Chủ trương của đảng và thành công nổi bật của cao trào cách mạng 1936-1939

Mục lục

Những phong trào thời kỳ cách mạng dân chủ Đông Dương 1936 – 1939

Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 – 1933 làm cho mâu thuẫn giữa các nước tư bản ngày càng sâu sắc. Bọn tư bản lũng đoạn ở một số nước đế quốc thiết lập chế độ độc tài phát xít, nhằm thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng trong nước, trút gánh nặng khủng hoảng kinh tế lên vai nhân dân lao động, gây ra chiến tranh thế giới để chia lại thị trường và xâm lược Liên Xô, thành trì của cách mạng thế giới. Trước tình hình đó, Đại hội VII của Quốc tế cộng sản đã được triệu tập. Đại hội đã thông qua nghị quyết tháng 7/1935 công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là phân bộ độc lập của Quốc tế cộng sản. Căn cứ vào tình hình đó, đồng chí Lê Hồng Phong triệu tập và chủ trì hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị xác định mục tiêu trước mắt là “đấu tranh chống phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hòa bình”. Đảng chủ trương triệt để lợi dụng những khả năng hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp để tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, đồng thời củng cố và phát triển các tổ chức bí mật của Đảng. Kết hợp những hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp với hoạt động bất hợp pháp để phát triển tổ chức của Đảng và của Mặt trận dân chủ, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng.

Bọn đế quốc âm mưu dập tắt phong trào cách mạng của nước ta, trong đó có phong trào của thị xã Vĩnh Yên. Chúng đã thẳng tay đàn áp, làm cho phong trào lắng xuống một thời gian, sau đó hòa chung với cả nước, Vĩnh Yên lại bùng lên phong trào đòi tự do, cơm áo, hòa bình. Năm 1939, Mặt trận nhân dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử ở Pháp. Trong chương trình hành động của Mặt trận nhân dân Pháp, vấn đề ưu tiên nêu lên là “Đại xá tù chính trị ở các xứ thuộc địa”. Với điều kiện thuận lợi đó và do sự đấu tranh kiên quyết của tù chính trị ở các nhà lao đế quốc, nên phần lớn tù chính trị đã được trả lại tự do.

Tháng 6/1936, đồng chí Vũ Duy Cương được trả tự do đã bắt liên lạc ngay với Đảng và được cử về thị xã cùng một số đồng chí khác tiếp tục tổ chức hoạt động, xây dựng các cơ sở mới, chắp nối cơ sở cũ. Từ những cơ sở cách mạng năm 1929-1930, nay được khôi phục và bước vào hoạt động với các hình thức phong phú, đa dạng, thu hút, giác ngộ được nhiều quần chúng cách mạng, đưa phong trào ở thị xã Vĩnh Yên bước sang giai đoạn mới với hình thức đấu tranh mới. Các báo công khai như Letravai [Lao động], Tin tức, Nhành lúa, Bạn dân, Đời nay… và sách “Vấn đề dân cày” đang lưu hành tại địa phương được đem ra đọc và giảng giải ở các tổ chức sách báo. Những buổi đọc sách báo không chỉ có hội viên trong tổ chức, mà có cả quần chúng bên ngoài cùng nghe đã góp phần không nhỏ vào việc bồi dưỡng nhận thức về đường lối, chủ trương của Đảng cho hội viên và hướng dẫn đấu tranh theo các mục tiêu của Đảng đề ra.

Trong những năm 1936-1939, trên cơ sở các tổ chức cách mạng trước đây, nay đã phát triển thành nhiều hình thức tổ chức công khai hợp pháp như Hội Ái hữu, hội Tương tế, hội Học võ… lần lượt ra đời ở các làng xóm, ngõ phố trong thị xã. Hình thức đấu tranh của các tổ chức này lúc đầu còn là chơi thể thao, giúp nhau học chữ quốc ngữ, học võ, quyên góp tiền để giúp đỡ nhau. Cán bộ của Đảng còn lãnh đạo các hội viên quần chúng đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ, đấu tranh chống thu thuế bất công, khất thuế, đòi niêm yết trước mức thuế, đòi giảm thuế, chống các khoản phụ thu lạm bổ đã diễn ra liên tiếp bằng nhiều hình thức như: Biểu tình, làm đơn có nhiều chữ ký. Tiêu biểu là cuộc biểu tình của nhân dân nghèo, tiểu thương, tiểu chủ ở thị xã, đã tập hợp hàng trăm chữ ký rồi kéo lên tòa Chánh sứ đòi được giảm thuế.

Các cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ trên đây của nhân dân thị xã Vĩnh Yên mặc dù bị bọn thống trị đàn áp, nhưng phần lớn đã giành được thắng lợi. Nạn quan tham nhũng giảm, các loại thuế vô lý phải bãi bỏ, thuế ruộng, thuế môn bài được miễn giảm. Sự ra đời của hàng loạt các tổ chức công khai, hợp pháp thời kỳ này là thắng lợi lớn của Đảng trong đường lối đấu tranh và vận động quần chúng, vì đã tập hợp được lực lượng cách mạng đông đảo, hoạt động giành thắng lợi cho cao trào 1936-1939. Bên cạnh các cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh, các cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh đòi tự do dân chủ cũng diễn ra liên tục sôi nổi trên địa bàn thị xã. Đường lối của Đảng bước đầu được tuyên truyền nhiều đến nhân dân. Uy tín và ảnh hưởng của Đảng ngày càng lan rộng, nhân dân tin tưởng ở sức mạnh đoàn kết của chính bản thân mình.

Thực hiện chủ trương của Trung ương và được sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc kỳ, để biến cuộc đón Gôđa thành cuộc biểu tình đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ, những người lãnh đạo phong trào cách mạng ở thị xã Vĩnh Yên đã vận động thu thập chữ ký của nhân dân vào bản “Nguyện vọng dân chúng”. Hàng trăm người ở nội thị, ở các làng, xã và thị trấn Tam Đảo đã ký vào các bản dân nguyện, trong đó có cả trưởng phố. Bản dân nguyện cùng có nội dung tố cáo tội ác và sự bóc lột của thực dân Pháp, đồng thời đòi quyền tự do dân chủ, đòi thả chính trị phạm, bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế bất công, tăng tiền công cho những người làm thuê, chống đánh đập…

Ngày 31 tháng Giêng năm 1937, trong đoàn hàng trăm đại biểu của nông dân Vĩnh Yên và nông dân Phúc Yên kéo về Hà Nội biểu tình đón Gôđa, có hơn 10 đại biểu của Vĩnh Yên cùng đi để đòi tự do dân chủ. Khi dự biểu tình đón Gôđa, đại biểu của đoàn Vĩnh Yên đã đến toàn soạn báo công khai của Đảng để trao bản nguyện vọng của nhân dân và cung cấp những tài liệu, số liệu cụ thể chi tiết về đời sống dân cày, về thủ đoạn áp bức bóc lột nhân dân của bọn thực dân và phong kiến địa chủ, đồng thời báo cáo với Xứ ủy về tình hình phong trào địa phương. Đây cũng chính là cuộc biểu dương lực lượng đầu tiên của nhân dân thị xã Vĩnh Yên trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ. Năm 1938, nguy cơ chiến tranh thế giới đang đến gần. Chính phủ Pháp do Đalaliê lên cầm quyền ngả dần về phái hữu, đưa ra nhiều chính sách phản động như: Tăng thuế, phát hành công trái, đóng cửa báo dân chúng và nhiều tờ báo tiến bộ, khủng bố những người tham gia đấu tranh.

Trước tình hình đó, Đảng ta đề ra chủ trương củng cố các tổ chức của Đảng, kết hợp chặt chẽ công tác công khai và bí mật. Nhờ chủ trương đúng đắn đó, phong trào đấu tranh diễn ra mạnh mẽ trên khắp mọi miền đất nước, trong đó có phong trào đấu tranh của nhân dân thị xã Vĩnh Yên. Năm 1938 cũng là năm mà lần đầu tiên ở Đông Dương lễ kỷ niệm ngày Quốc tế lao động được tổ chức công khai ở Hà Nội, Sài Gòn và các thành phố lớn trong cả nước.

Thực hiện chủ trương của Đảng tổ chức cuộc mít tinh lớn ở Hà Nội nhân ngày Quốc tế lao động 1/5, các đồng chí lãnh đạo phong trào ở tỉnh Vĩnh Yên đã tổ chức một đoàn đại biểu, trong đó đại biểu của các huyện về tập trung tại thị xã Vĩnh Yên, sau đó các đại biểu về Hà Nội dự lễ kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1/5.

Trong 2 cuộc biểu tình lớn đón Gôđa năm 1937 và mít tinh kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1/5/1938 tại Hà Nội đã làm cho cán bộ và quần chúng của thị xã Vĩnh Yên có điều kiện tận mắt thấy rõ sức mạnh của cách mạng cả nước, đồng thời có điều kiện để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, thắt chặt tình đoàn kết giữa các địa phương trong cuộc đấu tranh chung.

Phong trào đấu tranh chống thuế phối hợp với những cuộc đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế được phát động khắp mọi nơi. Lúc này, thực dân Pháp đã nâng mức thuế và tăng thêm các loại thuế để vơ vét của cải đổ vào cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Do đó những cuộc đấu tranh về kinh tế ở Vĩnh Yên đều nhằm vào mục đích đòi giảm thuế. Ngày 23/11/1938 có hơn 40 tiểu thương buôn bán gạo ở thị xã Vĩnh Yên được các đồng chí lãnh đạo phong trào cách mạng thị xã tổ chức thành đoàn biểu tình kéo lên tòa sứ đòi giảm thuế môn bài cho tiểu thương buôn bán.

