Ảnh hưởng của dân số nước ta đến phát triển kinh tế - xã hội và môi trường như thế nào

Số 6 - 2018

DÂN SỐ VỚI PHÁT TRIỂN- NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

01/06/2018

Xem cỡ chữ
Việt Nam xác định, phát triển bền vững là mục tiêu chiến lược của quốc gia. Để đạt được mục tiêu này, trọng tâm của chính sách dân số cần phải thay đổi thích ứng với bối cảnh phát triển mới, như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển việc làm có giá trị cao để tận dụng cơ cấu “dân số vàng”; phát triển hệ thống giáo dục và y tế phù hợp với cơ cấu dân số thay đổi mạnh mẽ; dân số già và an sinh xã hội; mất cân bằng giới tính khi sinh và hệ lụy; di dân và chất lượng cuộc sống... Nói cách khác, yếu tố dân số cần phải được giải quyết trong mối quan hệ chặt chẽ với phát triển bền vững, vì dân số vừa là động lực tạo ra phát triển, vừa là đối tượng thụ hưởng sự phát triển để kiến tạo xã hội phát triển ở trình độ cao hơn. Việc chuyển đổi trọng tâm của chính sách dân số, từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển đã được triển khai thực hiện trong thời gian qua và thu được thành quả đáng ghi nhận, tuy nhiên cần tiếp tục đẩy mạnh trên các khía cạnh chủ yếu sau đây:

Bổ sung, điều chỉnh hệ thống pháp luật về dân số

Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký tham gia Công ước về “xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ” [ký ngày 29/7/1980, phê chuẩn ngày 19/3/1982]. Điểm e, khoản 1, điều 16 của Công ước này ghi rõ: “Quyền tự do và trách nhiệm như nhau khi quyết định về số con, khoảng cách giữa các lần sinh và có quyền tiếp cận thông tin, giáo dục và các biện pháp để thực hiện những quyền này”. Năm 1994, tại Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển, tại Cai-rô [Ai Cập] Việt Nam cũng ký “Chương trình hành động Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển”. Điều 12 Hiến pháp [sửa đổi, năm 2013] ghi rõ: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên…”. Trong những năm gần đây, hàng chục vạn người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài. Con số này sẽ tăng lên trong quá trình hội nhập, do đó cần rà soát, bổ sung, điều chỉnh hệ thống pháp luật về dân số phù hợp Hiến pháp sửa đổi năm 2013 và luật pháp quốc tế.

Lồng ghép biến dân số vào kế hoạch hóa phát triển

Quy mô, cơ cấu phân bố dân số đã và đang có xu hướng biến đổi nhanh. Để bảo đảm nguyên tắc con người là trung tâm của phát triển, để kế hoạch có tính thực tiễn, hiệu quả cao thì phải tiến hành dự báo dân số và tính đến yếu tố dân số trong kế hoạch hóa phát triển. Trong đó, trọng tâm là kế hoạch hóa lao động - việc làm, tận dụng cơ cấu “dân số vàng”, kế hoạch hóa giáo dục và đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và kế hoạch hóa y tế, đặc biệt chú ý đến cơ cấu dân số theo tuổi biến đổi nhanh. Đồng thời cần xây dựng hệ thống số liệu dân số đầy đủ, tin cậy và dự báo dân số. Do dân số biến đổi nhanh và phức tạp, như di dân, việc xây dựng hệ thống số liệu dân số đầy đủ, kịp thời, chính xác và dự báo đáng tin cậy là cơ sở không thể thiếu cho việc lồng ghép biến dân số vào kế hoạch phát triển

Thông tin, giáo dục, truyền thông về dân số và phát triển

Những vấn đề dân số và phát triển, như: [1] Cơ cấu dân số thay đổi nhanh và đã hình thành cơ cấu “dân số vàng”, [2] Già hóa dân số, [3] Mất cân bằng giới tính khi sinh, [4] Di dân, đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ, yêu cầu tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân, [5] Tác động kinh tế - xã hội trong thời kỳ mức sinh thấp, gia đình nhỏ, gia đình hạt nhân vv..là những vấn đề mới xuất hiện ở Việt Nam. Vì vậy, cần được thông tin, giáo dục, tuyên truyền không chỉ cho người dân mà đặc biệt cần thiết đối với cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị và các nhà hoạch định chính sách, lãnh đạo và quản lý các cấp, các ngành.

