Anh chí có đông ý với quan điểm công danh của Nguyễn Công Trứ trong bài thơ hay không vì sao

Nguyễn Công Trứ [1778 - 1859], tên tục là Củng, tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, quê làng Uy Viễn [nay thuộc địa phận xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh]. Vốn là người thông minh, hiếu học song sau nhiều lần thi trượt, phải đến năm Kỷ Mão [1819], khi đã ngoài bốn mươi tuổi, ông mới thi đậu Giải nguyên và được bổ đi làm quan.

Con người tài năng lỗi lạc

Nguyễn Công Trứ là con người lắm tài, nhiều tật. Cái tài của ông bộc lộ qua việc ông được thăng thưởng, trọng dùng, từng trị nhậm khắp vùng Hải Dương - Quảng Yên, Sơn - Hưng - Tuyên cho đến xứ An Giang - Hà Tiên, từng góp công khai khẩn đất hoang hóa ở các vùng Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Quảng Yên...; hoặc có khi làm việc ở Quốc sử quán và chủ khảo trường thi, có khi lại làm việc ở Bộ Binh, Bộ Hình và trực tiếp tham gia chiến trận.

Còn cái "tật" thực chất chính là tài năng, bản lĩnh và cốt cách con người ông có nhiều mặt không chịu dung hòa với quy phạm lễ giáo phong kiến, thường xuyên tiềm tàng vượt lên "vòng cương toả", "vòng danh lợi"...

 Khu di tích đền thờ Nguyễn Công Trứ - Kim Sơn, Ninh Bình.

Cái việc từng được thăng thưởng đến chức Tổng đốc, Tham tri, rồi có lúc lại bị "trảm giam hậu" và bị cách chức, bắt làm lính thú lên trấn ở biên thùy Quảng Ngãi; qua hai mươi tám năm làm quan bị giáng chức và cách chức tới năm lần đủ thấy bản lĩnh con người cá nhân Nguyễn Công Trứ cao cường đến như thế nào!

Nguyễn Công Trứ là người đam mê nhập cuộc, sống hết mình với phận vị, công việc. Ông nhiệt thành dấn thân bằng hành động, bằng kinh nghiệm trường đời và kết quả cụ thể chứ không phải ở sự thuyết lý tư tưởng và lời tụng ca thánh đế, vương triều chung chung. Thậm chí có thể nói ông đã tạo lập những cách hình dung mới về "chí nam nhi" - những con người của thời đại mới biết tự tin đánh cược sự nghiệp vào chính tài năng của bản thân mình.

Đặt trong chiều hướng phát triển chung của trào lưu nhân đạo đương thời càng thấy rõ Nguyễn Công Trứ không chịu sống khép mình trong quy phạm nghĩa vụ, chức năng, phận vị mà đã vươn tới ý thức sâu sắc về cá nhân, về quyền được bày tỏ chí hướng và ca vui giữa cuộc đời trần thế. Tất cả những điều đó tạo nên hình ảnh một Nguyễn Công Trứ ngất ngưởng, thị tài và đa tình, vừa sắc nét vừa đa diện.

Danh là thước đo hành động

Với ông, cái danh không phải là thứ để trang trí và cũng không quá bận tâm về chuyện danh phận, danh lợi và cũng không cần cân đo, biện thuyết nhiều về sự "chính danh", "danh chính ngôn thuận". Bởi lẽ nếu ông biết cân nhắc, tính toán lợi hại theo lẽ phải thông thường thì đã không đi chệch qũy đạo quan phương, không bị giáng chức, trách cứ, dồn đẩy nhiều đến thế...

Với ông, chữ danh thực chất là thước đo tài năng và chí hướng hành động, khả năng dấn thân, nhập cuộc và đó mới là điều quan trọng nhất. Nhưng muốn có danh, muốn nhập cuộc thì trước hết phải có tài. Mà Nguyễn Công Trứ thì thừa tài! Người có tài thì có chí hướng, chí nguyện. Ngay từ khi còn chưa đỗ đạt, Nguyễn Công Trứ đã tỏ rõ chí hướng trong "Tự vịnh đi thi": Đã không há lẽ trở về không/Cái nợ cầm thư phải trả xong/Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt/Đà đem thân thế hẹn tang bồng/Đã mang tiếng ở trong trời đất/Phải có danh gì với núi sông/Trong cuộc trần ai, ai dễ biết/Rồi ra mới biết mặt anh hùng.

