Bản Tuyên ngôn độc lập của mĩ có ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam hay không nêu có hay chúng Minh

Cách mạng 19-8-1945 thành công, với tầm nhìn sáng suốt của một nhà cách mạng từng trải, lão luyện, trong phiên họp đầu tiên của Thường vụ Trung ương Đảng sau khi trở về Hà Nội, ngày 28-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra đề nghị phải soạn thảo ngay bản Tuyên ngôn Độc lập để trình bày trước cuộc mít tinh ở Hà Nội, khi Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra mắt quốc dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” ngày 2-9-1945. Ảnh: Tư Liệu

Dự đoán, tiên tri thắng lợi cách mạng Việt Nam đang đến gần, ngay từ giữa tháng 6-1945, để chuẩn bị cho việc soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thông qua sĩ quan quân báo vụ của cơ quan tình báo chiến lược Hoa Kỳ [OSS] có cơ sở đặt tại căn cứ Việt Bắc, Người đề nghị Bộ Tư lệnh không đoàn số 14 của Mỹ đóng tại Côn Minh, Trung Quốc thả dù cho Người bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ.

Trong hai ngày 28 và 29-8-1945, Hồ Chí Minh tập trung soạn thảo bản tuyên ngôn. Ngày 30-8, Người mời một số đồng chí Thường vụ Trung ương Đảng trao đổi, góp ý kiến và sau đó Người còn mời L.A Pati - một sĩ quan tình báo Mỹ phụ trách đơn vị OSS đang cộng tác với Việt Minh và khá thân thiết với Hồ Chí Minh đến 48 Hàng Ngang để cùng trao đổi. Ngày 31-8, Người bổ sung một số điểm. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình rực rỡ cờ hoa, trước hàng vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập lịch sử.

Mở đầu bản tuyên ngôn, Người nêu những nguyên lý bất di, bất dịch về các quyền của con người, quyền của các dân tộc đã được khẳng định trong những bản tuyên ngôn nổi tiếng của nước Mỹ và nước Pháp.

Tiếp theo, Người tố cáo tội ác tày đình của thực dân Pháp về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa... trong đó có tội trong 5 năm chúng đã 2 lần bán nước ta cho Nhật, từ đó nói rõ cho thế giới và phe đồng minh biết: “Sự thật là Nhân dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp”. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ lập nên chế độ dân chủ, cộng hòa”.

Kết luận tuyên ngôn, thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, trịnh trọng tuyên bố với thế giới “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên của nước Việt Nam mới, công bố sự thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mà sự ra đời đó là kết quả của quá trình hơn 80 năm đấu tranh kiên cường, bất khuất, đầy anh dũng hy sinh của bao thế hệ người Việt Nam.

Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử, có giá trị về nhiều mặt chính trị, tư tưởng, pháp lý, văn hóa, đã khẳng định Nhân dân Việt Nam trước thế giới cơ sở pháp lý về quyền được hưởng tự do độc lập của dân tộc Việt Nam, đồng thời qua đó đóng góp vào sự phát triển nền pháp lý dân chủ và tiến bộ của loài người trong thời đại ngày nay.

Có được bản Tuyên ngôn Độc lập, theo Hồ Chí Minh tiểu sử do NXB Chính trị Quốc gia ấn hành năm 2010 [tr35]: “Tuyên ngôn Độc lập là kết tinh của bao nhiêu tác phẩm trước đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ Yêu sách của Nhân dân An Nam mà Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxây năm 1919, đến Chương trình Việt Minh 1941 và những văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng”. Theo Trần Dân Tiên trong tác phẩm “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” thì Tuyên ngôn Độc lập “là kết quả của những bản tuyên ngôn khác, của các cụ tiền bối như các cụ Nguyễn Khoa Huân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu và của nhiều người khác, của bao nhiêu sách báo, truyền đơn bí mật viết bằng máu và nước mắt của những nhà yêu nước từ hơn 80 năm nay”, “là hoa, là quả của máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những con người anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong những trại tập trung, trên những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường”, “là kết quả của bao nhiêu hy vọng gắng sức và tin tưởng của hơn 20 triệu Nhân dân Việt Nam”, là một trang vẻ vang trong lịch sử Việt Nam, nó chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế và chế độ thực dân áp bức, bóc lột, nó mở ra một kỷ nguyên mới dân chủ, cộng hòa.