Giữa năm 1938 lại tiếp tục nổ ra cuộc bãi thị với mục đích đòi giảm thuế chợ. Quần chúng đã tập trung viết đơn cử một đoàn đại biểu đưa lên tòa sứ. Bên cạnh đó là việc vận động các hàng quán đóng cửa không buôn bán. Trước phong trào đấu tranh của quần chúng, bọn cầm quyền địa phương buộc phải nhượng bộ.

Bọn thống trị ở thị xã Vĩnh Yên tiến hành thành lập Hội đồng dân biểu. Để chào mừng sự ra mắt của Hội đồng dân biểu, chúng đã tổ chức các trò chơi thể thao ở thị xã. Biết được âm mưu, các đồng chí lãnh đạo phong trào cách mạng ở thị xã đã nhanh chóng lợi dụng thời cơ thuận lợi này tổ chức các hoạt động hợp pháp để tuyên truyền cách mạng. Trong cuộc đua xe đạp nữ vòng quanh sân vận động thị xã, ta đã cử những quần chúng cách mạng là chị em phụ nữ lao động chuyên làm hàng xay, hàng sáo khỏe mạnh, nhiệt tình tham gia đua xe với con gái bọn nhà giàu. Sau lưng áo mỗi vận động viên của ta đã dán sẵn hàng chữ “lao động tiến lên”. Cùng thời gian này, tại Cát Xăng đường lên thị trấn Tam Đảo, bọn thống trị địa phương tổ chức cuộc chạy thi lên thị trấn Tam Đảo. Những người lao dộng nghèo, họ là những người chiến thắng. Những hoạt động trên là một hình thức tập hợp quần chúng, đặc biệt là tầng lớp thanh niên để tuyên truyền cách mạng một cách công khai, hợp pháp, đồng thời làm thất bại mục đích “chào mừng Hội đồng dân biểu” của kẻ thù, biến những hoạt động mê hoặc, lừa phỉnh của chúng thành những cuộc vận động cách mạng của ta. Thành công của phong trào đã đạt được ngay trước mắt bọn thống trị địa phương, làm cho chúng vô cùng tức tối nhưng bất lực.

Năm 1939, phong trào cách mạng chuyển sang giai đoạn mới trong cả nước. Thời kỳ Mặt trận Dân chủ kết thúc. Phong trào cách mạng của nhân dân thị xã đã phát triển và đạt được kết quả to lớn. Những cuộc biểu tình, mít tinh, bãi chợ, những hoạt động thể thao đã lôi cuốn đông đảo quần chúng xuống đường tham gia cách mạng. Họ đã được giác ngộ, rèn luyện, tập dượt. Đó là sự chuẩn bị về lực lượng chính trị cho phong trào cách mạng ở thị xã.

Mặc dù thời kỳ này, Vĩnh Yên chưa có chi bộ Đảng nhưng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, phong trào cách mạng Vĩnh Yên đã thu được kết quả to lớn hòa chung vào các cao trào cách mạng của cả nước. Qua phong trào, Đảng đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ cốt cán vững vàng đã qua thử thách đấu tranh cách mạng. Song, từ 1928-1939 phong trào ở thị xã Vĩnh Yên còn có những hạn chế như phát triển chưa đều, chưa thành lập được một tổ chức Đảng cơ sở, cán bộ ít, vì vậy khi phong trào bị đàn áp thì thiếu cán bộ để tiếp tục duy trì và giữ phong trào.

Nguồn: Lịch sử Đảng bộ thành phố

ĐẤU TRANH THÀNH LẬP VÀ KHÔI PHỤC ĐẢNG TIẾN TỚI CAO TRÀO DÂN SINH, DÂN CHỦ [1930-1939]

Đăng lúc: 09/03/2021 [GMT+7]
100%

Chương I

ĐẤU TRANH THÀNH LẬP VÀ KHÔI PHỤC ĐẢNG TIẾN TỚI

CAO TRÀO DÂN SINH, DÂN CHỦ [1930-1939]

Sau khi đặt ách thống trị lên đất nước ta, thực dân Pháp thực thi chính sách áp bức bóc lột cực kỳ dã man tàn bạo nhằm kìm hãm dân tộc ta trong cảnh đói nghèo, lạc hậu để dễ bề thống trị.

Nhưng ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh, nhân dân ta từ Bắc chí Nam liên tục vùng lên chống Pháp. Các phong trào đấu tranh theo xu hướng tư tưởng phong kiến và tư sản diễn ra làm cho thực dân Pháp phải mất nhiều thời gian, tốn nhiều xương máu và tiền của để tiến hành cái gọi là “Bình định” 1.

Mặc dù các phong trào Cần Vương, Duy Tân, Đông Du, Đông Kinh nghĩa phục và các cuộc nổi dậy của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học tổ chức chỉ đạo bị dìm vào biển máu và thất bại nhưng đã đem lại cho dân tộc Việt Nam những bài học kinh nghiệm và kịp thời đi theo con đường cứu nước chân chính và tất thắng của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với Cách mạng Tháng Mười Nga tìm ra con đường cứu nước kiểu mới. Đó là con đường kết hợp cách mạng dân tộc với cách mạng xã hội, giải phóng dân tộc kết hợp với giải phóng giai cấp và đã dành tâm huyết, trí tuệ nghiên cứu các vấn đề tổ chức xây dựng Đảng Cộng sản, các vấn đề chiến lược, sách lược của Cách mạng Việt Nam...

Năm 1924, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô về Quảng Châu [Trung Quốc] mở các lớp huấn luyện chính trị cho những người Việt Nam yêu nước và xây dựng Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chuẩn bị điều kiện xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sinh trưởng trên một quê hương có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm kiên cường bất khuất, Lê Hữu Lập [Xuân Lộc, Hậu Lộc] đã sớm tham gia các phong trào yêu nước. Năm 1924 được cụ Đinh Chương Dương [Hải Lộc - Hậu Lộc], một trong những chí sĩ yêu nước có quan hệ với tổ chức “Tâm Tâm x㔠giới thiệu sang Quảng Châu [Trung Quốc] gặp Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu... Đồng chí Lê Hữu Lập đã được tham dự lớp huấn luyện chính trị đầu tiên của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.

Năm 1925, Lê Hữu Lập được cử về Thanh Hóa lựa chọn Thanh niên ưu tú gửi sang Quảng Châu [Trung Quốc] học tập và tiến hành truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cứu nước của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, xây dựng tỉnh Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.

Năm 1926, Lê Hữu Lập tổ chức Hội đọc sách báo cách mạng tại số nhà 26 phố Hàng Than, thành phố Thanh Hóa sau đó mở rộng ra các phủ huyện trong tỉnh. Trên cơ sở Hội đọc sách báo, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Nguyễn Ái Quốc đã được truyền bá vào thanh niên, học sinh và quần chúng lao khổ. Lê Hữu Lập đã lựa chọn nhiều Thanh niên ưu tú gửi ra nước ngoài học tập và tiến hành chỉ đạo thành lập các chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở các phủ, huyện. Trên cơ sở đó tháng 4-1927, dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Hữu Lập, hội nghị đại biểu các cơ sở Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên diễn ra tại số nhà 26 phố Hàng Than, thị xã Thanh Hóa thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh Thanh Hóa và cử 3 đồng chí vào Ban Chấp hành [1] do Lê Hữu Lập làm Bí thư. Hội nghị đã chủ trương xúc tiến mạnh mẽ nhiệm vụ truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Nguyễn Ái Quốc trong quần chúng, phát triển mở rộng cơ sở Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên tại các phủ, huyện trong tỉnh...

Tỉnh Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên được thành lập tạo ra điều kiện mới thúc đẩy các Chi Hội Thanh niên [xin được gọi tắt] ở các địa phương ra đời, hoạt động và phát triển.

Giữa năm 1928, do ảnh hưởng sâu sắc đường lối chính trị của tổ chức Thanh niên, số đảng viên trẻ trong tổ chức Tân Việt đòi củng cố tổ chức và lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Nguyễn Ái Quốc huấn luyện đảng viên chỉ đạo mọi hoạt động của Đảng Tân Việt. Cuối năm 1928, số đảng viên trẻ tổ chức hội nghị tại Lò Chum, thị xã Thanh Hóa quyết định hoạt động theo đường lối chính trị của tổ chức Thanh niên và bầu đồng chí Nguyễn Xuân Thúy [Xuân Minh, Thọ Xuân] làm Bí thư. Đảng bộ Tân Việt Thanh Hóa mở ra thời kỳ hoạt động mới.

Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Đảng bộ Tân Việt Thanh Hóa đã chuẩn bị điều kiện tư tưởng tổ chức cho Đảng bộ Thanh Hóa ra đời.

I- RA ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI VIỆT NAM CÁCH MẠNG THANH NIÊN VÀ ĐẢNG TÂN VIỆT TẠI THỌ XUÂN

Thọ Xuân quê hương có bề dày văn hiến và truyền thống yêu nước chống ngoại xâm kiên cường bất khuất. Vào những năm 1925 - 1926 nhiều thanh niên yêu nước sôi sục khí tiết cách mạng đã tìm đến đồng chí Lê Hữu Lập tham gia Hội đọc sách báo, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Nguyễn Ái Quốc tiến hành tổ chức cách mạng trên quê hương thân yêu của mình.

Người có công đầu truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Nguyễn Ái Quốc vào trái tim khối óc quần chúng lao khổ Thọ Xuân là đồng chí Nguyễn Mậu Sung thôn Quần Kênh, tổng Kiên Thạch [Xuân Giang, Thọ Xuân].

Năm 1926, Nguyễn Mậu Sung tham gia Hội đọc sách báo cách mạng Thanh Hóa và được cử về Thọ Xuân truyền bá tư tưởng cách mạng. Đồng chí đã chỉ đạo xây dựng Hội đọc sách báo ở Thọ Xuân và ở thôn Quần Kênh.

Sự hoạt động tích cực của Hội đọc sách báo đã làm cho nhiều quần chúng yêu nước được giác ngộ tư tưởng cứu nước của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Nhờ đó nhiều tiểu tổ Việt Nam Cách mạng Thanh niên được thành lập.

