Biện pháp nào chỉ được sử dụng khi dịch tới ngưỡng gây hại mà các biện pháp khác không có hiệu quả

Trình duyệt của bạn đã tắt chức năng hỗ trợ JavaScript.Website chỉ làm việc khi bạn bật nó trở lại.

Để tham khảo cách bật JavaScript, hãy click chuột vào đây!


Lãnh đạo Chi cục Trồng trọt và BVTV kiểm tra, chỉ đạo xử lý sinh vật gây hại trên lúa ở xã Minh Tân, huyện Cẩm Khê.

[baophutho.vn] - Chương trình quản lý dịch hại tổng hợp trên cây trồng [IPM] là biện pháp phòng trừ sâu bệnh mới, có nhiều ưu việt, đang được người dân trên địa bàn tỉnh tích cực áp dụng. Phương pháp này đã và đang giúp giảm được chi phí sản xuất, giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật [BVTV] độc hại tồn dư trên sản phẩm, đảm bảo sức khỏe người lao động, an toàn vệ sinh thực phẩm, ổn định cân bằng hệ sinh thái đồng ruộng, nâng cao năng suất, chất lượng, tăng lợi nhuận trên một đơn vị canh tác.

Giảm thiểu mối nguy hại Thực hiện Đề án đẩy mạnh ứng dụng quản lý dịch hại tổng hợp [IPM] trên cây trồng giai đoạn 2015-2020 của Bộ Nông nghiệp và PTNT, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch về đẩy mạnh ứng dụng quản lý dịch hại tổng hợp [IPM] trên cây trồng giai đoạn 2016-2020 trên địa bàn tỉnh. Theo đó, Sở Nông nghiệp và PTNT đã chỉ đạo các đơn vị trong ngành, phối hợp với UBND các huyện, thành, thị tổ chức tốt công tác tuyên truyền, tập huấn, đào tạo nguồn nhân lực; lồng ghép triển khai một số mô hình IPM trên cây chè, lúa, cây ăn quả, tạo hiệu ứng tích cực để mở rộng diện tích ứng dụng IPM trên cây trồng, giảm được lượng thuốc, phân bón hóa học sử dụng.  Là một trong những người đầu tiên tham gia thực hiện mô hình IPM ở địa phương trên cây bưởi, ông Nguyễn Minh Mạch, khu Chí, xã Chí Đám, huyện Đoan Hùng chia sẻ: “Nếu như trước đây, người dân trồng bưởi phun thuốc theo định kỳ, thì nay đã biết điều tra đối tượng dịch hại, đến ngưỡng nào đó mới phun và dùng bằng chế phẩm sinh học là chủ yếu. Riêng gia đình tôi còn ủ thêm cá, đậu tương để bón cho cây, tăng sức đề kháng, mọi vật tư chăm sóc cho vườn bưởi đều được ghi tên, ngày mua, đại lý nào, dùng khi nào để theo dõi. Đến nay, vườn bưởi của gia đình đã cho thu nhập gần 150 triệu đồng/năm”.  Ông Đỗ Chí Thành - Trạm trưởng Trạm Trồng trọt và BVTV huyện Đoan Hùng cho biết: “Từ khi thực hiện kế hoạch của UBND tỉnh, huyện đã xây dựng 34 mô hình ứng dụng IPM trên cây bưởi và cây lúa với tổng số gần 300ha, trong đó chủ yếu áp dụng trên cây bưởi. Để đảm bảo cây bưởi phát triển, cho năng suất cao khi áp dụng IPM, Trạm thường xuyên tập huấn cho người dân các xã. Việc tập huấn này không chỉ ở hội nghị mà còn cầm tay chỉ việc ngay tại vườn cho nông dân, để người dân áp dụng các biện pháp sinh học như tỉa cành tạo tán, bao quả, bẫy bả…, nhờ đó đã kìm hãm mật độ sâu hại một cách đáng kể, góp phần nâng cao hiệu quả trên cây trồng”. Cùng với mô hình IPM trên cây bưởi, mô hình IPM trên cây lúa gắn với tổ dịch vụ BVTV được triển khai ở nhiều địa phương. Mô hình ở xã Phùng Nguyên, huyện Lâm Thao với quy mô liền vùng 10ha, gieo cấy cùng thời vụ trên giống lúa VNR20 và áp dụng kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến [SRI]; quản lý dịch hại theo IPM, trong đó có triển khai dịch vụ BVTV để phòng trừ sâu bệnh bằng thiết bị bay không người lái; tổ chức diệt chuột tập trung. Kết quả cho thấy, cấy theo kỹ thuật SRI, trong mô hình cây lúa nhanh bén rễ hồi xanh, đẻ nhánh sớm hơn tập quán 3 ngày, số dảnh hữu hiệu bình quân đạt 6,8 dảnh/khóm, tập quán đạt 6,2 dảnh/khóm, mức độ bị sâu bệnh thấp hơn so với tập quán. Năng suất đạt trên 230kg/sào [gần 6,3 tấn/ha], cao hơn ruộng tập quán 29kg/sào [tương đương 8,0 tạ/ha] và cho lãi cao hơn tập quán 8 triệu đồng/ha. Mô hình sử dụng thiết bị bay không người lái để phòng trừ sâu bệnh khi đến ngưỡng giúp giảm chi phí phun mà vẫn đảm bảo hiệu quả phòng trừ cao. 