Như vậy rõ ràng, đối với Nhân dân Việt Nam, Tuyên ngôn Độc lập 1945 là một áng văn lập quốc vĩ đại, là bản anh hùng ca mới đầu kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở nước ta, là một văn kiện lịch sử có giá trị về nhiều mặt: Chính trị, pháp lý, văn hóa, tư tưởng... đồng thời là tác phẩm chính luận lớn, có một không hai về giá trị ngôn từ và văn học, xứng đáng được xếp vào hàng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc và nhân loại tiến bộ.

Trong bối cảnh quốc tế và Việt Nam sau thế chiến thứ 2, khi mà trật tự pháp lý quốc tế chỉ nhằm phục vụ quyền lợi ích kỷ của các nước lớn tư bản, đế quốc, Tuyên ngôn Độc lập chính là lời tuyên bố cáo chung của chế độ thuộc địa dưới mọi hình thức, đồng thời là lời báo hiệu mở đầu thời đại vùng lên của các dân tộc thuộc địa, đứng lên làm chủ vận mệnh của mình, minh chứng cho một tư tưởng lớn, bao trùm cho mọi hoạt động “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Đó là cống hiến vô cùng to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào văn hóa chính trị và văn hóa pháp lý của Nhân dân các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống lại pháp lý “ăn cướp”, pháp lý nô lệ của các thế lực xâm lược cũ và mới trong thời đại chúng ta. Nhiều nước châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh, đặc biệt các nước đã và đang là thuộc địa phụ thuộc vào các nước đế quốc, tư bản đã thừa nhận đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sự xác lập một nền công pháp quốc tế mới, một nền công pháp đảm bảo cho các quyền tự do, bình đẳng của con người và quyền tự quyết, quyền bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc trong việc lựa chọn con đường phát triển độc lập, tự do về chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước mình.

Đánh giá ý nghĩa quốc tế, ý nghĩa thời đại của Tuyên ngôn Độc lập trong lễ trao bằng tiến sĩ luật khoa danh dự cho Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1959, Giám đốc Trường Đại học Băng-đung [Indonesia] nói: “Đó là một đạo luật mới của Nhân dân thế giới khẳng định quyền tự do, độc lập, bất khả xâm phạm của các dân tộc bị áp bức”.

Báo Mainichi sinbun của Nhật, ngày 5-2-1989 nhận xét: “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra và thực tế đã để lại tư tưởng và một mẫu mực trong thời đại giải phóng thuộc địa. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện, có lẽ là sự kiện quan trọng nhất trong quá trình tan rã của chủ nghĩa thực dân sau chiến tranh thế giới II”.

Bà Lady Borton, một nhà nghiên cứu Hoa Kỳ gọi bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước Nhân dân Việt Nam và thế giới là “Cuộc cách mạng một chữ”. Theo bà, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thay một chữ thì đã cùng một lúc làm hai cuộc cách mạng: “Cách mạng giải phóng dân tộc” [đã thành công] và “Cách mạng giải phóng phụ nữ”. Ở Việt Nam, ngày 6-1-1946, chỉ 4 tháng sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, phụ nữ Việt Nam từ 18 tuổi trở lên đã được thực hiện quyền chính trị cao nhất, đó là quyền bầu cử, để bầu ra Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Còn ở Mỹ, đến năm 1930, tức là phải đến 154 năm sau [hơn một thế kỷ rưỡi] bản tuyên ngôn bất hủ năm 1776 ra đời, phụ nữ Mỹ mới được thực hiện quyền chính trị đó.