Tháng 10/1926 dưới sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Mậu Sung, hội nghị thành lập Chi Hội Thanh niên Quần Kênh được tiến hành tại nhà đồng chí Vũ Đức Hợp. Đồng chí Nguyễn Mậu Sung phổ biến tôn chỉ, mục đích, nguyên tắc hoạt động của Hội và cử đồng chí Vũ Đức Hợp làm Chi hội trưởng.

Chi hội Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Quần Kênh ra đời là tiếng chuông báo trước sự bùng nổ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo xu hướng cộng sản trên địa bàn Thọ Xuân.

Để truyền bá đường lối chính trị, tập hợp quần chúng đấu tranh, Chi Hội Thanh niên Quần Kênh đã tổ chức lớp học có tên “Lao động trường” tại nhà đồng chí Vũ Đức Hợp sau đó di chuyển sang một số gia đình trong thôn. Cùng với học chữ, học viên [là quần chúng lao khổ] được giảng dạy thêm thơ ca yêu nước và cách mạng. Nhờ đó giác ngộ dân tộc, giác ngộ giai cấp và tinh thần đấu tranh của quần chúng nâng cao từng bước.

Năm 1927, tư tưởng cứu nước của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến với quần chúng lao động khu vực Yên Trường [Thọ Lập], nhiều thanh niên yêu nước tích cực tham gia Hội đọc sách báo cách mạng. Đồng chí Nguyễn Mậu Sung đã thay mặt Tỉnh bộ Thanh niên kết nạp đồng chí Lê Văn Sỹ vào tổ chức Thanh niên. Do tích cực tuyên truyền giác ngộ cách mạng, đồng chí Lê Văn Sỹ đã lựa chọn kết nạp 7 quần chúng ưu tú vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trên cơ sở đó, cuối năm 1927 đồng chí Nguyễn Mậu Sung chỉ đạo hội nghị thành lập Chi hội Thanh niên Yên Trường, cử đồng chí Lê Văn Sỹ làm Chi hội trưởng.

Chi hội Yên Trường vừa mới ra đời đã tích cực tổ chức hoạt động. Nhờ đó quần chúng trong khu vực giác ngộ cách mạng ngày càng đông, một số tổ chức biến tướng như: “Hội Truyền bá quốc ngữ”, “Hội Thể dục Thể thao”, “Hội bát âm” được xây dựng và hoạt động sôi nổi.

Vào giữa năm 1927, ảnh hưởng của Hội đọc sách báo cách mạng và tổ chức Thanh niên đã lan rộng đến khu vực Mỹ Lý [Bắc Lương], 12 quần chúng ưu tú được kết nạp vào tổ chức Thanh niên. Trên cơ sở đó đồng chí Nguyễn Mậu Sung đã tổ chức hội nghị thành lập Chi hội Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở khu vực Mỹ Lý, cử đồng chí Lê Văn Chức làm Chi hội trưởng.

Đầu năm 1928, các đồng chí Lê Đình Dương, Trịnh Quang Lịch đã tuyên truyền lựa chọn kết nạp 2 hội viên mới tại khu vực Yên Lược theo tinh thần chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Mậu Sung. Trên cơ sở đó Chi hội Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên Yên Lược [Thọ Lập] được thành lập, cử đồng chí Lê Đình Dương làm Chi hội trưởng.

Đến giữa năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã hình thành ở nhiều địa phương trong phủ Thọ Xuân, trên cơ sở đó tháng 6-1928 Tỉnh Bộ Thanh niên chỉ đạo thành lập Phủ Bộ Thanh niên Thọ Xuân. Hội nghị đã diễn ra tại Chùa Điệu [Xuân Thành] gồm đại diện của các chi hội về dự. Hội nghị đã đánh giá sự phát triển của tổ chức và phong trào đấu tranh quần chúng, đề ra mục tiêu phương hướng hoạt động. Hội nghị nhấn mạnh: Trong thời gian tới cần xây dựng phát triển mở rộng cơ sở tổ chức hội, chú ý kết nạp quần chúng lao động, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, mục đích tôn chỉ của Hội, mở rộng tổ chức Hưng nghiệp hội xã tạo nguồn kinh phí và cơ sở liên lạc... Hội nghị đã bầu các đồng chí Nguyễn Mậu Sung, Giáo Huy, Hương Thu vào Ban Chấp hành Phủ Bộ và cử đồng chí Nguyễn Mậu Sung là Bí thư.

Sự ra đời của Phủ Bộ Việt Nam cách mạng Thanh niên Thọ Xuân đánh dấu bước phát triển mới về tổ chức Hội và phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng. Sự lãnh đạo tập trung thống nhất trong phủ bộ sẽ tạo ra sức mạnh mới.

Truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vào quần chúng lao khổ là nhiệm vụ vừa có ý nghĩa trực tiếp cấp bách vừa mang ý nghĩa chiến lược đã được Ban Chấp hành Phủ Bộ chỉ đạo khẩn trương tích cực. Hội viên và quần chúng của Hội đã truyền tay nhau đọc các loại tài liệu do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc biên soạn, đọc báo và tài liệu của Tổng Bộ Thanh niên xuất bản cùng nhiều tài liệu khác. Nhờ đó mà trình độ và ý thức cách mạng được nâng cao.

Cùng với đẩy mạnh công tác tư tưởng, Ban chấp hành Phủ Bộ đã tích cực tổ chức chỉ đạo phát triển hội viên và xây dựng nhiều chi hội mới. Tính đến cuối năm 1929 tổng số hội viên đã lên tới 48 người, một số chi hội mới ra đời ở Mậu Thôn [Tân Ninh, Triệu Sơn], Phú Hào và Mỹ Hào [Thọ Phú], Phú Liễm [Thọ Thế], Chỉ Tín [Xuân Tín]...

Tại Chỉ Tín vào năm 1929 chính quyền thực dân phong kiến bắt dân làng đắp con đường đi qua Chỉ Tín vào đồn điền Phúc Địa, chủ đồn điền là Tenmartine tư sản Pháp. Chi hội Thanh niên làng Chỉ Tín đã tổ chức đấu tranh với tri phủ và chủ đồn điền, cuối cùng bọn chúng phải chấp nhận bồi thường thiệt hại về ruộng đất cho 30 chủ hộ nông dân làng Chỉ Tín và phải huy động dân phu cả tổng Phú Hà đi đắp đường, hủy bỏ việc thu thuế nhặt lâm sản trên đất đồn điền. Cuộc đấu tranh thắng lợi đã tạo ra tiếng vang lớn.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh bộ Thanh Hóa, Phủ bộ Thọ Xuân đã tích cực củng cố phát triển hệ thống tổ chức của Hưng nghiệp hội xã.

Ngay sau khi tổ chức Hưng nghiệp hội xã của Tỉnh Bộ khai trương tại thành phố Thanh Hóa, Phủ Bộ Thọ Xuân đã thành lập chi điếm Hưng nghiệp hội xã và hệ thống tiểu chi điếm ở Quần Kênh, Nam Thượng, Mỹ Lý, Yên Trường vào đầu năm 1928.

Để thành lập chi điếm và tiểu chi điếm, các chiến sỹ là hội viên tổ chức Thanh niên đã bỏ vốn mua cổ phần và vận động quần chúng mua cổ phần xây dựng cửa hàng, mua hàng hóa kinh doanh.

Tiểu chi điếm Quần Kênh đã góp vốn mở cửa hàng tạp hóa, cửa hàng thuốc bắc và cửa hàng may đo. Tiểu chi điếm Nam Thượng góp vốn thu mua và khai thác lâm sản vận chuyển về xuôi tiêu thụ. Tiểu chi điếm Mỹ Lý tổ chức cửa hàng tại địa phương buôn bán tạp hóa. Tiểu chi điếm Mỹ Lý có số lượng cổ đông nhiều nhất, có người mua đến 6 cổ phần [1 cổ phần là 5 đồng Đông Dương tương đương 1 tạ thóc].

Nhờ tổ chức chỉ đạo chặt chẽ và hoạt động nhanh nhạy, tích cực, hệ thống tổ chức Hưng nghiệp hội xã Thọ Xuân đã góp phần chấn hưng hàng nội hóa, tạo ra nguồn kinh phí hoạt động, tạo ra địa điểm liên lạc, hội họp hợp pháp, hạn chế sự chú ý của chính quyền thực dân phong kiến.

Cũng như một số phủ, huyện trong tỉnh vào những năm 1927 - 1928, tổ chức Tân Việt [Đảng Tân Việt] đã đến với quần chúng yêu nước Thọ Xuân.

Các đồng chí Nguyễn Xuân Thúy, Nguyễn Văn Hồ, những cán bộ chủ chốt của Đảng bộ Tân Việt Thanh Hóa quê hương Thọ Xuân và đồng chí Lê Huy Hoàng tức Giáo Huỳnh Văn Lộ [Thọ Nguyên] xây dựng tổ chức cơ sở của Đảng Tân Việt ở Vân Lộ, ở khu vực Phong Cốc, Thuần Hậu - Xá Lê - Ngọc Trung, Vực Trung, Vực Thượng, Lễ Nghĩa…

Tại làng Vân Lộ vào đầu năm 1928, đồng chí Lê Huy Hoàng đã tuyên truyền giác ngộ đường lối chính trị của Đảng Tân Việt trong quần chúng và lựa chọn những người ưu tú kết nạp vào Tân Việt và xây dựng cơ sở Tân Việt ở Vân Lộ. Để quy tụ quần chúng đấu tranh, Tân Việt Vân Lộ đã thành lập "Hội cải lương hương thôn” và quyết định xóa bỏ hủ tục lạc hậu trong cưới xin, ma chay, đình đám, tiến hành xây dựng sửa sang đường sá trong thôn xóm, tổ chức đọc sách báo, học chữ quốc ngữ, tổ chức tổ đổi công vần công, cử người đến Quảng Xương học nghề dệt.