Ngay ở quan niệm về "cái nghèo" của Nguyễn Công Trứ cũng thể hiện ông có cái nhìn khác người. Khác với những Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm trước đây thường gắn cái nghèo với đạo lý, phẩm chất thanh sạch, lối sống thanh cao; và cũng có phần khác Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương sau này thường chịu trận trong cái nghèo, hòa nhập với cái nghèo, bỡn cợt "vị nghệ thuật" với cái nghèo thì Nguyễn Công Trứ lại nhấn mạnh cái nghèo của nhà nho, cái nghèo có chí hướng và tâm thức mở đường, "vượt thoát" cái nghèo, đọc "Vịnh cảnh nghèo": Số khá, bĩ rồi thời lại thái/Cơ thường, đông hết hẳn sang xuân/Trời đâu riêng khó cho ta mãi/Vinh nhục dù ai cũng một lần. Ngay đến bài Hàn nho phong vị phú được coi là đỉnh cao của dòng thơ viết về cái nghèo và cũng là một đỉnh cao nghệ thuật phú Nôm thì ngoài việc tả thực muôn mặt cái nghèo, hài hước hóa cái nghèo, Nguyễn Công Trứ vẫn soi gương kim cổ mà an ủi, đối sánh, kỳ vọng được như những danh nhân quán quân nghèo với tên tuổi những Phó Duyệt, Bách Lý Hề, Hàn Tín, Trần Bình, Chu Mãi Thần...

Tuy nhiên, vẫn có thể khẳng định rằng cái cách ông nhìn đời và than nghèo không phải là sự cùng cực bần hàn mà chính là tâm sự của bậc quan sang, quyền thế, "có một bà chính thất họ Đặng, 12 người vợ lẽ, có 12 người con trai và 14 người con gái". Trên tổng thể, ông vờ chấp nhận một thực tại bất như ý, giả đò chấp nhận làm kẻ bề trên bất phùng thời, thậm chí là bậc "quân tử", người "anh hùng", kẻ sĩ cùng đường mạt vận, xem bài "Tự thuật I": ... Mang danh tài sắc cho nên nợ/Quen thói phong lưu hoá phải vay/Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt/Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay.

Trên tất cả, ông khẳng định con đường công danh, ý thức giá trị cuộc sống làm người phải gắn với công danh qua nhan đề các bài thơ giàu sắc thái biểu cảm như Quân tử cố cùng, Đường công danh, Nợ công danh, Nợ nam nhi, Nợ tang bồng, Chí Nam nhi...

Bao nhiêu kiếp con người thường than nỗi nợ tiền, nợ gạo, riêng ông lo gánh nợ công danh, nợ chí nam nhi tang bồng hồ thỉ! Ông luôn ý thức mình là kẻ "Muộn thành đạt" nên càng nung nấu khát vọng công danh, phổ quát hóa thành đích đến của muôn người: Tang bồng là cái nợ/Làm tài trai chi sợ áng công danh.

Chí làm trai

Trong suốt cuộc đời dấn thân hành đạo, Nguyễn Công Trứ thường xuyên ý thức về chí làm trai, việc lập công danh và tự khẳng định sức mạnh con người cá nhân: Làm cho rõ tu mi nam tử/Trong vũ trụ đã đành phận sự/Phải có danh gì với núi sông [Chí nam nhi]; hay: Cũng có lúc mưa tuôn sóng vỗ/Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong/Chí những toan xẻ núi lấp sông/Làm nên tiếng anh hùng đâu đây tỏ [Chí làm trai].

Rõ ràng ở đây Nguyễn Công Trứ đã vượt lên cuộc đời thường và đặt nguyện ước trong tương quan với thế giới tự nhiên, vũ trụ, núi sông; với sức mạnh của những "mưa tuôn sóng vỗ", "cuồng phong", "xẻ núi lấp sông"... Cách sống có phần quyết liệt, cách cảm nhận có phần bộc trực, cách nói có phần khoa trương - dường như đó cũng là khí chất con người miền Trung "địa linh nhân kiệt" - in rõ dấu ấn rõ nét trong cá tính và chất giọng thơ ca Nguyễn Công Trứ, khiến ông trở thành nhân vật tiêu biểu nhất cho kiểu nhà Nho chơi ngông, thị tài và đa tình.

