Tiểu luận văn hóa chính trị việt nam hiện nay năm 2024

Trong suốt chiều dài tồn tại và phát triển của lịch sử nhân loại, văn hóa luôn luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống của mỗi quốc gia nói riêng cũng như toàn bộ thế giới nói chung. Văn hóa là tổng hòa của những giá trị Chân, Thiện, Mỹ được vận động và sàng lọc trong thực tiễn cuộc sống theo thời gian. Nhắc đến văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loại người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”.

Văn hóa chính trị là một lĩnh vực, một biểu hiện của văn hóa loài người trong xã hội có giai cấp. Trong tiến trình phát triển của lịch sử, các giải cấp cầm quyền đã thay nhau sử dụng thứ quyền lực đặc biệt này để duy trì sự thống trị và phát triển của xã hội. Văn hóa chính trị không chỉ tác động đến việc tổ chức xã hội, định hướng điều chỉnh các hành vi và quan hệ xã hội mà đồng thời còn thúc đẩy hoạt động của cá nhân, giai cấp trong chính trị. Mặt khác, văn hóa chính trị còn là một nhân tố không thể thiếu để đảm bảo chất lượng, hiệu quả của hoạt động chính trị.

Trong văn hóa chính trị, có một khái niệm mà bất cứ ai cũng nên biết, nên hiểu và có một thái độ đúng đắn đó là VHTC. VHTC là một bộ phận của văn hóa chính trị vì nó có gắn liền với việc kiểm soát và thực thi quyền lực chính trị. Từ đó, VHTC trở thành nhân tố có tác động mạnh mẽ tới đời sống chính trị của đất nước. Ở nhiều nước trên thế giới, VHTC đã sớm tồn tại và phát triển, đặc biệt là các nước phát triển công nghiệp. Tại Việt Nam, VHTC đã manh nha từ

các thời đại trước nhưng cho đến nay vẫn chưa được chính thức hình thành nên văn hóa trong xã hội. Chính điều này đã tác động mạnh mẽ đến hiệu quả thực thi công việc của bộ máy chính trị quốc gia, làm suy giảm uy tín của những người cán bộ lãnh đạo đối với nhân dân. Vì vậy, không thể phủ nhận tính cấp thiết của việc nghiên cứu hiện tượng từ chức với tư cách là phạm trù văn hóa chính trị để góp phần làm thay đổi nhận thức của xã hội về vấn đề và phát huy mặt tích cực của nó trong xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.

Với những lập luận được nêu ra ở trên, em đã lựa chọn tìm hiểu và nghiên cứu đề tài: “Văn hóa từ chức trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng , nguyên nhân và giải pháp khắc phục” làm bài tiểu luận để kết thúc học phần môn Chính trị học đại cương của mình.

II. Lịch sử nghiên cứu đề tài:

Trong lịch sử nghiên cứu, có rất ít các công trình có tính chất “Trọng điểm quốc gia” được thực hiện nhằm đem lại những cơ sở lý luận quan trọng để việc nghiên cứu VHTC thực sự đi vào đời sống chính trị một cách tự nhiên. Qua nghiên cứu và tìm hiểu, em nhận thấy rằng các công trình, bài viết của tác giả về VHTC của Việt Nam trước đây chỉ được hình thành theo cơ chế “tự phát”. Lịch sử vấn đề VHTC ở Việt Nam thường được các tác giả phân tích trên phương diện từ khái niệm đến vai trò, từ thực trạng, khó khăn đến giải pháp. Một tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến đó là:

Đề tài cơ sở trọng điểm 2014: “VHTC ở Việt Nam hiện nay – Vấn đề và kiến nghị” của Tiến sỹ Nguyễn Xuân Phong. Trong đó, ông phân tích từ khái niệm đến vai trò của VHTC. Từ lý luận đã có, ông nêu ra thực trạng VHTC tại thời điểm đó. Ông đã chỉ ra những nguyên nhân tác động đến VHTC, phân tích những mâu thuẫn đặt ra và đánh giá những xu hướng thúc đẩy VHTC trong thời

Đề tài tiểu luận có phạm vi nghiên cứu cụ thể như sau:

  • Về không gian: Việt Nam
  • Về thời gian: hiện nay [từ 2015 – nay]

IV. Phương pháp nghiên cứu:

Bài tiểu luận này được thực hiện dựa trên sự kết hợp của các phương pháp nghiên cứu khác nhau gồm: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,

phương pháp thu thập số liệu...