Tại tổng Thử Cốc, tháng 12-1929 các cơ sở Tân Việt ở Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, Ngọc Trung đã tiến hành hội nghị tại nhà ông Trịnh Huy Phan [Ngọc Trung]. Hội nghị quyết định đẩy mạnh công tác tuyên truyền kết nạp đảng viên, tổ chức đấu tranh chống áp bức bóc lột, tổ chức học chữ quốc ngữ...

Tháng 4-1929, tại nhà Đỗ Huy Trinh thôn Thuần Hậu, Ban Chấp hành Đảng bộ Tân Việt đã mở lớp huấn luyện cho cán bộ Tân Việt ở các phủ huyện Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định với nội dung: Bồi dưỡng nhận thức và phương pháp hoạt động, nguyên tắc xây dựng củng cố tổ chức, xây dựng quyết tâm phấn đấu cho đường lối cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thắng lợi. Lớp học do thầy giáo Lê Văn Tương thuộc Tỉnh bộ Tân Việt giảng dạy.

Tại Phúc Bồi, nhóm Tân Việt gồm các đồng chí Lê Đình Ân, Mai Văn Khang, Nguyễn Văn Hiến, Đỗ Văn Phơn tích cực vận động nhân dân đoàn kết giúp nhau sản xuất sinh hoạt, tổ chức đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống phu phen tạp dịch, mở lớp dạy chữ quốc ngữ cho quần chúng lao động...

Hoạt động của tổ chức Thanh niên và Tân Việt đang diễn ra sôi nổi, rộng khắp thì giữa năm 1929 quân thù tập trung lực lượng khủng bố nhiều cơ sở bị tan vỡ, hầu hết cán bộ chủ chốt bị địch bắt cầm tù. Nhưng xiềng xích gông cùm không thể làm nhụt ý chí đấu tranh của các chiến sỹ cách mạng. Các đồng chí đã biến nhà tù thành trường học lý luận, phấn đấu giữ trọn khí tiết tiếp tục hoạt động.

Tháng 4-1930, sau khi ra tù các đồng chí Nguyễn Xuân Thúy, Nguyễn Văn Hồ trở về quê hương chắp nối liên lạc với số đảng viên Tân Việt ở khu vực Phong Cốc - Thuần Hậu - Xá Lê - Ngọc Trung tiếp tục tuyên truyền giác ngộ cách mạng trong quần chúng. Quá trình ra đời và hoạt động Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và tổ chức Tân Việt ở Thọ Xuân là quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Nguyễn Ái Quốc vào các tầng lớp thanh niên học sinh và quần chúng lao khổ thổi bùng ngọn lửa cách mạng theo khuynh hướng cộng sản, tạo ra điều kiện tư tưởng và tổ chức tiến tới hình thành các chi bộ cộng sản.

II- TỔ CHỨC ĐẢNG RA ĐỜI, QUÂN THÙ KHỦNG BỐ TRẮNG, QUẦN CHÚNG ĐẤU TRANH PHỤC HỒI ĐẢNG VÀ PHONG TRÀO CÁCH MẠNG [1930-1935]

Vào đầu năm 1930 phong trào đấu tranh cách mạng trong tỉnh phát triển mạnh, vai trò lãnh đạo của tổ chức Thanh niên và Tân Việt gặp nhiều bất cập và hạn chế. Quần chúng cách mạng trong tỉnh đòi hỏi phải có một tổ chức cương quyết, triệt để cách mạng lãnh đạo. Đó là tổ chức cộng sản - Bộ tham mưu, đội tiên phong của giai cấp công nhân và dân tộc.

Ngày 3 tháng 2 năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở tháp nhập ba tổ chức Cộng sản trong nước do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản chỉ đạo.

Thực hiện chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, các Xứ ủy đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng và phát triển phong trào đấu tranh chống thực dân phong kiến tại các tỉnh, thành phố trong cả nước.

Thực hiện chỉ thị của Xứ ủy Bắc Kỳ, đồng chí Lê Công Thanh - xứ ủy viên, Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam [1] đã giao nhiệm vụ cho Nguyễn Doãn Chấp [2] đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đang dạy học và hoạt động cách mạng ở huyện Duy Tiên trở về Thanh Hóa chắp nối liên lạc với tổ chức Thanh niên tiến hành xây dựng Đảng bộ Thanh Hóa.

Vào mùa hè 1930, đồng chí Nguyễn Doãn Chấp về Thanh Hóa tìm hiểu tình hình hoạt động của hội viên Thanh niên trong tỉnh.

Ngày 18 tháng 6 năm 1930, đồng chí Nguyễn Doãn Chấp bắt nối liên lạc với Lê Văn Tùng, hội viên Thanh niên khu vực Hàm Hạ [Đông Sơn] và lựa chọn kết nạp 3 hội viên Thanh niên vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cuối tháng 6-1930, đồng chí Nguyễn Doãn Chấp triệu tập hội nghị tuyên bố thành lập chi bộ Hàm Hạ [Đông Sơn] gồm 3 đảng viên cử đồng chí Lê Long làm Bí thư.

Sau đó đồng chí Nguyễn Doãn Chấp đến làng Phúc Lộc [Thiệu Tiến - Thiệu Hóa], làng Ngô Xá [Thiệu Minh - Thiệu Hóa] lựa chọn kết nạp 4 hội viên Thanh niên vào Đảng và đầu tháng 7 - 1930 tuyên bố thành lập chi bộ Thiệu Hóa gồm 4 đảng viên, cử đồng chí Vương Xuân Cát làm Bí thư.

Nửa đầu tháng 7-1930, đồng chí Nguyễn Doãn Chấp đã 2 lần về Thọ Xuân lựa chọn kết nạp 7 đảng viên ở làng Yên Trường, Yên Lược, Chỉ Tín vào Đảng. Vào ngày 22 tháng 7 năm 1930 tuyên bố thành lập chi bộ Thọ Xuân gồm 7 đảng viên [3] cử đồng chí Lê Văn Sỹ làm Bí thư. Hội nghị đã thảo luận và đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công tác tuyên truyền lựa chọn kết nạp đảng viên xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, xây dựng tổ chức Nông Hội đỏ phát triển đấu tranh chống áp bức bóc lột.

Chi bộ Thọ Xuân [Chi bộ thứ ba của Đảng bộ tỉnh, chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Thọ Xuân] ra đời mở ra bước ngoặt lịch sử trọng đại. Từ đây phong trào cách mạng Thọ Xuân có Đảng trực tiếp lãnh đạo sẽ phát triển mạnh mẽ và đúng hướng. Chi bộ Thọ Xuân góp phần tạo nên nền tảng để thành lập Đảng bộ Thanh Hóa và trở thành bộ phận quan trọng của Đảng bộ tỉnh nhà.

Chi bộ Thọ Xuân ra đời muộn hơn so với chi bộ Hàm Hạ [Đông Sơn], Chi bộ Thiệu Hóa nhưng số lượng đảng viên, cơ sở quần chúng phát triển rộng và vững chắc, địa hình khu vực Yên Trường hẻo lánh xa trung tâm phủ lỵ. Vì vậy đồng chí Nguyễn Doãn Chấp quyết định tổ chức hội nghị thành lập Đảng bộ Thanh Hóa tại Yên Trường [Thọ Lập, Thọ Xuân].

Để đảm bảo an toàn cho hội nghị thành lập Đảng bộ tỉnh, Chi bộ Thọ Xuân đã tổ chức lực lượng canh gác bảo mật, phòng gian, chuẩn bị lương thực, thực phẩm cung cấp cho 11 đại biểu [9 chính thức, 2 dự khuyết] của 3 chi bộ trong tỉnh về hội nghị.

Ngày 29-7-1930 sự kiện lịch sử trọng đại của đồng bào các dân tộc tỉnh nhà đã diễn ra tại nhà đồng chí Lê Văn Sỹ làng Yên Trường. Đó là hội nghị thành lập Đảng bộ Thanh Hóa do đồng chí Nguyễn Doãn Chấp chủ trì. Hội nghị đã quyết định nhiều chủ trương công tác có ý nghĩa mở đầu của Đảng bộ và phong trào cách mạng tỉnh nhà.

Một là: Đẩy mạnh công tác tư tưởng, tuyên truyền giác ngộ chủ nghĩa - Mác - Lênin, chính cương điều lệ sách lược vắn tắt của Đảng, tích cực phát triển đảng viên, xây dựng mở rộng cơ sở Đảng và tổ chức Nông Hội đỏ.

Hai là: Thành lập cơ quan in tài liệu của Tỉnh ủy và xuất bản tờ báo “Tiến lên" cơ quan ngôn luận đầu tiên của Đảng bộ tỉnh.

Ba là: Đoàn kết, xây dựng, tổ chức, chỉ đạo quần chúng cần lao đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống chế độ thực dân phong kiến.

Bốn là: Bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 3 đồng chí, do đồng chí Lê Thế Long làm Bí thư. Đồng chí Lê Văn Sỹ làm Bí thư chi bộ Thọ Xuân được vinh dự bầu vào Tỉnh ủy. Nhà đồng chí Lê Văn Sỹ được chọn đặt cơ quan ấn loát của Tỉnh ủy.

Để phục vụ in ấn tài liệu của Tỉnh ủy, chi bộ Yên Trường đã bí mật cử người đi mua nguyên vật liệu, tổ chức canh gác bảo vệ, nuôi dưỡng đồng chí Lê Oanh Kiều và các đồng chí giúp việc. Tại đây hàng ngàn truyền đơn kêu gọi quần chúng xuống đường đấu tranh chống đế quốc phong kiến và một số tài liệu như: “Tóm tắt lịch sử nhân loại", thơ ca cách mạng được trích trong Tạp chí "Búa liềm" của Trung ương Đảng, trong báo “Dân Cày" của Đảng bộ Hà Nam và những bài các đồng chí lãnh đạo tự viết. Báo “Tiến lên" số đầu tiên được in ấn xuất bản vào cuối tháng 8-1930 đã góp phần phổ biến Chính cương Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, kêu gọi cổ vũ hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Trong đó có bài thơ do đồng chí Nguyễn Doãn Chấp sáng tác kêu gọi quần chúng công - nông - trí thức vùng lên:

Này anh em ơi, chị em ơi!