Kể từ ngày thi đỗ và ra làm quan, Nguyễn Công Trứ có điều kiện đi nhiều, trải nghiệm nhiều. Có thể hình dung tất cả các trang đời của Nguyễn Công Trứ đều đầy ắp sự kiện, đầy ắp chí hướng và niềm vui dấn thân hành đạo: chuyện đi học, đi thi, làm quan; chuyện bị cách chức, đổi ngạch, đổi ngạch, thuyên chuyển, rồi những chuyện thơ phú, chuyện tình tang dì Ba, dì Tư, dì Chín; chuyện Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì...

Việc nào ông cũng tận tâm một cách say mê, đam mê đến nơi đến chốn. Đối với lý tưởng "tu, tề, trị, bình", ông đã gắng gỏi hết sức, luôn luôn chú trọng nhập cuộc đời sống hiện thực bằng tất cả năng lực và chí nguyện mà không quá so đo, tính toán điều lợi hại.

Ví như ông biết khuôn phép, biết giữ lời, biết kìm nén; thậm chí thêm một chút xuôi chiều, xu phụ thì con đường hoạn lộ của ông đâu đến nỗi ba chìm bảy nổi. Vậy mà trước sau ông vẫn giữ nguyên cái tư chất đầy bản lĩnh, đầy tự tin và cũng đầy năng lượng quyết đoán. Điều này bộc lộ rõ ngay cả khi khi đã tròn tám mươi tuổi, lúc nghe tin quân Pháp đánh vào cửa biển Đà Nẵng [1858], ông vẫn dâng sớ lên nhà vua, tha thiết xin được tòng quân đánh giặc: "Dù tôi như cái màn, cái lọng rách cũng không nỡ tự nản chí. Còn chút hơi thở nào xin lên đường ngay".

Nguyễn Công Trứ đã làm bản giao kèo với tạo hóa, vũ trụ, giang sơn và cõi trần ai về nguyện ước công danh: Vũ trụ giai ngô phận sự/ Chẳng công danh chi đứng giữa trần gian [Nợ tang bồng].

PHẦN 1:


1. Nguyễn Công Trứ tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hy Văn, sinh ngày 01 tháng 11 năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39, tức ngày 19 tháng 12 năm 1778; người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Cha là Nguyễn Công Tấn, đậu cử nhân năm hai mươi bốn tuổi, làm giáo thụ phủ Anh Sơn, Nghệ An, sau thăng làm tri huyện Quỳnh Côi, rồi tri phủ Tiên Hưng, Thái Bình. Khi quân đội Tây Sơn ra Bắc chiếm Thăng Long, Nguyễn Công Tấn xướng nghĩa cần vương chống lại, không thành, ông đưa gia đình về quê mở trường dạy học. Nguyễn Huệ mấy lần mời ra làm quan, ông đều từ chối.


Mẹ Nguyễn Công Trứ là con gái quan quản Nội thị Cảnh Nhạc bá, họ Nguyễn, người xã Phụng Dực, huyện Thượng Phúc, tỉnh Sơn Nam [nay thuộc Hà Nội]. Gia đình Nguyễn Công Trứ có sáu anh em, ba trai, ba gái, có một bà rất thông minh, giỏi thơ văn, người đương thời gọi là Năng văn nữ sĩ. Năm mười chín tuổi, chồng chết, bà nhất định không chịu tái giá, bỏ nhà đi tu, được Minh Mệnh ban cho danh hiệu “Trinh tiết khả phong”.


Nguyễn Công Trứ từ bé đã sống trong cảnh nghèo khổ. Khi nhà Nguyễn đang tích cực củng cố địa vị thống trị của mình, xã hội có vẻ ổn định, Nguyễn Công trứ hăm hở đi học đi thi. Năm 1819, ông thi đậu Giải nguyên và được bổ đi làm quan. Bấy giờ ông đã bốn mươi mốt tuổi.