  1. Kết cấu của đề tài:

Kết cấu đề tài: **“Văn hóa từ chức trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay

  • Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp khắc phục”** gồm 3 chương:
  • Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của VHTC trong HTCT
  • Chương II: Thực trạng và nguyên nhân của VHTC trong HTCT Việt Nam hiện nay
  • Chương III: Một số giải pháp tăng cường VHTC trong HTCT Việt Nam hiện nay.

NỘI DUNG

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VHTC TRONG HTCT

1. Khái niệm văn hóa:

Văn hóa là khái niệm đa nghĩa gắn liền với con người và đời sống xã hội của con người. Nó thường có những nội dung khác nhau tùy thuộc vào cách tiếp cận khác nhau. Trong đời sống xã hội, văn hóa không thể là một lĩnh vực riêng biệt mà còn xuyên suốt “cơ thể” xã hội, thẩm thấu vào mọi lĩnh vực hoạt động, mọi quan hệ của con người. Trình độ văn hóa thể hiện trình độ phát triển của xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống: trong lao động sản xuất [quan hệ với tự nhiên]; trong gia đình, xã hội, Tổ chức, nhân loại [quan hệ xã hội]; trong sinh hoạt riêng tư, phát triển trí tuệ, tài năng cá nhân [hình thành nhân cách].

Bởi vậy, một mặt không nên đồng nhất văn hóa với học vấn, đạo đức và nhân cách, mặt khác cũng không nên tuyệt đối hóa một định nghĩa, một quan niệm nào về văn hóa.

  • Theo nghĩa gốc của từ, “văn hóa” bắt nguồn từ tiếng Latinh là “cultura”, nghĩa là cày cấy, vun trồng. Như vậy, thoạt đầu khi mới xuất hiện, văn hóa chủ yếu biểu hiện quan hệ giữa con người với tự nhiên. Về sau, cùng với quá trình phát triển sản xuất, quan hệ con người được mở rộng, văn hóa ngoài thể hiện con người với tự nhiên còn thể hiện quan hệ con người với con người, phản ánh trình độ giáo dục, có học vấn, sự mở mang trí tuệ và năng lực bản chất của con người.
  • Theo cách tiếp cận hệ thống, văn hóa là một hoạt động sáng tạo, là hệ những giá trị do kết quả hoạt động sáng tạo của con người tạo nên. Tập thể các tác giả cuốn “Từ điển chính trị rút gọn” của Liên Xô cho rằng: Văn hóa là trình độ phát triển lịch sử nhất định của xã hội, là sức sáng tạo và khả năng của con người,

Tuy nhiên, nhiều nơi vẫn còn những định kiến sai lệch về từ chức. Họ luôn nghĩ rằng từ chức chỉ là việc làm sau khi ai đó đã làm những việc sai trái, vi phạm pháp luật, và chỉ từ chức vì sợ hãi hay bị ép buộc từ dư luận.

Nhìn chung, từ chức có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức, vì vậy không nên có cái nhìn phiến diện về bất cứ sự từ chức nào.

1. Khái niệm văn hóa từ chức:

VHTC là một bộ phận của văn hóa chính trị, khi những người cán bộ lãnh đạo nhận thấy bản thân không còn xứng đảm nhận chức vụ và trách nhiệm được giao phó. VHTC là một biểu hiện của sự hiểu biết về bổn phận, trách nhiệm của người nắm giữ chức vụ.

VHTC là một trong những biểu hiện sinh động, cụ thể và thiết thực nhất về một nền chính trị văn minh dựa trên lòng tự trọng, bản lĩnh và trách nhiệm của những nhà lãnh đạo thực sự có tâm huyết và đầy dũng khí. Hành động từ chức khi tự nhận ra bản thân không còn đủ khả năng lãnh đạo là một hành động rất đẹp đẽ. Bởi đây là hành động không dễ dàng thực hiện đối với bất cứ ai có chức, có quyền trong xã hội, đòi hỏi cần thể hiện văn hóa ở trình độ cao.