Bên cạnh đó, một số vấn đề được nêu trong Chương trình hành động tại Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển [năm 1994, Cai-rô, Ai Cập] cần tiếp tục được nghiên cứu và dự báo để có sự thích ứng phù hợp trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. Cụ thể là một số vấn đề sau:

Đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia có dân số lớn

Một trong những mục tiêu hàng đầu của Tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc [năm 2003] là xóa bỏ tình trạng nghèo và đói cùng cực của con người thì an ninh lương thực của Việt Nam hiện đang được bảo đảm. Tuy nhiên, trong tương lai, Việt Nam cũng đứng trước những thách thức như diện tích đất trồng lúa bình quân đầu người vào loại thấp nhất trên thế giới nhưng do phải tiến hành công nghiệp hóa nên diện tích đất trồng lúa giảm mạnh. Theo tổ chức Liên hợp quốc tại Việt Nam, trong 30 năm tới, Việt Nam là một trong 30 quốc gia “có nguy cơ cực lớn” do các tác động của biến đổi khí hậu. Do đó, 5,3% tổng diện tích đất cả nước có thể bị ngập lụt, trong khi dân số vẫn tiếp tục tăng, sẽ đạt khoảng 100 triệu vào năm 2025 và gần 110 triệu vào giữa thế kỷ XXI. Tổng cầu về lương thực ngày càng lớn, trong khi đó tổng cung bị đe dọa bởi thu hẹp diện tích, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, dịch bệnh.

Trong thời kỳ “dân số vàng”, mức sinh thấp, do đó, ở phạm vi hộ gia đình, số con của mỗi cặp vợ chồng ít và trên phạm vi toàn quốc, áp lực dân số lên hệ thống giáo dục phổ thông quốc gia giảm mạnh: quy mô dân số độ tuổi đi học [từ 5 - 24 tuổi] đã giảm, từ hơn 33,2 triệu người năm 1999 xuống còn khoảng triệu 29,5 triệu năm 2013. Kết quả này tạo thuận lợi to lớn cho gia đình và xã hội trong việc chăm sóc sức khỏe, giáo dục, đào tạo cho thế hệ trẻ, thể hiện ở các thành tựu sau: Tỷ lệ nhập học tăng lên, chất lượng giáo dục được nâng cao, tỷ lệ nữ đi học đã tăng lên, ngang bằng với nam giới, góp phần nâng cao vị thế phụ nữ và thực hiện tốt bình đẳng giới. Điều này sẽ tạo điều kiện để phụ nữ tham gia hoạt động kinh tế nhiều hơn và chất lượng cuộc sống cao hơn.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết việc làm

Đặc điểm nổi bật của dân số trong giai đoạn cơ cấu “dân số vàng” là cả số lượng và tỷ lệ dân số có khả năng lao động [từ 15 - 64 tuổi] tăng lên trong 20 năm [1999 - 2019]. Đến năm 2019, tỷ lệ này đạt cực đại, chiếm tới gần 70% tổng dân số. Năm 2013, Việt Nam có 90 triệu dân. Nếu tỷ lệ người trong độ tuổi lao động như năm 1979, tức là chỉ có 52,7% thì chỉ có 47,0 triệu lao động, thực tế là 62,1 triệu, tăng hơn 15 triệu người hay gần 30% so với số liệu giả định. Đây là dư lợi lớn của “dân số vàng” cho tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, khoảng nửa dân số trong độ tuổi lao động dưới 34 tuổi, thuận lợi cho việc tiếp thu khoa học, kỹ thuật và linh hoạt trong chuyển đổi ngành, nghề.Tuy nhiên, lao động đông và tăng nhanh cũng tạo ra thách thức về: [1] Việc làm [2] Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật cho hàng chục triệu lao động, đặc biệt là khi tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật [bằng sơ cấp trở lên] hiện còn rất thấp và mất cân đối.

Xây dựng xã hội thích ứng với dân số già

Tổng điều tra Dân số năm 2009 cho thấy: 72,5% người cao tuổi sống ở nông thôn. Trong số người cao tuổi, chỉ có khoảng 16% - 17% hưởng lương hưu hoặc mất sức, hơn 10% các cụ hưởng trợ cấp người có công với nước. Như vậy, còn trên 70% người cao tuổi hiện nay sống bằng lao động của mình, bằng nguồn hỗ trợ của con cháu và gia đình. Trong khi đó, ở nông thôn ruộng đất ít, năng suất, thu nhập thấp, ít có tiết kiệm phòng khi bất trắc.