Năm 1820 Nguyễn Công Trứ giữ chức Hành tẩu ở Quốc sử quán. Sau đó ông liên tiếp giữ các chức Tri huyện Đường Hào, Hải Dương [1823], Tư nghiệp Quốc tử Giám [năm 1824], Phủ thừa phủ Thừa Thiên [1825], Tham tán quân vụ, rồi thăng Thị lang Bộ hình [năm 1826]. Năm 1828, ông được thăng Hữu tham tri Bộ hình, sung chức Dinh điền sứ, chuyên coi việc khai khẩn đất hoang. Năm 1832, ông được bổ chức Bố Chánh sứ Hải Dương, cùng năm thăng Tham tri Bộ binh, giữ chức Tổng đốc tỉnh Hải An... Sau nhiều thăng giáng, năm 1845 Nguyễn Công Trứ làm Chủ sự Bộ hình, năm sau làm quyền Án sát Quảng Ngãi, rồi đổi ra làm Phủ thừa Phủ Thừa thiên, rồi năm 1847 ông thăng làm Phủ doãn phủ ấy. Cũng năm này, ông tròn bảy mươi tuổi ta, Nguyễn Công Trứ xin về hưu, nhưng Thiệu Trị không cho. Năm 1848, Tự Đức nguyên niên, ông được về hưu hẳn.


Trong một câu đối làm khoảng cuối đời, Nguyễn Công Trứ tổng kết cuộc đời mình:


“Cũng may thay công đăng hoả có là bao, theo đòi nhờ phận lại nhờ duyên, quan trong năm bảy thứ, quan ngoài tám chín phen, nào cờ nào quạt, nào mão nào đai, nào hèo hoa gươm bạc, nào võng tía dù xanh, mặt tài tình trong hội kiếm cung, khắp trời Nam bể Bắc cũng tung hoành, mùi thế trải qua ngần ấy đủ; Thôi quyết hẳn cuộc phong trần chi nữa tá, ngất ngưởng chẳng tiên mà chẳng tục, hầu gái một vài cô, hầu trai năm bảy cậu, này cờ này kiệu, này rượu này thơ, này đàn ngọt hát hay, này chè chuyên chén mẫu, tay thao lược ngoài vòng cương toả, lấy gió mát trăng trong làm tri thức, tuổi trời ít nữa ấy là hơn”.


2. Cuộc đời Nguyễn Công Trứ là cuộc đời của một người say mê hoạt động. Lúc nào trong tâm khảm nhà thơ cũng hằn lên một câu hỏi lớn:


“Đã mang tiếng ở trong trời đất,

Phải có danh gì với núi sông”.


Năm 1803, khi còn là thư sinh, Nguyễn Công Trứ đã dâng lên nhà vua Gia Long bản “ Thái Bình thập sách”, một cương lĩnh trị nước:


“Giữ lòng trung ái,

Chăm đạo dâu con,

Phát triển nông trang,

Trừ bỏ dị đoan,

Sửa đổi phong tục,

Thanh thải tham tàn,

Tiến cử tài đức,

Giữ nghiêm luật lệ”.


Về sau, khi đỗ đạt, ra làm quan, “đem quách cả sở tồn làm sở dụng”, Nguyễn Công Trứ lao vào công việc một cách hăng say, không hề quản ngại gian lao, vất vả.

Trong cuộc đời làm quan của mình, Nguyễn Công Trứ đã làm hai việc đáng chú ý hơn cả là khai hoang và giúp triều đình “an dân”.

Về “an dân”, Nguyễn Công Trứ có công làm yên những cuộc khởi nghĩa nông dân của Phan Bá Vành ở Nam Định, của Nùng Văn Vân ở Tuyên Quang, của Lê Duy Phương ở Thanh Hoá, hay cuộc tiễu phạt ở Quảng Yên... Nguyễn Công Trứ hết sức chăm lo cho cuộc sống đói nghèo của nông dân. Ông đề nghị “đặt nhà học” cho con em nhân dân được học hành... “đặt xã thương” ở các làng để quản lý thóc gạo, “khi nào giá cao thì bán, giá hạ thì mua, gặp lúc thuỷ hạn bất thường, đem thóc chiếu cấp cho từng người, năm nào được mùa sẽ theo số đã cấp thu lại để chứa trữ” [Sớ nói về năm quy ước trong làng; năm 1829]. Ông tố cáo “cái hại cường hào làm cho đến nỗi con mất cha, vợ mất chồng, tính mệnh phải thiệt hại, tài sản phải sạch không” và đề nghị triều đình “trị tội rất nặng” [Sớ nói về tệ cường hào; năm 1828], v.v...