Hành vi từ chức được thể hiện bởi hai hình thức: từ chức bởi cuộc vận động miễn nhiệm của tập thể hoặc xuất phát từ chính nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm nhận lỗi của cá nhân. Hành vi từ chức chỉ có thể trở thành VHTC khi nó bắt nguồn từ sự tự nhận thức, trách nhiệm và sự trung trực của các cán bộ lãnh đạo. Như vậy có nghĩa, không phải bất kỳ hành động từ chức nào cũng là văn hóa cũng như không phải cứ có văn hóa là sẽ từ chức.

1. Khái niệm hệ thống chính trị:

Hệ thống chính trị là một chính thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền.

Tiểu kết chương I:

Như vậy, trong chương I đã làm rõ một số khái niệm để hiểu về văn hóa, từ chức, VHTC và HTCT. Từ đó, ta có cơ sở để xem xét toàn diện khi nghiên cứu thực trạng và nguyên nhân của VHTC trong HTCT Việt Nam.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA VHTC ĐỐI VỚI HTCT VIỆT NAM HIỆN NAY

2. Vai trò của từ chức và VHTC đối với HTCT và sự phát triển xã hội:

2.1. Vai trò tích cực của từ chức và VHTC:

  • Đảm bảo sự vận hành và trong sạch bộ máy chính trị:

Trong một nền chính trị, VHTC nếu được hình thành sẽ trở thành bộ lọc cho đội ngũ quan chức lãnh đạo. Khi ấy, những người không đủ năng lực, phẩm chất, không còn phù hợp để gánh vác công việc của đất nước sẽ tự động dời bỏ vị trí. Đồng thời, những người có kiến thức, khả năng, phù hợp hơn sẽ được thế chỗ và thực hiện công việc phù hợp với khả năng của mình. Hoặc khi một người cán bộ lãnh đạo mắc phải một sai phạm sẽ không còn nhận được tín nhiệm của mọi người như trước và họ sẽ tự động dời bỏ vị trí và những người có tư cách, phẩm chất, năng lực, uy tín hơn sẽ thế chỗ. Vì vậy, VHTC góp phần rất lớn

ấy cảm thấy bản thân còn những thiếu sót, không còn phù hợp với vị trí của mình, họ sẽ chủ động rút lui, nhường lại vị trí cho những người phù hợp tiếp theo. Đó là biểu hiện của lòng tự trọng, biết đặt lợi ích của cộng đồng lên trên lợi ích của bản thân.

2.1. Vai trò tiêu cực của từ chức và VHTC:

  • Tạo ra sức ép đối với đội ngũ lãnh đạo:

Từ chức và VHTC có thể là công cụ để nhân dân giảm sát, kiểm soát hoạt động của chính quyền. Tuy nhiên, đó cũng có thể dẫn đến hiện tượng bất cứ ai cũng có quyền can dự và gây sức ép với đội ngũ lãnh đạo, dẫn đến vị thế của người lãnh đạo suy giảm nghiêm trọng. Khi đó, những quyết định được đưa ra không đặt mục tiêu hàng đầu là sự phát triển của quốc gia, dân tộc mà phải có sự thăm dò và chiều lòng dư luận. Trong số những nhóm người gây áp lực cho cán bộ lãnh đạo, sẽ có những nhóm có vị thế hơn có tiếng nói hơn sẽ chi phối nền chính trị, gây ra những bất công trong chính trị, khiến cho các đường lối chính sách được ban hành suy giảm tính hiệu quả.

  • Có thể trở thành công cụ cho các mục đích chính trị cá nhân:

Không thể phủ nhận, sẽ luôn tồn tại những thủ đoạn chính trị đe dọa đời sống chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc và hành động từ chức hay VHTC có thể trở thành “con dao hai lưỡi” đối với những mục đích chính trị cá nhân. Khi đó một cá nhân nào đó sẽ bị ép phải dời bỏ vị trí mà bản thân vẫn đang tâm huyết đảm nhiệm và có khả năng đảm nhiệm tốt. Sức ép này là kết quả của những thỏa thuận ngầm, có sự tham gia của các thế lực rất lớn mạnh về chính trị kinh tế. Đây là trường hợp VHTC bị lợi dụng để hạ bệ người khác nhằm phục vụ cho mục đích chính trị của cá nhân, tổ chức.