Theo Điều tra quốc gia về người cao tuổi năm 2011 có tới 56% người cao tuổi có sức khỏe yếu và rất yếu; trung bình mỗi người 2,7 bệnh. Trong bối cảnh con ít và con cái di cư, sống xa cha mẹ, việc chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi càng trở thành vấn đề lớn. Bên cạnh đó, sự khác biệt thế hệ là rất lớn. Nếu không giải quyết tốt sẽ nảy sinh mâu thuẫn và xung đột thế hệ. Tuy nhiên, sự chuẩn bị cho một xã hội có dân số già dường như còn đơn sơ cả về phương diện chính sách, luật pháp, cơ sở vật chất, kỹ thuật và tâm lý xã hội.

Giải quyết vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh

Sự mất cân bằng giới tính ở trẻ sơ sinh thuộc loại mất cân bằng vật chất - nền tảng của sự tồn tại và phát triển bền vững của xã hội, tất yếu sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy, như khó khăn trong việc kết hôn; nguy cơ lan rộng các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, do “thừa” nam, “thiếu” nữ nên nam giới không thể kết hôn hoặc kết hôn muộn, vì vậy, tình trạng quan hệ tình dục ngoài hôn nhân tăng lên, mại dâm khó kiểm soát, du lịch tình dục phát triển; gia tăng tội phạm xã hội do khan hiếm phụ nữ nên xảy ra nạn lừa đảo, bắt cóc, buôn bán phụ nữ, mại dâm,... Hoặc phụ nữ có thể bị ép buộc sinh thêm con, phá thai nhi gái, bất chấp sức khỏe và tính mạng, bị ngược đãi, phụ tình, ruồng bỏ khi không sinh được con trai.

Nâng cao chất lượng cuộc sống của người di cư

Người di cư có đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế ở nơi đến, xóa đói, giảm nghèo ở nơi đi nhưng họ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, như khó khăn về nhà ở. Nhu cầu nhà ở của dòng người nhập cư rất lớn. Năm 2009, cả nước có gần 1,8 triệu sinh viên, vượt quá khả năng cung cấp chỗ ở của các khu ký túc xá. Bên cạnh đó, hàng triệu lao động nhập cư được thu hút vào các khu công nghiệp và trên 90% số này phải thuê nhà trọ, chỉ khoảng 5% - 7% là được sống trong các nhà ở do doanh nghiệp xây dựng đàng hoàng, sạch đẹp. Số người đăng ký hộ khẩu nơi này, cư trú nơi khác ngày càng lớn. Đối với người di cư chỉ có đăng ký tạm trú, không có hộ khẩu sẽ gặp khó khăn, bởi hiện nay trong tổng số 676 văn bản có liên quan đến Luật Cư trú được các bộ, ngành và địa phương rà soát, trong đó xác định có 110 văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ cho phù hợp với những quy định mới của Luật Cư trú, 154 văn bản hết hiệu lực thi hành từ thời điểm Luật Cư trú có hiệu lực. Như vậy, nếu sửa đổi được 110 văn bản và bãi bỏ được 154 văn bản hết hiệu lực thì vẫn còn hàng trăm văn bản liên quan đến Luật Cư trú. Vì thế, những người không hộ khẩu sẽ gặp khó khăn về nhà ở, học tập, học nghề, chữa bệnh và các giao dịch dân sự khác.
Nâng cao chất lượng dân số và chất lượng dân số đầu đời

Theo Pháp lệnh Dân số năm 2003, “chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số”. Còn trong các văn bản của Đảng và Nhà nước thì thường sử dụng “chỉ số phát triển con người” [Human Development Index - HDI] như là thước đo về chất lượng dân số.

Chất lượng dân số của nước ta thông qua thước đo HDI đã không ngừng tăng qua các năm: từ 0,463 năm 1980 đã đạt 0,629 vào năm 2010 và được xếp vào mức trung bình. Tuy nhiên, so với thế giới, HDI của Việt Nam, năm 2010 xếp thứ 113 trong số 169 nước so sánh.

Việc chuyển trọng tâm chính sách từ dân số-kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển là hướng đi phù hợp với sự biến đổi của thực tế xã hội. Nhìn nhận được những vấn đề đặt ra trong giai đoạn chuyển đổi này sẽ giúp quá trình chuyển đổi đạt được những thành công mới.