Vì chăng chế độ của riêng

Mình làm khó nhọc bạc tiền người ăn

Cái thân đã khổ muôn phần

Lại còn sưu thuế vua quan thêm phiền

Cuộc đời điên đảo, đảo điên

Lẽ nào chịu khổ nằm yên trong vùng

Phất ngọn cờ hồng, phất ngọn cờ hồng

Cùng nhau quyết chí đồng lòng

Con đường cách mạng công nông đi đầu

Tiến lên mau, tiến lên mau

Chớ nên nấn ná trước sau

Phá tan tư sản, đập đầu vua quan

Lập thành xô viết liên bang".

Cùng với bảo vệ cơ quan Tỉnh ủy, chi bộ Yên Trường tích cực tuyên truyền giáo dục quần chúng, phát triển nhân cốt xây dựng tổ chức “Nông Hội đỏ". Tính đến cuối tháng 8-1930 toàn phủ đã kết nạp được 70 hội viên Nông Hội đỏ và tổ chức học tập Điều lệ của Hội.

Dưới sự chỉ đạo của chi bộ Đảng, quần chúng đã vùng lên đấu tranh chống bọn quan lại sách nhiễu, ức hiếp dân lành. Mở đầu là cuộc đấu tranh của nông dân làng Yên Trường chống bọn chức dịch chiếm đoạt công điền, công thổ. Do đấu tranh thắng lợi mỗi suất đinh trong làng được chia thêm 6, 7 thước ruộng để trồng cấy hoa màu. Nhân dân làng Chỉ Tín dưới sự chỉ đạo của tổ chức Đảng đã cương quyết chống lệnh của Tri phủ Bùi Quang Hoàn không chịu đi đắp đường vào Phúc Địa. Công nhân đồn điền Vạn Lại đã cùng với nông dân quanh vùng đòi tăng tiền công, giảm giờ làm...

Từ trong phong trào đấu tranh của quần chúng, các chiến sĩ cộng sản đã lựa chọn, bồi dưỡng, kết nạp những người ưu tú vào Đảng. Tính đến tháng 8-1930 chi bộ Thọ Xuân đã kết nạp thêm hàng chục đảng viên và từ 5 tổ Đảng, đưa tổng số lên 8 tổ Đảng.

Tại khu vực Neo - Quần kênh, tháng 8 năm 1930 đồng chí Nguyễn Doãn Chấp phái viên Xứ ủy Bắc Kỳ kết hợp với đồng chí Lê Văn Sỹ, Tỉnh ủy viên, Bí thư chi bộ Thọ Xuân tìm hiểu lựa chọn kết nạp 11 quần chúng là hội viên Thanh niên vào Đảng, tuyên bố thành lập bộ ghép Neo - Quần kênh cử đồng chí Lê Văn Chức làm Bí thư chi bộ [Mỹ Lý 7 đồng chí, Quần kênh 4 đồng chí].

Kể từ tháng 8 đến tháng 12-1930, cùng với sự ra đời của chi bộ Neo - Quần Kênh, hai chi bộ cộng sản ở Thọ Xuân đã tích cực tổ chức vận động quần chúng đấu tranh chống áp bức bóc lột.

Quần chúng yêu nước khu vực Long Linh Ngoại đã xây dựng Hội dân nghèo tập hợp nông dân đấu tranh chống áp bức bóc lột. Buổi đầu Hội mới có 12 thành viên do đồng chí Trịnh Khắc Sản phụ trách nhưng về sau số lượng hội viên phát triển mở rộng. Tại Quảng Thi, Quảng Ích các chiến sĩ cộng sản đã xây dựng cơ sở cách mạng dưới danh nghĩa là Hiệu may để tuyên truyền vận động quần chúng...

Do ảnh hưởng của các chi bộ Đảng Cộng sản, quần chúng yêu nước tham gia Đảng Tân Việt ở khu vực Thọ Xuân cũng liên hệ với nhau để tìm cách củng cố phát triển cơ sở cách mạng. Các cơ sở cách mạng ở Phong Cốc, Ngọc Trung, Canh Hoạch, Phúc Bồi, Xuân Hòa, Hạnh Phúc... được củng cố phát triển mở rộng. Đồng chí Nguyễn Xuân Thúy và Nguyễn Văn Hồ đã xây dựng được nhiều nhân tố mới: Nguyễn Xuân Oanh, Trịnh Ngọc Phan [Phong Cốc], Trịnh Văn Tiến [Ngọc Trung], Đỗ Huy Trinh [Thuần Hậu], Đỗ Đình Thanh [Xá Lê], Hà Duyên Đạt, Hà Duyên Ký [Canh Hoạch], Lê Văn Hiên, Bạ Mẫn [Phúc Bồi], Hà Duyên Thụ [Phú Yên], Lê Văn Tương [Xuân Hòa], Trịnh Đình Khái [Hạnh Phúc], Lê Huy Hoàng [tức Huỳnh] [Vân Lộ], Hoàng Văn Mạch [Ngọc Vực].

Phong trào đấu tranh cách mạng đang trên đà phát triển mở rộng thì chính quyền thực dân phong kiến ​​phát hiện được hành tung của các chi bộ cộng sản Thọ Xuân. Bọn địch đã tập trung lực lượng khủng bố trắng hầu hết cán bộ, đảng viên và một số quần chúng cách mạng bị bắt tù đầy [nhiều người bị địch đầy đi Buôn Mê Thuột và Lao Bảo]. Riêng đồng chí Lê Văn Sỹ - Tỉnh ủy viên bị địch kết 9 năm tù và đầy đi Lao Bảo.

Người trước bị bắt, người sau tiếp tục đứng lên, sau khi gặp được đồng chí Ngô Đức Mâu, nắm bắt chủ trương, xây dựng Đảng bộ Thanh Hóa của Xứ ủy Trung Kỳ, các đồng chí Nguyễn Xuân Thúy, Nguyễn Văn Hồ tích cực xây dựng cơ sở Đảng và cơ sở cách mạng ở khu vực Thọ Xuân.

Cuối năm 1930 ở các phủ, huyện: Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Vĩnh Lộc đã kết nạp được một số đảng viên cộng sản. Ở Tĩnh Gia, Quảng Xương, Đông Sơn thành lập được chi bộ Đảng Cộng sản.

Đầu năm 1931 dưới sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Xuân Thúy, đồng chí Lê Huy Hoàng đã tiến hành tuyên truyền lựa chọn kết nạp các đồng chí: Trịnh Đình Khai [Quân Bình], Nguyễn Đình Lãm [Vực Trung], Trịnh Hữu Thường [Vực Thượng] vào Đảng và quyết định thành lập chi bộ ghép chung khu vực [Xuân Thành ngày nay], cử đồng chí Nguyễn Đình Lãm làm Bí thư.

Chi bộ hoạt động được thời gian ngắn thì đồng chí Khai bị bắt, đồng chí Lãm vào Huế làm báo, còn lại đồng chí Trịnh Hữu Thường. Sau khi liên lạc được với đồng chí Nguyễn Tạo, Lê Chủ, đồng chí Trịnh Hữu Thường đã kết nạp đồng chí với Ngô Văn Lỡng, Lê Xuân Tráng... Vào Đảng tiếp tục sự nghiệp tổ chức lãnh đạo quần chúng đấu tranh cách mạng...

Trên cơ sở đó, ngày 1-1-1931, các chiến sĩ cộng sản trong tỉnh đã tổ chức hội nghị thành lập Đảng bộ Thanh Hóa theo tinh thần chỉ đạo của Xứ ủy Trung Kỳ tại Phố Cung phủ lỵ Tĩnh Gia [làng Hồ Thượng nay là xã Tân Dân, huyện Tĩnh Gia]. Các đồng chí Nguyễn Xuân Thúy, Nguyễn Văn Hồ những người con ưu tú của Thọ Xuân đã được bầu vào Ban Chấp hành Lâm thời Đảng bộ Thanh Hóa.

Để báo cáo tình hình ra đời và hoạt động của Đảng bộ và các tổ chức Nông Hội đỏ, Công Hội đỏ Thanh Hóa với Xứ ủy Trung Kỳ, các đồng chí Ngô Đức Mâu, Nguyễn Xuân Thúy, Nguyễn Văn Hồ đã tổ chức hội nghị tại vườn trầu làng Phong Cốc [Xuân Minh, Thọ Xuân] và thống nhất cử đồng chí Nguyễn Xuân Thúy vào Nghệ An gặp Xứ ủy.

Cuối tháng 4-1931, Tỉnh ủy Lâm thời hội nghị mở rộng tại một đại điểm phía Nam Bến đò Ghép [phía huyện Tĩnh Gia], tiếp nhận và bàn biện pháp thực hiện chỉ thị của Xứ ủy về việc tổ chức đấu tranh hưởng ứng cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh và bầu Tỉnh ủy chính thức. Đồng chí Nguyễn Xuân Thúy và Nguyễn Văn Hồ trở thành Tỉnh ủy viên chính thức. Đồng chí Nguyễn Xuân Thúy được cử làm Phó Bí thư Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Thanh Hóa, các chiến sĩ cộng sản khu vực Thọ Xuân đã tích cực tuyên truyền giác ngộ nông dân tham gia tổ chức “Nông Hội đỏ", tham gia các phong trào đấu tranh do Nông Hội đỏ tổ chức.

