Chân lý là gì triết học

Chân lý là gì? Phân tích các tính chất của chân lý? Tiêu chuẩn của chân lý

1. Chân lý là gì?

Chân lýlàtrithức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh và đượcthực tiễnkiểm nghiệm.

–Chân lýlà sản phẩm của quá trình con người nhận thức thế giới. Vì vậy,chân lýcũng được hình thành và pháttriển từng bước phụ thuộc vào các yếu tố:

+ Sự pháttriển của sự vật khách quan;

+ Điều kiện lịch sử – cụ thể củanhận thức;

+ Hoạt động thực tiễn, và

+ Hoạt động nhận thức của con người.

– Như thế, do sự biến đổi của nhiều yếu tố, một “thông tin” hômnaycó thể được gọi làchân lý, nhưng thời gian về sau chưa chắc làchân lý.

Ngược lại, một “thông tin” mới phát hiện có thể chưa được công nhận làchân lý, nhưng về sau có thể được gọi làchân lý.

Như Lênin đã nhận xét: Sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể là một quá trình. Tư tưởng [= con người] không nên hìnhdungchân lýdưới dạng một sự đứng im chết cứng, một bức tranh [hình ảnh] đơn giản, nhợt nhạt [lờ mờ], không khuynh hướng, không vận động

2. Các tính chất của chân lý

Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể.

+ Tính khách quan của chân lý là nói: tính phù hợp nữa tri thức và thực tại khách quan; không phụ thuộc ý chí chủ quan.

Ví dụ, sự phù hợp giữa quan niệm “quả đất có hình cầu chứ không phải hình vuông” là phù hợp với thực tế khách quan; nó không phụ thuộc vào quan niệm truyền thống đã từng có hàng nghìn năm trước thời Phục hưng.

+ Tính cụ thể của chân lý là nói: tính có điều kiện của mỗi tri thức, phản ánh sự vật trong các điều kiện xác định không gian, thời gian, góc độ phản ánh,...].

Chân lýlà cụ thể bởi vì đối tượng màchân lýphản ánh bao giờ cũng tồn tại một cách cụ thể, trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể với những quan hệ cụ thể.

Ví dụ, mọi phát biểu định lý trong các khoa học đều kèm theo các điều kiện xác định nhằm đảm bảo tính chính xác của nó: “trong giới hạn của mặt phẳng, tổng các góc trong của một tam giác là 2 vuông; nước sôi ở 100°C với điều kiện nước nguyên chất và áp suất 1 atmotphe,...

+ Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý là nói: mỗi chân lý chỉ tuyệt đối đúng trong một giới hạn nhất dịnh, còn ngoài giới hạn đó thì nó có thể không đúng; mặt khác, mỗi chân lý, trong điều kiện xác định, nó mới chỉ phản ánh được một phần thực tại khách quan.

Ví dụ, trong giới hạn mặt phẳng [có độ cong bằng 0] thì tổng các góc trong của tam giác tuyệt đối bằng 2 vuông [tính tuyệt đối], nhưng nếu điều kiện đó thay đổi đi [có độ cong khác 0] thì định lý đó không còn đúng nữa [tính tương đối], nó cần phải được bổ sung bằng định lý mới [sự phát triển quá trình nhận thức dần tới chân lý đầy đủ hơn - tức chân lý tuyệt đối].

- Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối

Chân lý tương đối làtrithức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan nhưng chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện, cần phải được bổ sung, điều chỉnh trong quá trình pháttriển tiếp theo của nhận thức.

Ở chân lý tương đối, sự phản ánh hiện thực khách quan bị giới hạn ở những mặt, những bộ phận nhất định và bị chế ước bởi điều kiện lịch sử

Ví dụ, hai khẳng định sau đây đều là chân lý, nhưng chỉ là chân lý tương đối: [1] Bản chất của ánh sáng có đặc tính sóng; [2] Bản chất của ánh sáng có đặc tính hạt. Trên cơ sở hai chân lý đó có thể tiến tới một khẳng định đầy đủ hơn: ánh sáng mang bản chất lưỡng tính là sóng và hạt.

Chân lý tuyệt đối làtrithức hoàn toàn đầy đủ, hoàn chỉnh về thế giới khách quan.

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì theo bản chất của nó, tư duy con người có thể cung cấp và đang cung cấp cho chúng ta chân lý tuyệt đối mà chân lý này chỉ là tổng số những chân lý tương đối.

Mỗi giai đoạn pháttriển của khoa học lại đem thêm những hạt mới vào cái tổng số ấy của chân lý tuyệt đối, nhưng những giới hạn chân lý của mọi định lý khoa học đều là tương đối, khi thì mở rộng ra, khi thì thu hẹp lại, tùy theo sự tăng tiến củatrithức.

Quan hệ biện chứng giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối:

– Chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối đều là chân lý khách quan. Khi thừa nhậnchân lýlà khách quan, là sự thống nhất giữa hai cấp độ tuyệt đối và tương đối, thì điều đó cũng có nghĩachân lýlà cụ thể.

– Chân lý tương đối bao giờ cũng chứa những yếu tố là chân lý tuyệt đối. Chân lý tuyệt đối được hình thành từ các chân lý tương đối, có sự bổ sung các chân lý tương đối.