Nguyễn Nguyên Hồng

Các tin khác

  • KINH TẾ XANH TẠO 24 TRIỆU VIỆC LÀM MỚI
  • CÓ BAO NHIÊU NGƯỜI ĐÃ TỪNG SỐNG TRÊN TRÁI ĐẤT?
  • HỘI NGHỊ BỘ TRƯỞNG PHỤ NỮ ASEAN LẦN THỨ 3: AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM GÁI, HƯỚNG TỚI TẦM NHÌN ASEAN 2025
  • VAI TRÒ CỦA NGƯỜI CAO TUỔI TRONG GIA ĐÌNH Ở VÙNG VEN ĐÔ HÀ NỘI
  • CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI CAO TUỔI VIỆT NAM

  • Tạp chí DS&PT năm 2018
    • TC DS&PT 2018 - Số 1
    • TC DS&PT 2018 - Số 2
    • TC DS&PT 2018 - Số 3
    • TC DS&PT 2018 - Số 4
    • TC DS&PT 2018 - Số 5
    • TC DS&PT 2018 - Số 6
    • TC DS&PT 2018 - Số 7
    • TC DS&PT 2018 - Số 8
    • TC DS&PT 2018 - Số 9
  • Tạp chí DS&PT năm 2019
    • TC DS&PT 2019 - Số 1
    • TC DS&PT 2019 - Số 2
    • TC DS&PT 2019 - Số 3
    • TC DS&PT 2019 - Số 4
    • TC DS&PT 2019 - Số 5

Ảnh hưởng của môi trường đến chất lượng dân số

Thứ ba - 07/09/2010 12:15
Bất kỳ một người nào sinh ra và lớn lên đều chịu những tác động của môi trường, được gọi là môi trường sống. Sự tác động của môi trường đến cuộc sống con người là rất lớn, nó ảnh hưởng đến sức khỏe, tuổi thọ, giống nòi,… cũng như đến trí tuệ và tinh thần của con người - đây là những chỉ tiêu của chất lượng dân số.
Chất lượng môi trường và chất lượng dân số có mối quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Như chúng ta đã biết nơi nào có điều kiện môi trường tự nhiên thuận lợi như khí hậu ấm áp, địa hình bằng phẳng, không khí trong lành… sẽ có ảnh hưởng tích cực đến khả năng và chất lượng sinh sản, đến tuổi thọ của con người, con người mắc ít bệnh tật hơn, giảm mức chết xuống thấp. Bên cạnh đó, con người được sống trong môi trường xã hội tích cực, lành mạnh cũng sẽ góp phần làm tăng nhận thức, tăng trí tuệ và đời sống văn hóa tinh thần được nâng cao. Khi con người có nhận thức cao, đời sống được đảm bảo thì ý thức của người dân về bảo vệ môi trường cũng tốt hơn. Do đó, chất lượng môi trường cũng được cải thiện.

Như vậy, sự tác động của môi trường đến chất lượng dân số là rất quan trọng. Nhưng sự tác động này không chỉ giới hạn một chiều mà còn có sự tác động ngược lại, tác động hai chiều giữa hai yếu tố trên. Chất lượng môi trường đảm bảo sẽ làm tăng chất lượng dân số, ngược lại, chất lượng dân số cao sẽ là điều kiện để chất lượng môi trường được phát triển.

Đất có vai trò rất lớn đối với con người nhưng trong tình hình hiện nay, đất đang bị ô nhiễm trầm trọng, tác động xấu đến con người cả về mặt thể lực, trí lực và tinh thần. Ô nhiễm môi trường đất là hậu quả của các hoạt động của con người làm thay đổi các nhân tố sinh thái, vượt qua những giới hạn sinh thái của các quần xã sinh vật sống trong đất. Sự ô nhiễm là do nhiều yếu tố khác nhau: do các chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp, nông nghiệp; các tác nhân hóa học như phân bón, thuốc trừ sâu…; các tác nhân sinh học như trực khuẩn lỵ, thương hàn, ký sinh trùng…; tác nhân vật lý như nhiệt độ, chất phóng xạ… Các chất thải trên chưa qua xử lý đã được đổ trực tiếp xuống đất, gây ô nhiễm nguồn đất.