Một số nhà nghiên cứu trên thế giới sau khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt câu hỏi: Vì sao Hồ Chí Minh lại trích dẫn hai bản tuyên ngôn của hai quốc gia Âu, Mỹ, trong đó có cả nước Pháp mới đây đô hộ nước mình? Hoàn toàn không phải là sách lược để ứng phó với hai cường quốc lớn, tiềm tàng những mưu đồ thực dân cũ và mới. Việc sử dụng những trích dẫn ấy là Chủ tịch của Nhà nước Việt Nam độc lập muốn khẳng định rõ ràng trước thế giới rằng: Cách mạng Việt Nam là sự nối tiếp của con đường tiến hóa của nhân loại đã và sẽ đi. Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 là những mốc son của sự nghiệp giải phóng con người, thì Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam chính là bước đi tiếp theo của quá trình giải phóng con người.

Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh do Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp tổ chức vào tối ngày 14-5-2010 và 20 năm UNESCO công nhận Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, Phó Tổng giám đốc UNESCO phát biểu đánh giá về Tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt đánh giá về bản Tuyên ngôn Độc lập của Người: “Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng chính những từ được trích dẫn trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Quan điểm của Người đã nói trước được điều mà 15 năm sau, vào năm 1960, Liên hợp quốc đã đưa vào Tuyên bố trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa. Đó chính là thực hiện Hiến chương Liên hợp quốc.

Chu Mã Giang

    Bản Tuyên ngôn Độc lập đã thể hiện mạnh mẽ ý chí và khát vọng của dân tộc Việt Nam "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ."

    Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố với toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa [nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam].

    Bản Tuyên ngôn đã thể hiện mạnh mẽ ý chí và khát vọng của dân tộc Việt Nam “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ."

    Trải qua 75 năm, Tuyên ngôn Độc lập vẫn mang tính thời sự sâu sắc cả trên bình diện trong nước và quốc tế.

Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội

    Quyền con người gắn liền với quyền dân tộc

    Tuyên ngôn Độc lập là một tác phẩm đỉnh cao, tiêu biểu, phản ánh đầy đủ nhất, sâu sắc nhất quan điểm triết học, quan điểm chính trị và cả quan điểm nhân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó chứa đựng cả những giá trị của văn minh nhân loại, những “lẽ phải không ai chối cãi được” về quyền con người, quyền dân tộc.

    Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791.

    Từ việc đề cập đến quyền của con người như một sự tất yếu của tạo hóa, không ai có thể xâm phạm được, là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng trí tuệ mẫn tiệp, bằng sự trải nghiệm thực tế và thực tiễn cách mạng Việt Nam, đã khéo léo phát triển sáng tạo, đưa ra một luận đề không thể bác bỏ về quyền của các dân tộc.

    "Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” [1].

    Người đã đi từ khái niệm con người sang khái niệm dân tộc một cách tổng quát và đầy thuyết phục, khẳng định quyền dân tộc và quyền con người có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện quyền con người và ngược lại thực hiện tốt quyền con người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc.

    Nghiên cứu về Tuyên ngôn Độc lập, giáo sư Singô Sibata [Nhật Bản] cho rằng "cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình” [2].

    Bởi vậy, có thể nói Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 không chỉ là tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn là tuyên ngôn về quyền con người, quyền của các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc. Việc nâng tầm quyền con người lên thành quyền dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một cống hiến về nguyên lý lý luận của Người vào kho tàng tư tưởng nhân quyền của nhân loại.

    "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập"

    Quyền độc lập dân tộc, quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc là những giá trị cơ bản nhất của nhân quyền. Nhưng dưới chế độ thực dân, phong kiến ở Việt Nam, những quyền đó bị tước bỏ và chà đạp.

    Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án đanh thép tội ác của thực dân Pháp “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa."