Ở một khía cạnh khác, từ chức cũng có thể biến thành công cụ để phục vụ cho những màn kịch chính trị của chính người từ chức. Đó là khi người đó muốn từ chức nhưng thực chất là để né tránh hậu quả khi những toan tính chính trị bị phanh phui. Đó có thể là “màn kịch của sự hối cải” nhằm tăng uy tín cá nhân và sự tin tưởng của cá nhân đó trong mắt dân chúng. Nhờ đó họ có thể nhận được sự khoan nhượng nhiều hơn từ phía nhân dân. Đây là trường hợp VHTC bị lợi dụng để làm tăng uy tín cá nhân sau những sai phạm đã xảy ra.

  • Từ chức tràn lan gây xáo trộn đội ngũ lãnh đạo, gây lãng phí nhân lực, tiền bạc của quốc gia:

VHTC là một yếu tố cho một nền chính trị trong sạch, vững mạnh, nhưng khi bị lạm dụng, các cán bộ lãnh đạo từ chức tràn lan gây mất kiểm soát thì sẽ làm xáo trộn đội ngũ lãnh đạo, làm lãng phí nhân lực, tiền bạc quốc gia. Về sự bất ổn trong đội ngũ cán bộ, khi có một người lãnh đạo từ chức, dù ở vị trí nào thì người đó cũng có một vai trò nhất định trong việc tổ chức chính trị. Vì vậy khi từ chức, người đó sẽ để lại một khoảng trống về nhân lực lãnh đạo chính trị. Mặc dù có những người có khả năng đảm nhiệm chức vụ khác sẽ được xem xét và bầu chọn nhưng quá trình này sẽ phải diễn ra trong một thời gian dài để đảm bảo hiệu quả. Và trong khoảng thời gian đó, những công việc của người từ chức sẽ bị đình trệ.

2. Thực trạng của VHTC trong HTCT Việt Nam hiện nay:

2.2. Một số biểu hiện của VHTC trong HTCT Việt Nam hiện nay:

Trong xã hội hiện đại, từ chức là hiện tượng được xã hội coi trọng và ủng hộ được nhìn nhận theo hướng tích cực như một tất yếu trong quá trình nâng cao chất lượng nhân sự cấp cao và hoạt động hiệu quả của tổ chức. Điều này cũng thể hiện yêu cầu, đòi hỏi cao hơn của xã hội về năng lực, trách nhiệm, đạo đức,

Đó chính là cách mà tổ chức và cấp trên khuyến khích, bảo vệ cán bộ Nguyễn Sự từ chức một cách đàng hoàng, trước sự kính phục của dư luận.

Cách làm ở Hội An [Quảng Nam] là như vậy, nhưng ở nhiều nơi khác, cấp ủy, chính quyền và đoàn thể lại chưa coi trọng công tác khuyến khích và bảo vệ cán bộ từ chức. Trong khi đó, so với đòi hỏi của thực tiễn, để cán bộ từ quan thì cần nhiều hơn nữa các chế độ, chính sách khuyến khích, bảo vệ một cách thiết thực, tương xứngơn nữa các chế độ, chính sách khuyến khích, bảo vệ một cách thiết thực, tương xứng.

  • Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi Lê Viết Chữ & Phó bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND Quảng Ngãi viết đơn xin thôi giữ chức vụ vì nguyện vọng cá nhân: Cách đây hơn một năm, dư luận xôn xao trước thông tin đồng chí Lê Viết Chữ, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi và đồng chí Trần Ngọc Căng, Phó bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi, cùng viết đơn gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư xin thôi giữ chức vụ do nguyện vọng cá nhân và nhằm tạo điều kiện để kiện toàn công tác nhân sự cho Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi nhiệm kỳ 2020- 2025 [tổ chức vào tháng 10-2020].