Một yếu tố quan trọng có tác động đến chất lượng dân số là diện tích đất sản xuất nông nghiệp [SXNN] hiện nay: diện tích đất SXNN của nước ta trải qua nhiều giai đoạn và biến động, hiện nay một thực trạng đang diễn ra gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân nói riêng và chất lượng dân số nói chung là việc thu hồi đất nông nghiệp để làm khu công nghiệp [KCN]. Theo báo cáo của Chính phủ, đến cuối năm 2005, cả nước có 130 KCN và khu chế xuất với tổng diện tích 26.520 ha do Chính phủ quyết định thành lập. Ngoài ra còn có trên 200 cụm công nghiệp do UBND các tỉnh thành lập với tổng diện tích 13.991 ha và trên 10.000 ha đất các khu kinh doanh tập trung khác. Điều đáng nói, một số KCN được thành lập trên nền đất “bờ xôi, ruộng mật” của người nông dân, và sau khi bị thu hồi lại bị bỏ hoang. Trong khi đó, bị mất đất nông nghiệp, một bộ phận không nhỏ nông dân đã bị đẩy vào tình trạng nghèo đói và rơi vào các tệ nạn xã hội. Đây chính là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dân số hiện nay.

Nước cũng là một thành phần không thể thiếu cho hoạt động sống của con người. Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm nguồn nước đang ở mức báo động nghiêm trọng. Sự phát triển nhanh chóng các hoạt động công nghiệp, dịch vụ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với quá trình đô thị hóa và gia tăng dân số đòi hỏi nhu cầu dùng nước ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng, tạo ra một sức ép lớn với nguồn nước này. Bên cạnh đó công tác quản lý còn nhiều bất cập trong việc thăm dò, khai thác không có sự quy hoạch, kế hoạch gây tổn hại đến nguồn nước. Ô nhiễm nước ảnh hưởng rấtlớn đến sức khỏe cũng như kinh tế của con người. Mà nguyên nhân chính lại từ con người gây ra do sự thiếu ý thức, trách nhiệm, lợi ích trước mắt của bản thân mà quên đi ảnh hưởng lâu dài của nó.

Như chúng ta đều biết, không khí vô cùng cần thiết trong duy trì sự sống của con người. Chúng ta có thể nhịn ăn, nhịn uống, trong thời gian dài [nhiều ngày] nhưng không thể nhịn thở dù chỉ trong vài phút. Một bầu không khí trong sạch luôn là điều kiện tốt cho sức khỏe, cho cuộc sống của con người. Nhưng hiện nay, bầu không khí đang dần bị biến đổi thành phần, tăng nhiều hơn những chất độc hại và khói bụi - ô nhiễm không khí đang trở thành vấn đề nóng bỏng không chỉ của riêng một quốc gia mà là vấn đề chung của thế giới. Sự tác động tiêu cực đó làm cho sức khỏe con người, tuổi thọ trung bình giảm, bệnh tật gia tăng, suy thoái giống nòi… làm cho chất lượng con người không đảm bảo, chất lượng dân số suy giảm.

Rừng là một tài nguyên tự nhiên vô cùng quý giá đối với con người. Chưa kể đến tính kinh tế cao, trên hết, rừng có tác dụng về mặt tự nhiên rất lớn, có tác dụng điều hòa không khí, thanh lọc không khí, mang lại bầu khí trong lành cho cuộc sống. Rừng được ví như là “lá phổi xanh” của Trái Đất. Ngoài ra, rừng còn có tác dụng giữ đất, chống xói mòn đất, điều hòa lượng mưa và ngăn chặn lũ lụt xảy ra. Nhưng hiện nay, do chỉ tính đến lợi ích kinh tế mà diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp lại. Những hành động phá hoại rừng như chặt phá, khi thác rừng bừa bãi, đốt rừng làm nương rẫy… chưa được kiểm soát chặt chẽ. Diện tích đất rừng che phủ cũng là một chỉ báo biểu hiện chất lượng dân số như thế nào. Có thể, đây là một yếu tố gián tiếp tác động đến chất lượng dân số, vì lợi ích vô tận của rừng không biểu hiện ra ngay trước mắt chúng ta, nó thể hiện lâu dài trong cả cuộc sống mới thấy được hết lợi ích to lớn đó. Và ngược lại, công tác bảo vệ, phát triển rừng để nâng cao diện tích che phủ là một biểu hiện của nâng cao chất lượng dân số, ý thức của người dân, nhận thức của người dân về tác dụng to lớn mà rừng mang lại được nâng cao và trở thành hành động.