Trong những việc ông làm, có ích lợi thiết thực và to lớn cho nhân dân hơn cả là công cuộc khẩn hoang. Ông tấu xin nhà nước cấp tiền gạo để chiêu tập dân nghèo khai khẩn. Ông hướng dẫn nông dân khai phá một vùng đất đai rộng lớn ven biển thuộc các tỉnh Ninh Bình và Thái Bình, lập nên hai huyện Tiền Hải và Kim Sơn. Ông chỉ huy việc khai khẩn vùng đất ven bờ biển tỉnh Quảng Yên, Hải Dương... Nhân dân các vùng khai hoang rất biết ơn ông. Họ lập đền thờ ông ngay khi ông còn sống. Trong đền kỷ niệm công cuộc dinh điền ở làng Đông Quách, huyện Tiền Hải, Thái Bình, có câu đối về công lao của ông rất cảm động:


“Đặc địa sinh từ, Đông Ấp nhất bách niên kỷ niệm,

Kình thiên trụ thạch, Hồng Sơn thiên vạn cổ tề cao”


[Trên đất dựng sinh từ, làng Đông Ấp trăm năm kỷ niệm,

Giữa trời trơ cột đá, ngọn Hồng Sơn muôn thủa sánh cao]


Nguyễn  Công Trứ là một ông quan rất thanh liêm, chính trực. Thuở bé nghèo xác, lớn lên thi đỗ, làm quan, về già Nguyễn Công Trứ vẫn sống đạm bạc. ĐẠI NAM THỰC LỤC CHÍNH BIÊN ghi lại câu chuyện Nguyễn Công Trứ không chịu nhận tiền hối lộ của Phạm Nguyên Trung, Ngô Huy Phác, bắt giải cả hai người cùng tang vật sang Nam Định để xét xử về tội đi hối lộ. Thời gian làm Dinh điền sứ, ông nhận tiền gạo của nhà nước cấp cho dân nghèo làm vốn, số dư thừa Nguyễn Công Trứ đều đem nộp lại cho công khố. Cuối đời, Nguyễn Công Trứ còn làm một việc rất cảm động. Năm 1858, khi nghe tin Pháp đánh Đà Nẵng, ông đã tám mươi tuổi, nhà thơ vẫn dâng sớ lên vua, tha thiết xin được tòng quân đánh giặc: “ Dù tôi như cái màn, cái lọng rách cũng không nỡ tự nản chí. Còn chút hơi thở nào xin lên đường ngay”. Nguyễn Công Trứ mất ngày 14 tháng 11 năm Tự Đức thứ 12. Ông thọ 81 tuổi.


Suốt cuộc đời bốn phần năm thế kỷ của mình, Nguyễn Công Trứ đã làm nhiều việc, thâm tâm ông bao giờ cũng đinh ninh rằng việc mình làm là “vì dân vì nước”:


“ Một mình để vì dân vì nước,

Túi kinh luân, từ trước để nghìn sau...”


Phần II:


Nguyễn Công Trứ là nhà thơ có một vị trí đáng kể trong văn học Việt Nam. Thơ văn của ông mang màu sắc thời đại rõ rệt. Nhìn tổng quát thơ văn Nguyễn Công Trứ tập trung vào ba chủ đề chính:

 1. Những bài thơ xoay quanh chí nam nhi.

 2. Những bài thơ xoay quanh cảnh nghèo và thế thái nhân tình.

 3. Những bài thơ xoay quanh triết lý hưởng lạc.


1.    1. Chí nam nhi:


Đây chính là lý tưởng sống của nhà thơ Nguyễn Công Trứ khi còn đầu xanh tuổi trẻ. Nói về sự tồn tại của mình trong cuộc đời, Nguyễn Công Trứ viết:


“Thiên phú ngô, địa tái ngô

Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý”


Con người sinh ra là sự “ hữu ý” của trời đất. Nguyễn Công Trứ không thể “tiêu lưng ba vạn sáu” được. Ông đặt vấn đề sống ở đời phải làm việc có ích:


“ Đã mang tiếng ở trong trời đất,

Phái có danh gì với núi sông”


Nguyễn Công Trứ hay nói đến công danh:


“ Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái,

Cái công danh là cái nợ lần”.