Để giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, giảm hóa chất sử dụng, hướng đến quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp, trong giai đoạn 2016-2020, tỉnh đã triển khai thực hiện gần 400 mô hình ứng dụng IPM với trên 96.000 hộ tham gia. Trong đó cây lúa 159 mô hình; cây rau 26 mô hình; cây chè 24 mô hình; cây bưởi 60 mô hình; các mô hình IPM khác như: Bể chứa, diệt chuột tập trung, ngô, ổi, cây dược liệu,… 90 mô hình. Hiệu quả khi ứng dụng biện pháp IPM trong sản xuất đã góp phần giảm đáng kể lượng thuốc BVTV, nếu như năm 2015 tổng sản lượng thuốc BVTV kinh doanh buôn bán gần 120 tấn  đến năm 2020 còn trên 70 tấn. Trung bình trong giai đoạn 2016-2020, sản lượng thuốc tiêu thụ trên địa bàn tỉnh gần 90 tấn; lượng thuốc giảm trung bình hàng năm trên 9 tấn, tương ứng 9,65%. Lượng thuốc BVTV sử dụng năm 2020 giảm gần 48 tấn so với năm 2015, tương ứng 40,06%. 


Cán bộ Trạm Trồng trọt và BVTV huyện Đoan Hùng hướng dẫn người dân áp dụng các biện pháp IPM trên cây bưởi.

Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng IPM Việc áp dụng IPM trên cây trồng đã góp phần tăng tỉ lệ sử dụng phân bón hữu cơ, giảm thuốc BVTV hóa học, giảm lượng giống và nước tưới, tăng năng suất cây trồng. Người dân đã từng bước thay đổi tư duy trong sản xuất, hạn chế sử dụng phân vô cơ, giảm tồn dư hóa chất trong không khí, nguồn nước, đất đai, sản phẩm làm ra sạch, an toàn cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, do thời tiết trong vài năm gần đây có những diễn biến bất thuận cho sản xuất nông nghiệp, kèm theo đó là tình hình sinh vật gây hại cũng phát triển khiến cho công tác chỉ đạo phòng trừ khó khăn hơn. Diện tích canh tác tuy đã được dồn đổi một phần song còn nhỏ lẻ, manh mún dẫn đến khó đầu tư, áp dụng tiến bộ kỹ thuật đồng bộ và khó khăn trong quản lý, khống chế sinh vật gây hại. Nhân lực lao động cho sản xuất nông nghiệp, nhất là sản xuất lúa, rau màu có xu hướng già hóa. Đến cuối giai đoạn thực hiện, do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19, công tác chỉ đạo, tập huấn, đầu ra cho các nông sản còn gặp khó khăn. Kinh phí để thực hiện chương trình IPM còn ít, một số huyện chưa bố trí được kinh phí hàng năm cho thực hiện chương trình. Để khắc phục những khó khăn, tồn tại nêu trên, đồng thời thực hiện đảm bảo các mục tiêu ứng dụng IPM trên cây trồng, ngành Nông nghiệp và PTNT, các huyện, thành, thị tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, tập huấn cho cán bộ nông nghiệp và người sản xuất; xây dựng các mô hình quản lý dịch hại tổng hợp [IPM] gắn với thực hành nông nghiệp tốt [GAP] và dịch vụ BVTV; nhân rộng các mô hình IPM có hiệu quả trong sản xuất đại trà; phát triển các tổ dịch vụ BVTV đáp ứng với nhu cầu sản xuất; tăng cường và sử dụng hợp lý, tiếp tục lồng ghép các nguồn kinh phí từ Trung ương, địa phương. Phấn đấu đến năm 2025 có trên 90% diện tích cây chè, cây bưởi, 80-85% diện tích cây lúa, cây rau và cây chuối áp dụng chương trình IPM vào sản xuất, có từ 60-70% thuốc BVTV sinh học được sử dụng, có 60% diện tích được sử dụng phân hữu cơ, hữu cơ vi sinh, hiệu quả sản xuất tăng 10%. 

Ông Phan Văn Đạo-Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và BVTV cho biết: Chương trình quản lý dịch hại tổng hợp IPM trên cây trồng là định hướng, giải pháp phù hợp trong canh tác bền vững đã được các cấp, ngành quan tâm, được nông dân, các HTX, doanh nghiệp trong sản xuất nông nghiệp hưởng ứng, áp dụng. Thực hiện IPM đã giảm được mối nguy hại do lạm dụng hóa chất, nhất là thuốc BVTV đối với sức khỏe cộng đồng, môi trường, giảm lượng phân bón hóa học, làm môi trường sản xuất sạch và bền vững. Đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất, góp phần thực hiện chủ trương cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp bền vững.


Để thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang nền nông nghiệp mang tính bền vững cũng như có khả năng phục hồi, tái sinh tăng cường áp dụng các thực hành nông nghiệp thân thiện hơn với môi trường là một yếu tố rất quan trọng. Đối với Rainforest Alliance, Quản lý dịch hại tổng hợp [IPM] là một thành phần chính yếu của ngành nông nghiệp tái sinh, và là một phần của phương pháp tiếp cận thông minh và toàn diện ứng phó với biến đổi khí hậu vn để quản lý hệ sinh thái. Chúng tôi hướng tới mục tiêu giảm đáng kể việc sử dụng thuốc -bảo vệ thực vật bằng cách tăng cường và cân bằng các chức năng sẵn có của hệ sinh thái nông nghiệp [Hình 1].

Figure 1

Vấn đề nổi cộm

Ước tính rằng hàng năm có từ 20 đến 40% sản lượng cây trồng trên toàn cầu bị mất vì dịch hại và bệnh hại. Mỗi năm, bệnh hại cây trồng gây thiệt hại cho nền kinh tế toàn cầu khoảng 220 tỷ USD, và côn trùng gây hại khoảng 70 tỷ USD. Nhưng côn trùng, bệnh hại và cỏ dại hoàn toàn không được “sinh ra” vốn dĩ đã là dịch hại. Dịch hại là kết quả của hệ sinh thái không cân bằng, và tình trạng dịch hại của một loài phụ thuộc vào số lượng của chúng và vào thiệt hại kinh tế mà chúng có thể gây ra. Chúng cho thấy rằng có điều gì đó không ổn với hệ sinh thái nông nghiệp.