Đầu năm 1931 các làng Phong Cốc và Thuần Hậu đã tổ chức được Nông Hội đỏ. Ban cán sự Nông Hội đỏ liên thôn Thuần Hậu - Phong Cốc - Xá Lê gồm có các ông: Nguyễn Xuân Oanh, Lê Xuân Liên [Phong Cốc], Mai Văn Khang [Thuần Hậu], Đỗ Đình Khanh [Xá Lê].

Sự ra đời tổ chức Nông Hội đỏ ở các thôn đã tạo ra những điều kiện cơ bản để tập hợp, đoàn kết, tổ chức lãnh đạo nông dân chống áp bức bóc lột, bảo vệ cán bộ và cơ sở cách mạng.

Tại làng Long Linh Ngoại, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trịnh Khắc Sản, “Hội Nông dân nghèo” đã đề ra chủ trương vận động quần chúng, đấu tranh chống các hủ tục và thủ đoạn đục khoét của bọn hương lý.

Các đồng chí trong Ban cán sự đã giải thích cho nhân dân thấy rõ âm thanh thủ đoạn đen tối của bọn hương lý lợi dụng ma chay, cưới xin, lễ lạt để chè chén, đục khoét dân lành. Tại buổi lễ “Gia tiên” của một gia đình trong thôn, quần chúng căm phẫn đã xỉ vả, lên án bọn chức sắc. Từ đó các loại hủ tục được xóa bỏ, nhân dân làng Long Linh Ngoại bớt phần chạy vạy đóng góp cúng tế vô bổ.

Hưởng ứng phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, cơ sở cách mạng ở các làng Phong Cốc, Thử Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, Ngọc Trung đã tổ chức in truyền đơn cung cấp cho cơ sở cách mạng ở Thọ Xuân, Yên Định, Vĩnh Lộc. Đồng chí Nguyễn Xuân Thúy đã giao nhiệm vụ cho các đồng chí Nguyễn Xuân Oanh, Trịnh Văn Tiêu rải truyền đơn từ Cầu Vàng đến Hổ Bái [Yên Định]. Sáng 1-5-1931, quần chúng lao động khu vực nói trên truyền tay nhau truyền đơn cộng sản.

Phong trào đấu tranh hưởng ứng Xô Viết Nghệ Tĩnh của quần chúng cách mạng Thọ Xuân đã góp phần cùng quần chúng cách mạng các phủ, huyện: Tĩnh Gia, Quảng Xương, thành phố Thanh Hóa, Đông Sơn tạo ra tiếng vang lớn.

Giữa năm 1931, quân thù tập trung lực lượng tiến hành vây quét khủng bố tổ chức Đảng và cơ sở cách mạng trong tỉnh. Hầu hết cán bộ, đảng viên và một bộ phận quần chúng cách mạng bị địch bắt kết án tù đầy. Về mặt tổ chức, Đảng bộ bị tan rã nhưng mục đích lý tưởng chiến đấu của Đảng đã thấm vào trái tim, khối óc của quần chúng cần lao, nhờ đó quần chúng đã tự nguyện đấu tranh phục hồi lại Đảng bộ, tự nguyện phần đấu trở thành đảng viên để chiến đấu cho mục đích lý tưởng cao đẹp của Đảng trở thành hiện thực sinh động.

Sau một thời gian tìm cách chắp nối liên lạc, tháng 8-1932, đồng chí Lê Chủ, Hoàng Văn Mạch, Trịnh Khắc Sản đã triệu tập hội nghị đại diện của 7 cơ sở cách mạng trong tỉnh tại làng Yên Lộ [Thiệu Hóa] để đánh giá tình hình cách mạng và đề ra chủ trương công tác và cử đồng chí Lê Chủ, Hoàng Văn Mạch chịu trách nhiệm theo dõi tình hình liên lạc với Đảng.

Thực hiện chủ trương của hội nghị, với tinh thần chủ động sáng tạo nhiều cơ sở cách mạng ở Thọ Xuân, đặc biệt là cơ sở cách mạng ở Thuần Hậu, Phong Cốc [Xuân Minh], Long Linh [Thọ Trường], Phúc Bồi [Thọ Lập]... tiếp tục tuyên truyền cách mạng, tổ chức đấu tranh chống khủng bố trắng.

Khu vực Phong Cốc - Thuần Hậu - Xá Lê - Ngọc Trung, hầu hết đảng viên và cán bộ chủ chốt của Nông Hội đỏ bị địch bắt cầm tù nhưng đông đảo quần chúng cách mạng vẫn giữ vững lòng tin vào sự phục hồi của Đảng. Vào giữa năm 1932, các tổ chức Nông Hội đỏ đã phục hồi và hoạt động tích cực ở các làng Thuần Hậu, Phong Cốc, Xá Lê, Ngọc Trung, Long Linh, Căng Hạ, Phúc Bồi, Lê Nghĩa.. các cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột của quần chúng lại tiếp tục diễn ra. Tại làng Long Linh Ngoại, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trịnh Khắc Sản “Hội Nông dân nghèo" đã kịp thời đổi thành “Hội Họ Bạn" hoạt động công khai hợp pháp thu hút đông đảo quần chúng vào trận tuyến đấu tranh. Tại Mỹ Lý [Bắc Lương], do bị áp bức bóc lột tàn bạo, nhân dân lao động rất căm thù bọn chức dịch địa phương. Nhân việc bọn chức dịch bắt dân phu đi đào mương, các chiến sỹ cách mạng đã bố trí cho thanh niên, trong đó có anh Lê Văn Biên trừng trị tên Hào xếp khét tiếng gian ác. Sau sự kiện này bọn hào lý không dám hống hách, chèn ép nhân dân lao động. Tại làng Thuần Hậu, tháng 8-1933 năm mươi quần chúng cách mạng đã tổ chức viết giấy và cùng ký tên để vay thóc nhà giàu cứu đói trong kỳ giáp hạt. Trước sức mạnh đấu tranh kiên cường của quần chúng, bọn chức dịch và địa chủ trong làng buộc phải cho vay 110 thùng thóc [tương đương 1.100kg].

Phong trào đấu tranh của quần chúng cách mạng trong tỉnh và trong phủ Thọ Xuân ngày càng phát triển mạnh mẽ. Điều đó đặt ra yêu cầu nhanh chóng khôi phục sự lãnh đạo của Đảng..

Tháng 2-1934, các đồng chí Lê Chủ, Bùi Đạt đã liên hệ được với đồng chí Nguyễn Tạo tại làng Ngô Xá Hạ [Thiệu Hóa] một trong những chiến sỹ cộng sản vượt ngục Hỏa Lò Hà Nội do cụ Đinh Chương Dương giới thiệu. Ngày 28-2- 1934, các đồng chí tổ chức hội nghị tại làng Yên Lộ đánh giá tình hình và định ra chương trình hành động nhằm củng cố khôi phục lại Đảng bộ và phong trào cách mạng tỉnh nhà. Sau đó các đồng chí mở lớp huấn luyện chính trị cho 9 đồng chí cán bộ chủ chốt tại nhà đồng chí Lê Chủ vào ngày 12-3-1934.

Trên cơ sở đó, ngày 17-3-1934, các đồng chí Nguyễn Tạo, Bùi Đạt đã tổ chức hội nghị cán bộ chủ chốt của các cơ sở cách mạng tuyên bố thành lập Tỉnh ủy Lâm thời tại nhà ông Đỗ Huy Trinh làng Thuần Hậu [Xuân Minh, Thọ Xuân] gồm các đồng chí: Lê Chủ, Bùi Đạt, Trịnh Khắc Sản, Trịnh Hiếu Thường, Hoàng Văn Mạnh, Lê Đình Ân và các đồng chí Đễnh [tác Mạc]. Như vậy là cơ sở cách mạng Thọ Xuân đã có 3 người con ưu tú là Trịnh Hữu Thường, Trịnh Khắc Sản, Lê Đình Ân trở thành Tỉnh ủy viên.

Đầu tháng 4-1934, đồng chí Lê Đình Ân đã kết nạp thêm 3 quần chúng tích cực vào Đảng và tuyên bố thành lập chi bộ Phúc Bồi gồm 4 Đảng viên [1] do đồng chí Lê Đình Ân làm Bí thư.

Chi bộ Phúc Bồi ra đời là sự kiện trọng đại đánh dấu bước phát triển mới. Từ đây phong trào cách mạng Thọ Xuân lại tiếp tục có Đảng lãnh đạo trực tiếp sẽ phát triển sâu rộng và đúng hướng. Chi bộ Phúc Bồi sẽ cùng các chi bộ Yên Lộ, Ngô Xá Hạ, Ngô Xá Thượng, Mao Xá, chi bộ ghép Vĩnh Lộc - Thạch Thành... tạo ra hệ thống cơ sở vững chắc của Đảng bộ Thanh Hóa vào giữa năm 1934.

Sau khi Đảng bộ Thanh Hóa được phục hồi, quân thù vẫn tiếp tục tiến hành khủng bố. Thanh tra mật thám Bắc Kỳ Ru-Ăng [Rouan], cùng với Duy- Đi-Xen-Li [Judicelli] phó mật thám Thanh Hóa đã huy động lực lượng vây bắt các đồng chí lãnh đạo và cán bộ đảng viên của Đảng bộ. Do chấp hành nghiêm túc nguyên tắc hoạt động bí mật của Đảng, địch không phát hiện được cơ sở của Đảng bộ nên cuối cùng phải trả tự do cho đồng chí Lê Chủ, Bùi Đạt và các đồng chí khác.

Tuy một số đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Tỉnh ủy bị bắt nhưng với tinh thần chủ động sáng tạo, các chiến sỹ cộng sản vẫn duy trì sự hoạt động của Đảng bộ và phong trào cách mạng.