Nền kinh tế càng phát triển, các nhà máy, xí nghiệp càng được mở rộng và không ngừng thải các chất hóa học ra ngoài môi trường. Thêm vào đó là rác thải sinh hoạt của dân cư càng làm cho môi trường tự nhiên của con người bị ô nhiễm một cách mạnh mẽ ảnh hưởng lớn tới thể trạng sức khỏe của con người. Mỗi năm chúng ta thải ra hàng trăm nghìn tấn rác thải bao gồm cả chất thải tự nhiên và chất thải hóa học làm cho môi trường sống của chúng ta bị ô nhiễm vô cùng nặng nề gây ảnh hưởng lớn tới tình trạng sức khỏe. Rất nhiều bệnh tật mới xuất hiện như: ung thư, H5N1, các loại dịch bệnh tả, khuẩn mà virut luôn biến đổi gen kháng thuốc…..

Trước đây, nhà vệ sinh chưa trở thành vấn đề quan tâm của đại bộ phận người dân, nhất là người dân ở nông thôn và vùng núi. Nhưng gần đây, do ý thức được tác hại của việc xây dựng nhà vệ sinh không đúng quy cách, thậm chí không có nhà vệ sinh là nguy cơ của nhiều bệnh dịch [đặc biệt là dịch tả] nên người dân đã có ý thức hơn về tầm quan trọng và sự cần thiết phải có một nhà vệ sinh an toàn, hợp lý. Tỷ lệ gia đình có hố xí tự hoại và bán tự hoại tăng nhanh đột biến, không chỉ ở thành thị mà đặc biệt ở nông thôn ý thức người dân được nâng lên - một biểu hiện quan trọng của chất lượng dân số. Đồng thời, nó ngăn chặn được sự phát sinh của nhiều dịch bệnh cho con người, trong đó đặc biệt là dịch tả, đảm bảo sức khỏe an toàn cho con người.

Từ những thực trạng môi trường và ảnh hưởng của nó đến cuộc sống người dân chúng ta thấy rằng, môi trường có tác động rất lớn và trực tiếp đến chất lượng dân số. Chất lượng môi trường và chất lượng dân số có mối quan hệ biện chứng với nhau. Chất lượng môi trường là cơ sở cho chất lượng dân số, còn chất lượng dân số là tiền đề cho chất lượng môi trường.

Vì thế, chúng ta cần có những biện pháp bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng môi trường để nâng cao chất lượng dân số. Con người vẫn là nguyên nhân chủ quan chính yếu của mọi vấn đề nảy sinh trong xã hội. Vì thế, trong bất cứ giải quyết vấn đề nào thì việc tác động đến ý thức người dân là điều đầu tiên cần phải thực hiện. chất lượng môi trường có tác động trực tiếp đến tác động dân số, chất lượng dân số ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội.

Tác giả bài viết: Nguyễn Thị Hồng Lợi - Phòng TN và MT TX.Phú Thọ

Biến đổi khí hậu và tác động của biến đổi khí hậu

[ĐCSVN] - Biến đổi khí hậu mà biểu hiện chính là sự nóng lên toàn cầu và mực nước biển dâng đã tạo nên các hiện tượng thời tiết cực đoan hiện nay. Đây là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ XXI vì biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh thái, tài nguyên môi trường và cuộc sống của con người
Hiện tượng băng tan do sự ấm lên của trái đất [ảnh minh họa]

Thế nào là biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu là thuật ngữ được dùng để chỉ sự thay đổi của khí hậu do tác động chủ yếu của con người làm thay đổi các thành phần của khí quyển trái đất. Sự thay đổi này kết hợp với các yếu tố biến động tự nhiên của tự nhiên dẫn tới các biến đổi của khí hậu qua các thời kỳ. Nói một cách dễ hiểu, biến đổi khí hậu chính là sự thay đổi của hệ thống khí hậu từ sinh quyển, khí quyển, thủy quyền tới thạch quyển trong hiện tại và tương lai.

Nguyên nhân của biến đổi khí hậu

Tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu xuất phát từ 2 nhóm là nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.

Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, những tác động của con người vào môi trường tự nhiên chính là nguyên do gây nên biến đổi khí hậu. Theo đó, việc gia tăng khí CO2 do hoạt động sản xuất công nghiệp, phá rừng, sử dụng nguồn nước cũng như các loại khí độc hại khác là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên.