Lý do được đưa ra là vậy, nhưng thực tế lại hoàn toàn khác. Trước đó, ngày 16 -6-2020, Bộ Chính trị quyết định thi hành kỷ luật ông Lê Viết Chữ bằng hình thức cảnh cáo, Ủy ban Kiểm tra Trung ương quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với ông Trần Ngọc Căng do những sai phạm mà hai vị cán bộ này gây ra. Những vi phạm, khuyết điểm liên quan đến việc cho chủ trương, quyết định điều động, bổ nhiệm, luân chuyển và giới thiệu cán bộ ứng cử; cử cán bộ, công chức, sinh viên tốt nghiệp đại học của tỉnh đi công tác, học tập ở nước ngoài không đúng tiêu chuẩn. Cùng đó là ra chủ trương đầu tư một số dự án lớn từ nguồn vốn ngoài ngân sách, cho thuê đất và giao đất cho doanh nghiệp không qua đấu giá quyền sử dụng đất; ký văn bản về chủ trương bổ sung

dự án vào danh mục dự án đầu tư công trung hạn để hỗ trợ dự án đầu tư của doanh nghiệp, chủ trương tăng vốn điều lệ, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp, tạm ứng trước ngân sách nhà nước để thực hiện dự án.

Trách nhiệm chính về các vi phạm, khuyết điểm trên thuộc về Bí thư Tỉnh ủy Lê Viết Chữ. Ngoài ra, ông Chữ phải chịu trách nhiệm cá nhân khi ký văn bản và trực tiếp chỉ đạo giải quyết các kiến nghị của doanh nghiệp không đúng thẩm quyền Ban Thường vụ, Thường trực, Bí thư Tỉnh uỷ... Thế nhưng, kỳ lạ ở chỗ, vẫn có không ít ý kiến hoan nghênh, khen ngợi hành động viết đơn từ chức của các vị cán bộ này.

Theo Đại tá, PGS, TS Đỗ Duy Môn, Khoa Tâm lý học quân sự, Học viện Chính trị [Bộ Quốc phòng], sở dĩ xã hội vẫn có sự tán dương là bởi dù gì đi nữa thì những cán bộ kia vẫn còn đủ can đảm để viết đơn xin từ chức khi biết mình có lỗi trước tổ chức và nhân dân. Điều này khác xa với nhiều cán bộ, đảng viên dẫu có vi phạm kỷ luật nghiêm trọng, dẫu chịu nhiều điều tiếng xã hội, nhưng vẫn chọn cách im lặng né tránh dư luận, rồi tìm mọi cách cố thủ, cốt để tại vị.

Lâu nay không ít quan niệm cho rằng chức vụ do cấp thẩm quyền quyết định và bổ nhiệm hoặc giới thiệu ra ứng cử. Cá nhân liên quan xem chuyện đề bạt lên hay xuống, cho nghỉ việc hay từ chức là trách nhiệm cấp trên, bản thân không có quyền từ chức.

Cũng có nhiều người ngay cả khi vi phạm pháp luật, mất uy tín và không còn phù hợp để đảm nhận vị trí đó nữa, vẫn không chủ động hoặc tự giác xin từ chức. Thậm chí, có những trường hợp cán bộ bị kỷ luật nặng cũng không muốn áp dụng hình thức từ chức mà thay vào đó là được cho thôi nhiệm vụ vì "lý do sức khỏe" hoặc "lý do cá nhân". Vì vậy, vẫn còn nhiều tranh cãi trong việc công nhận trường hợp xin từ chức của ông Lê Viết Chữ có phải một biểu hiện của văn hóa từ chức hay không vì dù có chủ động đệ đơn từ chức đối với chức vụ nhưng

Để từ chức trở thành việc bình thường của cán bộ, hình thành văn hóa từ chức thì rất cần sự vào cuộc của các cấp ủy, tổ chức, cơ quan, đơn vị trong khuyến khích, động viên, bảo vệ danh dự, nhân phẩm cho cán bộ từ chức trong mọi tình huống. Khuyến khích cán bộ từ chức vì lợi ích chung chính là sự động viên của tổ chức, sự sẻ chia của cấp trên và đồng nghiệp, đồng chí, đồng đội, là tâm lý chấp nhận một cách tích cực sự việc từ chức của cán bộ trong cộng đồng xã hội. Phải tạo ra một môi trường lành mạnh, không hằn học, phỉ báng, hoài nghi cán bộ từ chức. Thậm chí, cần có cơ chế tưởng thưởng về vật chất một cách xứng đáng, khi cán bộ từ chức vì lợi ích chung.