Tại Thọ Xuân, mặc dù quân thù điên cuồng lùng sục, nhưng với sự cưu mang giúp đỡ, bảo vệ của quần chúng cách mạng, báo "Hồn lao động" cơ quan ngôn luận của Đảng bộ tỉnh, do đồng chí Trịnh Khắc Sản, Tỉnh ủy viên phụ trách đã được in xuất bản 7 số [từ số 1 đến số 7] tại nhà đồng chí Trịnh Văn Ích [tức Thu Lợi] làng Long Linh Ngoại. Bọn địch đánh hơi được nơi in ấn tờ Báo đã tập trung lực lượng về làng Long Linh Ngoại lùng sục và khám xét nhà đồng chí Trịnh Khắc Sản. Được quần chúng tìm cách bảo vệ, cơ quan in báo đã kịp thời chuyển về vị trí mới an toàn.

Cùng với bảo vệ cơ quan Tỉnh ủy, trong những năm 1934-1935, phong trào cách mạng ở Thọ Xuân tiếp tục phát triển sâu rộng. Tại các cơ sở Long Linh, Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, Vực Trung, Vực Thượng, Phúc Bồi, Phú Hào, Phú Liễm... chiến sĩ cộng sản đã chỉ đạo thành lập Hội ái hữu để tập hợp quần chúng vào trận tuyến đấu tranh chống áp bức bóc lột, bãi bỏ các hủ tục lạc hậu, mở các lớp bình dân dạy chữ quốc ngữ cho quần chúng lao khổ. Phong trào học chữ quốc ngữ đã góp phần nâng cao tinh thần đoàn kết tương trợ, nâng cao trình độ và giác ngộ cách mạng cho hàng ngàn quần chúng lao khổ.

Tháng 2-1935, các chiến sỹ cộng sản đã chỉ đạo tổ chức hội nghị thành lập Hội Phụ nữ giải phóng tại làng Long Linh Ngoại. Cơ sở cách mạng trong các khu vực ở Thọ Xuân đã cử cán bộ nữ tham gia Hội và tổ chức lực lượng bảo vệ an toàn cho hội nghị. Hội nghị đã bầu Ban lãnh đạo Hội và đề ra chương trình vận động phụ nữ tỉnh tham gia cách mạng. Hội nghị thành công đã trực tiếp cổ vũ phụ nữ Thọ Xuân xuống đường đấu tranh chống áp bức bóc lột, đòi quyền bình đẳng nam nữ.

Hưởng ứng cuộc mít tinh của quần chúng cách mạng Yên Định tại Chùa Bút đòi chính quyền cho nhân dân tự do mở trường tư thục, hàng ngàn quần chúng cách mạng Thọ Xuân đã tham dự. Riêng vùng Thử Cốc [Xuân Minh] đã có 100 quần chúng tham gia cuộc mít tinh này.

Tại tổng Quảng Yên: đồng chí Lê Đình Ân đã tổ chức hội nghị mở rộng [gồm đảng viên và một số quần chúng tích cực] phổ biến chủ trương của Tỉnh ủy về việc thành lập Ban vận động cách mạng và tổ chức Hội ái hữu nhằm đoàn kết các tầng lớp.

Sau hội nghị các chiến sỹ cách mạng đã tổ chức cho công nhân đồn điền Vạn Lại đấu tranh đòi tăng tiền công giảm giờ làm, tổ chức chỉ đạo nhân dân trong vùng đấu tranh đòi khất thuế, giảm thuế. Trên cơ sở phong trào đấu tranh của quần chúng, các chiến sĩ cách mạng đã lựa chọn nhân tố tích cực vận động thành lập Hội ái hữu và Ban vận động cách mạng.

Tháng 11-1935, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Mậu Sung nhóm “Tích cực” ở khu vực Nam Thượng [Tây Hồ] được thành lập. Nhóm này gồm có 7 đồng chí do Hoàng Văn Phúc phụ trách. Sau một thời gian đã phát triển thêm một số quần chúng tích cực. Nhóm “Tích cực” sau này trở thành lực lượng nòng cốt của Hội “Tương tế ái hữu”.

Tháng 12-1935, đồng chí Nguyễn Mậu Sung đã lựa chọn quần chúng tích cực thành lập nhóm "Cốt cán bí mật". Nhóm này là lực lượng nòng cốt trong Hội Tương Tế ái hữu và phong trào đấu tranh của quần chúng cách mạng.

Sau 5 năm kiên cường bền bỉ đấu tranh, quần chúng cách mạng Thọ Xuân đã xây dựng lại chi bộ cộng sản góp phần khôi phục Đảng bộ Thanh Hóa, phong trào đấu tranh cách mạng trong huyện có Đảng lãnh đạo trực tiếp phát triển mở rộng. Đó chính là tiền đề và điều kiện cơ bản tiến vào thời kỳ cách mạng mới sôi sục.

III- CHI BỘ ĐẢNG LÃNH ĐẠO CAO TRÀO ĐẤU TRANH

ĐÒI DÂN SINH, DÂN CHỦ, CHỐNG CHỦ NGHĨA PHÁT XÍT

VÀ NGUY CƠ CHIẾN TRANH THẾ GIỚI [1936-1939]

Sau khủng hoảng kinh tế [1929-1933] cục diện chính trị thế giới chuyển biến sâu sắc: Chủ nghĩa phát xít hình thành các thế lực phát xít lên cầm quyền ở các nước Đức - Ý - Nhật và ráo riết chuẩn bị điều kiện gây chiến tranh chia lại thị trường thế giới... Trước tình hình đó Quốc tế Cộng sản đã tổ chức hội nghị lần thứ VII kêu gọi nhân dân yêu chuộng hòa bình công lý trên toàn thế giới đoàn kết đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới. Tại Pháp, lực lượng dân chủ tiến bộ lên cầm quyền, vì vậy bọn phản động thuộc địa Pháp phải nới lỏng quyền tự do dân chủ... Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta phải chuyển hướng chỉ đạo chiến lược thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển.

Tháng 7-1936, Trung ương Đảng hội nghị tại Thượng Hải [Trung Quốc] chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Dân tộc, dân chủ" đoàn kết mọi lực lượng chống chủ nghĩa phát xít đòi dân sinh dân chủ dưới các hình thức đấu tranh công khai và bán công khai.

Vào những năm 1935-1936, tình hình kinh tế Thanh Hóa có bước phát triển đôi chút nhưng đời sống của công nhân, nông dân cực khổ hơn bao giờ hết vì bị áp bức bóc lột nặng nề. Nông dân lao động Thọ Xuân cũng không thoát khỏi tình cảnh chung của nhân dân trong tỉnh. Trong bức thư của nhà báo Nguyễn Văn Huệ viết từ Thanh Hóa gửi cho “Thời báo Thanh niên cấp tiến” vào tháng 12-1937 có đoạn: “Trong hai ngày trời Huệ cùng mấy bạn trong này đi khắp phủ Thọ, độc giả ở đây thuộc giai cấp dân cày nghèo - Họ ăn cơm gạo đỏ với rau diếp chấm tương mà không được no... Thực có về nhà quê mới hiểu được tình cảnh của anh dân nghèo điêu linh khổ cực tới bậc nào" [1]. Chính vì cuộc sống điêu linh cực khổ như vậy, nhân dân Thanh Hóa, nhân dân Thọ Xuân theo Đảng đấu tranh giành lại quyền sống làm người.

Mặc dù, chưa liên hệ được với Trung ương Đảng và Xứ ủy nhưng căn cứ vào tinh thần chỉ đạo của Đảng in trên báo công khai, Tỉnh ủy đã tổ chức hội nghị mở rộng tại làng Yên Lộ [Thiệu Hóa] vào tháng 12-1930 để bàn chủ trương giải pháp tổ chức đấu tranh công khai và bán công khai chống chính quyền thực hiện dân phong kiến ​​đòi dân sinh dân chủ.

Tại Thọ Xuân: Các đồng chí Trịnh Hữu Thường - Tỉnh ủy viên và Nguyễn Mậu Sung được Tỉnh ủy phân công phụ trách phong trào cách mạng Thọ Xuân. Các đồng chí đã liên hệ với những cán bộ, Đảng viên bị thực dân Pháp quản thúc ở địa phương tìm cách xây dựng phát triển Hội Tương tế ái hữu tổ chức phong trào đấu tranh của quần chúng.

Dưới sự chỉ đạo của các chiến sĩ cộng sản, phụ nữ Nam Thượng đã tổ chức Hội nghị vào tháng 1-1936 thành lập Ban vận động xây dựng Hội Phụ nữ [1] và đề ra chủ trương giải pháp tổ chức đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, đòi quyền bình đẳng nam nữ.

Sau hội nghị, phụ nữ Nam Thượng đã tích cực tham gia các cuộc đấu tranh ở địa phương, tham gia Hội Tương Tế ái hữu. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh hạ uy thế của tên địa chủ cường hào gian ác Nguyễn Xuân Vinh.

Tháng 3 năm 1936 bọn tây đoan vào làng Phong Cốc bắt rượu lậu và phát hiện cơ sở cách mạng. Mượn cớ là chưa đem lệnh khám xét báo cho lý trưởng thì không được khám xét, nhân dân kiên quyết đấu tranh ngăn chặn hành động của quân thù. Bọn địch đã dùng vũ khí đàn áp cuộc đấu tranh, quần chúng lao vào đánh trả. Tên tây đoan Béc Nác-Đê, bắn chết lý trưởng. Quần chúng đấu tranh đến cùng, buộc bọn thống trị phải tuyên án phạt tên sát nhân 5 tháng tù, những người bị bắt được trả tự do. Đấu tranh thắng lợi đã tạo ra tiếng vang lớn.

Đồn điền Vạn Lại [Xuân Châu] của tên tư bản Pháp chuyên trồng cà phê, chè và chăn nuôi gia súc. Tên chủ trả lương cho công nhân và những người làm khoán rất thấp thường xuyên đánh đập cúp phạt...