Dịch hại là mối đe dọa thường xuyên đối với nông dân, đó là lý do tại sao phản ứng đầu tiên của hầu hết các nhà sản xuất trên toàn thế giới là sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để loại bỏ dịch hại, hoặc thậm chí để làm phương pháp phòng ngừa.

Số lượng thuốc -bảo vệ thực vật được sử dụng trên toàn thế giới đã tăng gấp 50 lần kể từ năm 1950. Khoảng 3,5 tỷ kg thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng trên toàn cầu mỗi năm. Trong số các loại thuốc bảo vệ thực vật này, nhiều loại được xếp vào loại “có độc tố cao” và có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng cho sức khỏe con người và môi trường trong cả ngắn hạn và dài hạn.

Có thể làm gì để giảm sự phụ thuộc vào thuốc bảo vệ thực vật và những hậu quả tiêu cực của việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật măng lại? Một câu trả lời mang tính thiết thực và hiệu quả kinh tế chính là Quản lý dịch hại tổng hợp [IPM].

Phương pháp tiếp cận của chúng tôi

Phương pháp tiếp cận của chúng tôi dựa trên các nguyên tắc IPM và khai thác các thế mạnh vốn có trong hệ sinh thái nông nghiệp để làm giảm quần thể dịch hại xuống các ngưỡng có thể chấp nhận được, thay vì cố gắng tiêu diệt chúng. Khi lựa chọn các phương pháp kiểm soát cần phải tính đến các chi phí và lợi ích mang lại, cũng như các khía cạnh sinh thái và xã hội. Việc bảo tồn lâu dài hệ sinh thái và các lợi ích mà nó mang lại, cũng như sức khỏe con người là những ưu tiên hàng đầu.

Tất cả các sáng kiến ​​của Rainforest Alliance, bao gồm cả Chương trình Chứng nhận năm 2020, đều phù hợp với phương pháp tiếp cận này. Song song với đó, chúng tôi đã xây dựng Chiến Lược IPM, trong đó chúng tôi nhắm đến mục đích xác định các rào cản đối với việc áp dụng IPM và hỗ trợ các nhà sản xuất vượt qua những rào cản này. Chúng tôi mong muốn làm điều này thông qua việc chia sẻ kiến ​​thức về các chiến lược kiểm soát dịch hại bền vững hơn và thực hành nông nghiệp tái sinh, và bằng cách cung cấp các giải pháp thay thế để kiểm soát dịch hại phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương, thay vì chỉ đơn thuần là ban hành các danh mục các loại thuốc bảo vệ thực vật bị cấm sử dụng.

Để hiểu thêm về luận điểmcủa chúng tôi liên quan đến IPM, hãy xem Báo cáo tham luận về Quản Lý Dịch Hại Tổng Hợp.

Phương pháp tiếp cận sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong khuôn khổ Chương trình Chứng nhận 2020

Phương pháp tiếp cận sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và IPM của Rainforest Alliance bao gồm ba yếu tố chính:

Mục tiêu tổng thể

Giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và sử dụng an toàn, có trách nhiệm và hiệu quả các hóa chất nông nghiệp thông qua việc tăng cường áp dụng IPM.

Tiêu chuẩn & Phụ lục 7

Phương pháp tiếp cận được dựa trên việc áp dụng hợp lý các yêu cầu về Quản lý dịch hại tổng hợp, trong đó thuốc bảo vệ thực vật chỉ được sử dụng chỉ khi nếu không còn cách nào khác và thể hiện được xu hướng giảm sử dụng. Khi sử dụng thuốc -bảo vệ thực vật, phải thực hiện tất cả các biện pháp quản lý an toàn đối với các loại thuốc bảo vệ thực vật và các yêu cầu về sức khỏe nghề nghiệp. Chỉ những sản phẩm đã đăng ký mới được sử dụng và các thuốc trừ sâu bị cấm hoặc quá hạn không được phép sử dụng; nếu sử dụng loại thuốc bảo vệ thực vật có trong danh sách giảm thiểu rủi ro, phải thực hiện các biện pháp giảm thiểu rủi ro thích hợp.