Thể hiện rõ tinh thần này, Quy định số 41 - QĐ/TW của Bộ Chính trị [Quy định 41] nêu rõ: “Cán bộ sau khi từ chức nếu có nguyện vọng tiếp tục công tác thì cấp có thẩm quyền có thể căn cứ vào năng lực, đạo đức, kinh nghiệm để xem xét, bố trí công tác phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; cán bộ đã từ chức và bố trí công tác khác, nếu được cấp có thẩm quyền đánh giá tốt, bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện và khắc phục được những yếu kém, sai phạm, khuyết điểm thì có thể được xem xét để quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử theo quy định”.

Điểm mới này của Quy định 41 thể hiện sâu sắc sự nhân văn của Đảng là không định kiến, không đóng sập vĩnh viễn mọi cánh cửa đối với những người đã nhìn ra khuyết điểm và nỗ lực khắc phục yếu kém để một lần nữa đủ điều kiện được xem xét, đưa vào diện quy hoạch, bổ nhiệm.

Bảo vệ cán bộ từ chức có nghĩa là đối với những người từ chức vì sai lầm, trách nhiệm, liên đới trách nhiệm thì pháp luật cần có chính sách khoan hồng, giảm nhẹ; dư luận xã hội cần đồng thuận sẻ chia, ủng hộ để mở đường cho họ tìm lại chính mình, sửa chữa khuyết điểm, sai trái theo hướng tích cực.

Đối với những cá nhân từ chức vì lợi ích chung, vì sự phát triển của thế hệ kế cận, kế tiếp thì tôn vinh, tuyên truyền rộng rãi ở tất cả các cấp để tạo sức mạnh nêu gương trong toàn Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội.

2. Nguyên nhân sự hạn chế của VHTC trong HTCT Việt Nam hiện nay:

2.3. Dư luận xã hội chưa hiểu đúng về VHTC:

Văn hóa từ chức không còn là điều gì bất ngờ, xa lạ với các quốc gia ở nước ngoài, đặc biệt là những nước phát triển. Thậm chí, người ta còn khuyến khích những vị lãnh đạo tự nhìn nhận bản thân và từ chức nếu cảm thấy không có khả năng đảm nhiệm hoặc không giữ được uy tín, tín nhiệm của nhân dân. Một số trưởng hợp cụ thể như Cựu Thủ tướng Ý Giueseppe Conte, hay Thủ tướng Áo Sebastian Kurz đều đã có quyết định như vậy. Thế nhưng, tại Việt Nam dư luận vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa của việc tự nguyện từ chức. Vì vậy những trường hợp chủ động từ chức sẽ bị coi là bị ép buộc từ chức, năng lực yếu kém hay bị tổ chức chèn ép,... Dưới con mắt của dư luận xã hội, việc từ chức sẽ không được công nhận là xuất phát từ sự tự nguyện mà bị coi như kết quả của những mâu thuẫn trong chính trị.

2.3. Chức vụ đi đôi với quyền lợi và lợi ích:

Không thể phủ nhận những lợi ích mà một người có được khi đang nắm giữ chức vụ cao trong hệ thống chính trị so với một người bình thường. Lợi ích đó có thể là bổng lộc, của cải vật chất, những mối quan hệ hay là những thỏa thuận không chính thức. Tại Việt Nam, cơ chế và trình độ quản lý vẫn còn lỏng lẻo, việc lợi dụng chức quyền để thu lợi về cho bản thân rất khó kiểm soát và dễ dẫn tới sự tha hóa quyền lực, thiếu minh bạch trong các hoạt động chính trị. Mỗi người trong cuộc sống đều sẽ muốn chạm tới những nấc thang mới về quyền

Chủ Đề