Bên cạnh đó, các yếu tố khách quan trong đó có sự thay đổi trong chính nội tại của tự nhiên bao gồm sự thay đổi trong hoạt động mặt trời, của quỹ đạo trái đất, sự dịch chuyển của các châu lục… cũng tác động không nhỏ gây nên tình trạng này.

Một số tác động của biến đổi khí hậu

Mực nước biển đang dâng lên

Nhiệt độ ngày càng cao trên trái đất khiến mực nước biển đang dần dâng lên. Nhiệt độ tăng làm các sông băng, biển băng hay lục địa băng trên trái đất tan chảy và làm tăng lượng nước đổ vào các biển và đại dương.

Các núi băng và sông băng đang co lại. Những lãnh nguyên bao la từng được bao phủ bởi một lớp băng vĩnh cữu rất dày giờ đây được cây cối bao phủ. Lấy một ví dụ, các núi băng ở dãy Hy Mã Lạp Sơn cung cấp nước ngọt cho sông Hằng – nguồn nước uống và canh tác của khoảng 500 triệu người – đang co lại khoảng 37m mỗi năm.

Các bờ biển đang biến mất. Bãi biển ở Miami nằm trong số rất nhiều những khu vực khác trên thế giới đang bị đe dọa bởinước biển dângngày càng cao.

Các nhà khoa học đã tiến hành quan sát, đo đạc và nhận thấy rằng băng ở đảo băng Greenland đã mất đi một số lượng lớn, gây ảnh hưởng trực tiếp đến các đảo quốc hay các quốc gia nằm ven biển. Theo ước tính, nếu băng tiếp tục tan thì nước biển sẽ dâng thêm ít nhất 6m nữa vào năm 2100. Với mức này, phần lớn các đảo của Indonesia, và nhiều thành phố ven biển khác sẽ hoàn toàn biến mất.

Các hệ sinh thái bị phá hủy

Những thay đổi trong điều kiện khí hậu và lượng khí carbon dioxide tăng nhanh chóng đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới hệ sinh thái, nguồn cung cấp nước ngọt, không khí, nhiên liệu, năng lượng sạch, thực phẩm và sức khỏe.

Dưới tác động của nhiệt độ, không khí và băng tan, số lượng các rạn san hô ngày càng có xu hướng giảm. Điều đó cho thấy, cả hệ sinh thái trên cạn và dưới nước đều đang phải hứng chịu những tác động từ lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, cũng như hiện tượng axit hóa đại dương.

Mất đa dạng sinh học

Nhiệt độ trái đất hiện nay đang làm cho các loài sinh vật biến mất hoặc có nguy cơ tuyệt chủng. Khoảng 50% các loài động thực vật sẽ đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng vào năm 2050 nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm từ 1,1 đến 6,4 độ C nữa. Sự mất mát này là do mất môi trường sống vì đất bị hoang hóa, do nạn phá rừng và do nước biển ấm lên. Các nhà sinh vật học nhận thấy đã có một số loài động vật di cư đến vùng cực để tìm môi trường sống có nhiệt độ phù hợp. Ví dụ như là loài cáo đỏ, trước đây chúng thường sống ở Bắc Mỹ thì nay đã chuyển lên vùng Bắc cực.

Con người cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng. Tình trạng đất hoang hóa và mực nước biển đang dâng lên cũng đe dọa đến nơi cư trú của chúng ta. Và khi cây cỏ và động vật bị mất đi cũng đồng nghĩa với việc nguồn lương thực, nhiên liệu và thu nhập của chúng ta cũng mất đi.

Chiến tranh và xung đột

Lương thực và nước ngọt ngày càng khan hiếm, đất đai dần biến mất nhưng dân số cứ tiếp tục tăng; đây là những yếu tố gây xung đột và chiến tranh giữa các nước và vùng lãnh thổ.

Do nhiệt độ trái đấtnóng lên và biến đổi khí hậu theo chiều hướng xấu đã dần làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Một cuộc xung đột điển hình do biến đổi khí hậu là ở Darfur. Xung đột ở đây nổ ra trong thời gian một đợt hạn hán kéo dài, suốt 20 năm vùng này chỉ có một lượng mưa nhỏ giọt và thậm chí nhiều năm không có mưa, làm nhiệt độ vì thế càng tăng cao.

Theo phân tích của các chuyên gia, các quốc gia thường xuyên bị khan hiếm nước và mùa màng thất bát thường rất bất ổn về an ninh.