Chính sách sử dụng ngoại lệ

Trong các trường hợp ngoại lệ, có thể cho phép sử dụng các loại thuốc trừ sâu trong Danh mục các loại thuốc bị cấm sử dụng. Được phép sử dụng trong các trường hợp ngoại lệ đối với các tổ hợp cây trồng/dịch hại và phạm vi địa lý [quốc gia hoặc một phần của quốc gia] cụ thể. Thông tin chi tiết và điều kiện của từng trường hợp ngoại lệ được nêu trong Chính sách sử dụng ngoại lệ [EUP].

Quy trình

Các mốc thời gian sau sẽ được áp dụng:

*Chúng tôi luôn sẵn sàng tiếp nhận các yêu cầu của Quí vị gửi đến

Phiên bản 1 đã được xây dựng và bao gồm các yêu cầu nhận được từ ngày 1 tháng 7 năm 2020 đến ngày 31 tháng 12 năm 2020. Phiên bản này sẽ được công bố vào tháng 6 năm 2021.

Để gửi yêu cầu chính thức, nhà sản xuất cần gửi các thông tin sau đến địa chỉ :

  • Quốc gia và Khu vực
  • Tên hoạt chất của loại thuốc bảo vệ thực vật và thông tin chi tiết về công thức điều chế
  • Tên thương phẩm đang được sử dụng
  • Cây trồng [tên thông thường và tên khoa học]
  • Các loài sinh vật gây hại sẽ được kiểm soát [tên thông thường và tên khoa học]
  • Bằng chứng cho thấy các loài sinh vật gây hại cụ thể hiện không thể được quản lý bằng các phương pháp khác đã ghi trong chiến lược IPM của nhà sản xuất [ví dụ: các phương pháp truyền thống hoặc không dùng đến hoá chất khác]
  • Bằng chứng cho thấy các biện pháp thay thế khác để kiểm soát loài sinh vật gây hại này không được chính quyền địa phương đăng kí ở quốc gia sản xuất cụ thể
  • Các biện pháp thay thế mà nhà sản xuất đang tiến hành nghiên cứu.

Mẫu đơn yêu cầu có tại Template for Requests for Exceptional Use of Pesticides [Mẫu đơn yêu cầu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cho trường hợp ngoại lệ].

Tại đây quý vị có thể xem hồ sơ các yêu cầu đã nhận được. Xin lưu ý rằng Rainforest Alliance đang kiểm tra các yêu cầu và sẽ cập nhật trạng thái của các yêu cầu đó trong những tháng tới.

Chuyển đổi từ RA EUP 2017 [Chính sách sử dụng ngoại lệ RA 2017] sang EUP 2020 [Chính sách sử dụng ngoại lệ RA 2020]

Đối với những trường hợp được cấp phép sử dụng trong Chính sách sử dụng ngoại lệ n ăm 2017 mà không được gia hạn trong Chính sách sử dụng ngoại lệ năm 2020, thì sẽ áp dụng giai đoạn loại bỏ từng bước là 1 năm.

Nguyên tắc:

  • Trong giai đoạn loại bỏ từng bước này, nhà sản xuất cần chuyển đổi sang Chính sách sử dụng ngoại lệ mới năm 2020 đồng thời sử dụng, hoặc loại bỏ các chất còn tồn kho có liên quan.
  • Trong giai đoạn loại bỏ từng bước này, nhà sản xuất có thể gửi các yêu cầu mới cho Chính sách sử dụng ngoại lệ năm 2020.
  • Bắt buộc phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu quản lý rủi ro tương ứng.

Tất cả các thông tin chi tiết khác sẽ được nêu trong Chính sách sử dụng ngoại lệ năm 2020.

Video liên quan

Chủ Đề