    "Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do, dân chủ nào... Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước, thương nòi. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của nhân dân trong những bể máu... Về kinh tế, chúng bóc lột công nhân, nông dân đến tận xương tủy... Chúng cướp không ruộng đất, rừng mỏ, nguyên liệu... Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho nhân dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng...” [3].

    Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam đã đứng lên đánh đuổi thực dân, phong kiến và đế quốc, giành lại độc lập, tự do và quyền con người. Như vậy, nhân quyền ở Việt Nam không phải là giá trị do ai ban phát mà là kết quả của cuộc đấu tranh trường kỳ của nhân dân Việt Nam. Cuộc đấu tranh đó đã làm cho “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa” [4].

    Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố “thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam” [5]; đồng thời nhấn mạnh, “các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam” [6].

    Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”[7].

    Với hệ thống lập luận chặt chẽ, sắc bén, lời lẽ đanh thép, đầy sức thuyết phục gói gọn trong hơn 1.000 chữ, Tuyên ngôn Độc lập là một cơ sở pháp lý vững chắc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới, đặt cơ sở cho việc thiết lập nhà nước pháp quyền ở Việt Nam với mục tiêu Độc lập-Tự do-Hạnh phúc; soi sáng con đường cách mạng Việt Nam hướng lên tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

    Mãi trường tồn với thời gian

    75 năm đã trôi qua, nhưng những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong bản Tuyên ngôn Độc lập về quyền con người, quyền dân tộc, về khát vọng và tinh thần đấu tranh kiên cường để giữ vững nền độc lập, tự do, vẫn vẹn nguyên tính thời sự, có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

    Đặc biệt, những giá trị về quyền con người do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng trong Tuyên ngôn Độc lập là những giá trị bất hủ. Từ đó đến nay, nhân dân Việt Nam đã không ngừng phấn đấu cho quyền con người và đạt được nhiều kết quả tích cực, rất quan trọng.

    Các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, đảm bảo theo Hiến pháp và luật. Với những thành tựu về việc bảo đảm quyền con người [cả trên lĩnh vực đối nội và đối ngoại], Việt Nam được bầu làm thành viên của Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc [nhiệm kỳ 2014-2016].

    Kể từ ngày bản Tuyên ngôn Độc lập ra đời đến nay, vị thế đất nước đã có nhiều đổi thay, lời thề lịch sử “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” luôn rọi sáng mọi trái tim, khối óc của người Việt Nam yêu nước trên mọi vùng, miền của Tổ quốc và định cư ở nước ngoài.

    Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập đã trở thành sức mạnh tinh thần to lớn của toàn dân tộc, giúp toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta vượt qua mọi khó khăn, giành được những thành tựu to lớn trong đấu tranh thống nhất đất nước, phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế.

    Đặc biệt, sau gần 35 năm tiến hành đổi mới, nước ta đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7%/năm, quy mô và tiềm lực của nền kinh tế không ngừng tăng lên; tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển văn hóa và công cuộc xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều kết quả tích cực; Chỉ số phát triển con người [HDI] của Việt Nam dần được cải thiện, hiện đang thuộc nhóm trung bình cao và đứng thứ 118/189 quốc gia [năm 2019]; mức sống chung của người dân từng bước được nâng lên...

    Cùng với đó, quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia trên thế giới; gia nhập và tích cực xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN; tham gia có hiệu quả các liên kết kinh tế khu vực và quốc tế trên nhiều cấp độ...

    Năm tháng sẽ qua đi, nhưng tinh thần bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn luôn sống mãi trong lòng các thế hệ người Việt Nam, không chỉ bởi giá trị lịch sử, pháp lý mà còn bởi giá trị nhân văn cao cả về quyền con người, quyền của dân tộc được sống trong độc lập, tự do như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ấp ủ và cống hiến cả cuộc đời mình để thực hiện.

    [1], [3], [4], [5], [6], [7]: trích Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011sđd, tập 4, tr. 1,2,3

    [2] : Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân thế giới, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, tr. 96.

                                                                                             TTXVN

Video liên quan

Chủ Đề