Xung đột ở Darfur [Sudan] xảy ra một phần là do các căng thẳng của biến đổi khí hậu.

Dịch bệnh

Nhiệt độ ngày càng tăng kết hợp với lũ lụt và hạn hán đang trở thành mối đe dọa với sức khỏe dân số toàn cầu. Bởi đây là môi trường sống lý tưởng cho các loài muỗi, những loài ký sinh, chuột và nhiều sinh vật mang bệnh khác phát triển mạnh.

Tổ chức WHO đưa ra báo cáo rằng các dịch bệnh nguy hiểm đang lan tràn ở nhiều nơi trên thế giới hơn bao giờ hết. Những vùng trước kia có khí hậu lạnh giờ đây cũng xuất hiện các loại bệnh nhiệt đới.

Hàng năm có khoảng 150 ngàn người chết do các bệnh có liên quan đến biến đổi khí hậu, từ bệnh tim do nhiệt độ tăng quá cao, đến các vấn đề hô hấp và tiêu chảy.

Hạn hán làm cạn kiệt nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền nông nghiệp của nhiều nước [ảnh minh họa]

Hạn hán

Trong khi một số nơi trên thế giới chìm ngập trong lũ lụt triền miên thì một số nơi khác lại hứng chịu những đợt hạn hán khốc liệt kéo dài. Hạn hán làm cạn kiệt nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền nông nghiệp của nhiều nước. Hậu quả là sản lượng và nguồn cung cấp lương thực bị đe dọa, một lượng lớn dân số trêntrái đấtđang và sẽ chịu cảnh đói khát.

Hiện tại, các vùng như Ấn Độ, Pakistan, và Châu Phi đang hứng chịu những đợt hạn hán, lượng mưa ở các khu vực này ngày càng thấp, và tình trạng này còn tiếp tục kéo dài trong vài thập kỷ tới. Theo ước tính, đến năm 2020, sẽ có khoảng 75 triệu đến 250 triệu người dân châu Phi thiếu nguồn nước sinh hoạt và canh tác, dẫn đến sản lượng nông nghiệp của lục địa này sẽ giảm khoảng 50%.

Các đợt nắng nóng khủng khiếp đang diễn ra thường xuyên hơn gấp khoảng 4 lần so với trước đây, và dự đoán trong vòng 40 năm tới, mức độ thường xuyên của chúng sẽ gấp 100 lần so với hiện nay.

Hậu quả của các đợt nóng này là nguy cơ cháy rừng, các bệnh tật do nhiệt độ cao gây ra, và tất nhiên là đóng góp vào việc làm tăng nhiệt độ trung bình của trái đất.

Bão lụt

Số liệu thống kê cho thấy, chỉ trong vòng 30 năm gần đây, những cơn bão mạnh cấp 4 và cấp 5 đã tăng lên gấp đôi.

Những vùng nước ấm đã làm tăng sức mạnh cho các cơn bão. Chính mức nhiệt cao trên đại dương và trong khí quyển, đẩy tốc độ cơn bão đạt mức kinh hoàng.

Nhiệt độ nước ở các biển và đại dương ấm lên là nhân tố tiếp thêm sức mạnh cho các cơn bão. Nhữngcơn bão khốc liệt đang ngày một nhiều hơn. Trong vòng chỉ 30 năm qua, số lượng những cơn giông bão cấp độ mạnh đã tăng gần gấp đôi.

Thiệt hạiđến kinh tế

Các thiệt hại về kinh tế dobiến đổi khí hậu gâyra cũng ngày càng tăng theo nhiệt độ trái đất. Các cơn bão lớn làm mùa màng thất bát, tiêu phí nhiều tỉ đô la; ngoài ra, để khống chế dịch bệnh phát tán sau mỗi cơn bão lũ cũng cần một số tiền khổng lồ. Khí hậu càng khắc nghiệt càng làm thâm hụt các nền kinh tế.

Các tổn thất về kinh tế ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống. Người dân phải chịu cảnh giá cả thực phẩm và nhiên liệu leo thang; các chính phủ phải đối mặt với việc lợi nhuận từ các ngành du lịch và công nghiệp giảm sút đáng kể, nhu cầu thực phẩm và nước sạch của người dân sau mỗi đợt bão lũ rất cấp thiết, chi phí khổng lồ để dọn dẹp đống đổ nát sau bão lũ, và các căng thẳng về đường biên giới./.


VH [Tổng hợp]

Video liên quan

Chủ Đề