.v.v...


Quan niệm của ông sống trong xã hội phải chiếm lấy một địa vị để...làm việc “trí quân trạch dân”; công danh trong Nguyễn Công Trứ thường gắn liền quan niệm trung hiếu, quân thân:


“Đường trung hiếu, chữ quân thân là gánh vác”.

Trong bài thơ LUẬN KẺ SỸ ông nói rõ.

“ Đem quách cả sở tồn làm sở dụng,

Trong lăng miếu ra tài lương đống.

Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương,

Sĩ làm cho bách thế lưu phương,

Trước là sĩ sau là khanh tướng”


Nguyễn Công Trứ đằng sau ý thức về bổn phận, vai trò cá nhân cũng được đề cao:


“ Cũng có lúc mưa tuôn sóng vỗ,

Chí những toan xẻ núi lấp sông

Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ”


Nguyễn Công Trứ cũng là một hồn thơ lạc quan, bay bổng. Sống trong hoàn cảnh nghèo khổ đến cay đắng mà ông vẫn tin tưởng:


“ Còn trời, còn đất, còn non nước,

Có lẽ đâu ta mãi thế này”


Đi thi nhiều lần không đậu, ông vẫn không một chút bi quan, chán nản:


“ Đã từng tắm gội ơn mưa móc,

Cũng phải xênh xang hội gió mây.

Hãy quyết phen này xem thử đã,

Song còn tuổi trẻ chịu đâu ngay.”

Ông tự tin ở mình, tự động viên: “Có tầng gian hiểm mình càng trí”. Ông viết lời châm ngôn: “Hữu chí sự cánh thành”.

Ưu điểm trong quan niệm chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ là nó khẳng định một cách dứt khoát vai trò tích cực của con người trong xã hội. Những vần thơ đầy lạc quan tin tưởng của nhà thơ vang lên trong không khí xã hội triều Nguyễn, cho dù có hạn chế như thế nào, nó vẫn có ý nghĩa.


2. Cuộc sống nghèo khổ và thế thái nhân tình


Nguyễn Công Trứ là một người theo tinh thần Nho giáo tích cực, một ông quan thanh liêm, rất chú ý đến vấn đề nhân sinh và xã hội. Văn Thơ Nguyễn Công Trứ có ghi lại tình cảnh nghèo khổ của bản thân ông, cũng như của những nho sỹ đương thời:


“ Kìa ai, bốn vách tường mo, ba gian nhà cỏ,

Đầu kèo mọt tạc vẻ sao, trước cửa nhện giăng màn gió.

Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng

Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.

Đầu giường tre mối dũi quanh co,

Góc tường đất trùn lên lố nhố,

Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,

Hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó,

Trong cũi lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu,

Đầu giàn chuột lóc khua niêu, buồn thôi lại bỏ.

Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, quân tử ăn chẳng cần no,

Đêm năm canh an giấc ngáy kho kho,

đời thái bình cổng thường bỏ ngỏ...”

[Hàn Nho phong vị phú]


Có lúc nhiều chua chát:


“ Nói phô nghe cũng giỏi trai,

Vì nỗi không tiền hoá dở ngài ”


Hay:


“ Nợ có chết ai đâu, đòi mà chi, trả mà chi, cha cóc!