– Sự khác biệt giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối không phải ở bản chất mà là ở mức độ phù hợp của chúng với khách thể được phản ánh. Mức độhayranh giới giữa chúng bao giờ cũng tồn tại nhưng không ngừng được xóa bỏ và được xác lập.

3. Tiêu chuẩn của chân lý là thực tiễn

– Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất củachân lý. Chỉ nhờ vào thực tiễn và trên cơ sở thực tiễn ta mới phân biệt đượcchân lývà sai lầm.

– Thực tiễn có vai trò như vậy vì nó có ưu điểm của “tính phổ biến” và là hiện thực trực tiếp. Nhờ đó, thực tiễn có thể “vật chất hóa” đượctrithức, biếntrithức thành những khách thể xác định, cảm tính trong thế giới khách quan.

– Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối. Tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất. Tương đối vì thực tiễn luôn luôn biến đổi, pháttriển, do đó cần có sự bổ sung, pháttriển nhữngtrithức đã có trước đó.

 “ Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim”. [Từ ấy – Tố Hữu] Chân lý là một vấn đề hết sức trừu tượng, chung chung mà không phải ai cũng biết, cũng giải thích và nắm được. Vậy chân lý là gì là câu hỏi mà nhiều bạn đọc mong muốn tìm hiểu và giải đáp. Chân lý là gì?

Các nhà triết học có những quan điểm khác nhau về chân lý

 “ Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim”.

[Từ ấy – Tố Hữu]

Chân lý là một vấn đề hết sức trừu tượng, chung chung mà không phải ai cũng biết, cũng giải thích và nắm được. Vậy chân lý là gì là câu hỏi mà nhiều bạn đọc mong muốn tìm hiểu và giải đáp.

Các nhà triết học có những quan điểm khác nhau về chân lý và về tiêu chuẩn của chân lý. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Quan niệm về chân lý cũng có nghĩa xác định chân lý là sản phẩm của quá trình nhận thức. Nó được hình thành, phát triển dần dần từng bước và phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, vào hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người. Chân lý đều là kết quả nhận thức của con người chứ không phải là bẩm sinh.

Theo nội dung chủ nghĩa Mác – Lênin lại giải thích chân lý là gì là khái niệm chân lý dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan; sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn.

Như vậy có thể thấy chân lý là sản phẩm của quá trình con người nhận thức thế giới. Chân lý cũng được hình thành và phát triển từng bước phụ thuộc vào các yếu tố như sự phát triển của sự vật khách quan; điều kiện lịch sử – cụ thể của nhận thức;  Hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người.

Các tính chất của chân lý

Chân lý có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể.

Tính khách quan của chân lý là tính độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với ý thức của con người và loài người. Điều đó có nghĩa là nội dung của những tri thức đúng đắn không phải là sản phẩm thuần túy chủ quan, không phải là sự xác lập tùy tiện của con người hoặc có sẵn ở trong nhận thức mà nội dung đó thuộc về thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định. “Trái đất quay xung quanh mặt trời” là một chân lý.

Chân lý ấy có tính khách quan bởi vì nội dung của luận điểm đó phản ánh đúng sự kiện có thực, tồn tại độc lập đối với mọi người, không lệ thuộc vào ý thức của mỗi người. Hoặc “quả đất có hình cầu chứ không phải hình tròn” là một chân lý,  phù hợp với thực tế khách quan; nó không phụ thuộc vào quan niệm truyền thống đã từng có hàng nghìn năm trước thời Phục hưng.

Tính tuyệt đối của chân lý là tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan. Trong thế giới khách quan không tồn tại một sự vật, hiện tượng nào mà con người hoàn toàn không thể nhận thức được. Khả năng đó trong quá trình phát triển là vô hạn. Những chiếc điện thoại , ti vi … được hoàn thành dưới sự dẫn dắt của chân lý tuyệt đối chính xác.

Tính tương đối của chân lý thể hiện ở chỗ thế giới sẽ bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể của từng thế hệ khác nhau và bởi điều kiện xác định về không gian và thời gian của đối tượng được phản ánh. Ví như những chiếc điện thoại , ti vi trước khi sử dụng và ở trong kho thì chúng là tính chất của tính tương đối. Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung phản ánh của những tri thức với hiện thực khách quan.

Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, cụ thể. Bất kỳ chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử – cụ thể, cũng có tính cụ thể. Nếu thoát ly những điều kiện lịch sử cụ thể thì những tri thức được hình thành trong quá trình nhận thức sẽ rơi vào sự trừu tượng thuần túy.

Có thể thấy mỗi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể. Các tính chất đó của chân lý có quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Thiếu một trong các tính chất đó thì những tri thức đạt được trong quá trình nhận thức không thể có giá trị đối với đời sống của con người.

Với những thông tin trên đây, chúng tôi tin rằng Quý khách hàng đã phần nào nắm được nội dung Chân lý là gì. Trong trường hợp Quý khách hàng có bất cứ thắc mắc gì về bài viết cũng như vấn đề có liên quan, đừng ngần ngại liên hệ với chúng tôi để được tư vấn và hỗ trợ thực hiện.

Video liên quan

Chủ Đề