh;
  1. Việc sử dụng nhãn hiệu đó không gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc của hàng hoá, dịch vụ.

6. Người có quyền đăng ký quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 trên này, kể cả người đã nộp đơn đăng ký có quyền chuyển giao quyền đăng ký cho tổ chức, cá nhân khác dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản, để thừa kế hoặc kế thừa theo quy định của pháp luật với điều kiện các tổ chức, cá nhân được chuyển giao phải đáp ứng các điều kiện đối với người có quyền đăng ký tương ứng.

7. Đối với nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu đăng ký nhãn hiệu đó mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên thì người đại diện hoặc đại lý đó không được phép đăng ký nhãn hiệu nếu không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu, trừ trường hợp có lý do chính đáng.

Chủ Đề