Trời để tao sống mãi, tiền cũng có, bạc cũng có, mẹ bò ”


Trong cái nhìn khỏe khoắn, Nguyễn Công Trứ không muốn nói nhiều đến cái xấu, cái tiêu cực. Ông giải thích “người giỏi thường nghèo” hay “ vốn hễ anh hùng mới có nghèo ”. Nhưng thiện chí của nhà thơ không được bù đắp lại, cuộc sống tàn bạo của xã hội vẫn liên tiếp tấn công ông, và phải mất một thời gian, nhà thơ mới nhìn ra được cái “thế thái nhân tình” của thời buổi ấy. Cảm xúc của nhà thơ về chủ đề này thấm đượm cái sâu sắc của một con người từng trải. Ông thấm thía tình cảnh của những người lép vế trong xã hội:


“ Ăn ở sao cho trải sự đời

Vừa lòng cũng khó há rằng chơi.

Nghe như chọc ruột tai làm điếc,

Giận đã căm gan miệng mỉm cười ”

Ông thấy rõ đạo đức của bọn giàu có.

“ Khôn khéo chẳng qua thằng có của,

Yêu vì đâu đến đứa không nhà ”...


Quan lại trong triều cũng bất tài, hại người:


“Tuổi tác càng già càng xốp xáp,

Ruột gan chẳng có có gai chông.”


Ông nhận thức thế thái nhân tình qua nhận thức về vai trò của đồng tiền, nó là thước đo mọi giá trị tình cảm, quan hệ, đánh đổ cả nhân nghĩa:


“ Tiền tài hai chữ son khuyên ngược,

Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi ”.


Trong bài VỊNH TIỀN, nhà thơ hình dung ra đồng tiền như tóm thâu cả trời đất:


“ Đủ vuông tròn tượng đất tượng trời,

Khẳm hoạ phúc nguy yên tử hoạt ”


Tác hại của đồng tiền ghê gớm:


“... Đương om sòm chớp giật sấm ran,

Nghe xóc xách lại gió hoà mưa ngọt...”


Tiếng thơ của Nguyễn Công Trứ về đề tài này có yếu tố nhân dân.


Phần III:


Thơ Nguyễn Công Trứ đi cùng sự nghiệp kinh bang tế thế của ông. Nhà thơ có nói:


“ Dở dang với rượu khôn từ chén

Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời”

Nhưng thực thì thơ Nguyễn Công Trứ nhiều câu đến mộc mạc, nôm na mà vẫn gây xúc động ...“ Trong thơ văn Nguyễn Công Trứ có một cái gì chưa từng có trong văn chương Việt Nam - một nguồn cảm hứng mau lẹ, quả quyết như một đội cảm tử. Cái thể ca trù nhờ phép thần của Nguyễn Công Trứ đã trở nên một thể cách hoàn toàn Việt Nam, rất thích hợp với những sự diễn xuất hùng mạnh... Tôi nhớ như có lần ông Huỳnh Thúc Kháng ví cái điệu thơ ấy với thuỷ triều, thật không phải là một lời nói vu vơ...” [Nhà thơ Lưu Trọng Lư].

Trong lịch sử văn học dân tộc, hiếm có một nhà thơ nào như Nguyễn Công Trứ vừa viết được những câu hát nói hào hùng:


“ Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc,

Nợ tang bồng vay trả trả vay.

Chí làm trai nam bắc đông tây

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể ”


Đồng thời cũng viết được những câu hết sức khoan thai, có âm hưởng réo rắt:


“ Người ỷ ca réo rắt khúc cung thương,

Tiếng tiêu lẫn tiếng ca vang đáy nước.

Sực nhớ kẻ quày ngọn giáo vịnh câu thơ thuở trước,

Nghĩ sự đời mà cám nỗi phù du.”


Nhiều bài thơ của ông dường như được cấu tạo bằng thành nhữ, tục ngữ, và nhà thơ cũng tư duy theo cách tư duy của thành ngữ, tục ngữ:


“ Một lưng, một vốc, kém chi mô,

Mới biết chanh chua khế cũng chua;

Đã chắc bữa trưa chừa bữa tối,

Mà tham con diếc tiếc con rô...”


Đặc biệt trong bài Hàn Nho Phong vị Phú, những yếu tố ngôn ngữ nhân dân được nhà thơ sử dụng một cách tổng hợp hết sức linh hoạt.


Nguyễn Công Trứ là nhân vật kiệt xuất của Việt Nam thời kỳ cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX

Tin này, chưa cập nhật nội dung để máy đọc. Mời bạn quay lại sau.

Video liên quan

Chủ Đề