Dưới sự chỉ đạo của các chiến sĩ cộng sản, ngày 7-7-1936, những người làm thuê và công nhân đã kéo lên chủ đồn điền đòi tăng lương và tiền khoán. Bọn chủ cho tay chân đàn áp nhưng anh chị em lao động vẫn đoàn kết đấu tranh làm cho công việc tại đồn điền đình trệ. Sau 2 tháng đấu tranh liên tục, bọn chủ phải tăng lương và mức công theo việc cho lực lượng lao động tại đồn điền.

Nhân đà thắng lợi, các chiến sĩ cộng sản đã chỉ đạo xây dựng Hội Tương tế ái hữu trong công nhân và cử đồng chí Nguyễn Văn Chức phụ trách.

Được đồng chí Nguyễn Mậu Sung hướng dẫn, chỉ đạo, tháng 7-1936 các đồng chí Nguyễn Đức Nghi, Đỗ Hàm, Vũ Khoan đã tổ chức nhóm đọc sách báo cách mạng tại Quảng Thi [Xuân Thiên]. Tại đây các đồng chí đã mở hiệu cắt tóc và hiệu may làm nơi liên lạc và chuẩn bị điều kiện xây dựng Hội Tương tế ái hữu.

Tháng 6-1936, với sự hướng dẫn chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Mậu Sung, đồng chí Lê Đình Dương đã tổ chức hội nghị cơ sở cách mạng ở Yên Lược phổ biến chủ trương của Đảng tiến tới thành lập Hội Tương tế ái hữu do đồng chí Dương phụ trách.

Tại Nam Thượng, đồng chí Nguyễn Mậu Sung cũng chỉ đạo thành lập Hội Tương tế ái hữu cử đồng chí Hoàng Văn Phúc phụ trách. Tháng 8-1936 Hội Tương Tế ái hữu hoạt động công khai hợp pháp.

Tại Phong Bái và Vân Lộ, đồng chí Trịnh Hữu Thường và Lê Xuân Tuyên chỉ đạo thành lập Hội Tương tế ái hữu và vận động quần chúng góp vốn mở cửa hàng buôn bán để gây qũy và làm cơ sở liên lạc. Ở Vân Lộ, Hội đã tổ chức làm 4 ngôi nhà cho hội viên nghèo, đưa người của Hội giành chức lý trưởng. Ở Phong Bái tổ chức may quần áo cho hội viên nghèo, tập trung ruộng đất trâu bò cày cấy chung.

Tính đến cuối năm 1936, Hội Tương Tế ái hữu đã được thành lập ở Phúc Bồi, Quần Kênh, Canh Hoạch, Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, Trung Lập, Diên Hào... Dưới sự chỉ đạo của các chiến sĩ cộng sản, Hội đã thực hiện xuất sắc vai trò tập hợp đoàn kết các tầng lớp nhân dân giúp đỡ tương trợ nhau trong sản xuất và đời sống, tổ chức đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ, chống áp bức bóc lột, đưa phong trào cách mạng trong những năm 1936-1939 từ thấp lên cao, từ quy mô làng xã tiến lên quy mô cả tổng, cả huyện, từ đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế tiến tới đấu tranh chính trị, từ phong trào nhỏ lẻ tiến tới cao trào.

Mở đầu phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới trong năm 1937 là cuộc vận động "Đón Gô Đa" đưa bản thỉnh nguyện lên chính phủ Pháp của nhân dân trong phủ Thọ Xuân.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, các chiến sĩ cộng sản Thọ Xuân đã tích cực chỉ đạo Hội Tương Tế các làng, tổng vận động nhân dân ký vào bản thỉnh nguyện đòi quyền dân sinh dân chủ. Tổng Nam Dương, đơn vị đầu tiên trong phủ đã đẩy mạnh cuộc vận động quần chúng các làng Mỹ Lý, Trung Vực, Quân Bình, An Lạc, Nam Thượng ký vào bản thỉnh nguyện. Riêng làng Mỹ Lý đã có gần 1.000 chữ ký, trong đó có cả chữ ký của lý trưởng.

Tiếp sau là cuộc đấu tranh của chị em Phong Cốc. Do thiếu ruộng đất, chị em phụ nữ các làng Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, Ngọc Trung... phải đi cấy thuê và bị địa chủ trả công rẻ mạt. Vụ mùa 1937, Hội Tương Tế ái hữu trong khu vực đã tổ chức cho chị em đấu tranh đòi địa chủ phải tăng tiền công. Nhờ đó bọn địa chủ phải tăng từ 2 bát lên 3 bát gạo và tổ chức ăn uống tử tế. Nhân đà thắng lợi Hội Tương tế ái hữu chủ trương tổ chức đấu tranh hạ uy thế của lý trưởng và bọn cường hào. Nhân buổi tế nghè Phong Cốc, Hội vận động không chia phần xôi thịt cho lý trưởng vì không đến dự lễ. Cậy thế lý trưởng quát nạt, chửi bới, Hội Tương Tế ái hữu đã bố trí thanh niên trong làng đánh cho lý trưởng một trận ra trò. Từ đó uy thế bọn chức sắc cường hào sâu mọt ở Phong Cốc, Xá Lê bị hạ thấp.

Tiếp theo là cuộc đấu tranh của quần chúng Yên Lược, vụ mùa năm 1937, đồng chí Lê Mậu Thúy - hội viên Hội Tương Tế ái hữu được chia 5 sào ruộng công thuộc loại nhất đảng điền. Cha con cai Cò tuyên bố với Hội đồng hào mục sẽ cắt khẩu phần ruộng của đồng chí Thúy để chia cho con trai của hắn vì lý do vừa thi đậu Primaire. Trước hành vi trắng trợn của cha con cai Cò, Hội Tương Tế ái hữu đã tổ chức cho quần chúng đấu tranh, đồng chí Thúy đã giành được phần ruộng của mình.

Tại đồn điền Mã Hùm với bản chất tham lam tàn bạo, những tên chủ Pháp quản lý đồn điền Mã Hùm cho đặt bốt trên đường vào rừng đánh thuế những người vào rừng lấy củi. Nếu ai không có tiền sẽ bị đánh đập và mất củi. Tháng 8-1937, Hội Tương Tế Phấn Thôn và Hương Nhượng [Thọ Hải] đã vận động bà con đi lấy củi dùng dao, búa, đòn gánh vây đánh, buộc bọn chủ đồn điền phải bỏ thứ thuế vô lý ấy. Tương tự như sự kiện chống bọn chủ Pháp thu thuế ở đồn điền Mã Hùm. Hội Tương Tế ái hữu Quảng Thi [Xuân Thiên] đã tổ chức cho nhân dân lao động chống lại bọn lang đạo thu thuế, than củi thắng lợi.

Tại làng Long Linh Ngoại vì nghèo đói nhiều hộ nông dân làng Long Linh Ngoại phải đi làm ruộng rẽ của địa chủ các làng bên cạnh. Vừa phải trả công ruộng quá cao, vừa bị tuần đinh các làng cậy thế gần làng thu lúa tuần [lúa bảo vệ] gấp nhiều lần. Trước tình cảnh ấy, Hội Tương Tế Long Linh Ngoại đã tổ chức cho bà con đấu tranh buộc bọn tuần đinh không được thu quá mức quy định.

Bọn chức sắc làng Phúc Thượng [Xuân Hòa] lợi dụng quyền thế chiếm ruộng công làm ruộng riêng, trong khi nhiều hộ nông dân trong làng không có ruộng cày cấy. Tháng 9-1937, Hội Tương Tế làng Phúc Thượng đã tuyên truyền vận động tổ chức quần chúng đấu tranh đòi chia lại công điền, công thổ, chống phu phen, tạp dịch. Trước sức mạnh đoàn kết đấu tranh của quần chúng, bọn chức dịch phải trả lại hàng chục mẫu ruộng, quần chúng lao động mỗi người được chia 2 thước.

Tại vùng Bàn Thạch, tháng 10-1937, Tri phủ Thọ Xuân bắt nhân dân quanh vùng Bàn Thạch đào vét âu thuyền Bàn Thạch. Công việc gần xong nhưng dân phu không nhận được tiền công. Hội Tương Tế Quần Kênh đã tổ chức cho dân phu lên phủ đường đòi tiền. Trước khí thế đấu tranh hừng hực của quần chúng bọn thống trị phải trả số tiền công định quỵt.

Tại Phúc Bồi, Nguyễn Thị Dậu, chủ ấp ở Phúc Bồi khét tiếng tham lam gian ác. Đầu năm 1937, thị Dậu ốm chết, Hội Tương Tế ái hữu Phúc Bồi đã tổ chức cho nhân dân đấu tranh không cho chôn xác trong vườn và đòi lại những gì đã chiếm đoạt của của nhân dân. Trước sức mạnh của nhân dân, gia đình thị Dậu đã phải trả lại 30 mẫu ruộng và 30 con trâu đã chiếm đoạt của nông dân.

Tại Mỹ Lý, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trịnh Hữu Thường và Trịnh Ngọc Phớc, Hội Tương Tế ái hữu đã vận động quần chúng bỏ phiếu cho người cách mạng giới thiệu trúng cử lý trưởng. Tương tự, Hội Tương Tế ái hữu Quần Kênh đã tổ chức đấu tranh truất bỏ tên lý trưởng gian ác, bầu người cách mạng giới thiệu thay chức lý trưởng.

Chống hủ tục đồi bại, cải lương hương tục nâng cao dân trí là một trong những nội dung mà các chiến sĩ cộng sản Thọ Xuân đã tích cực vận động nhân dân đấu tranh. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh đòi cải lương hương tục ở Trung Lập [Xuân Lập] với những nội dung tiến bộ: Giảm phần ruộng công cấp cho bọn chức dịch, bỏ hủ tục chè chén lễ tết phiền hà tốn kém trong ma chay, cưới xin, lễ tết, giúp đỡ nhau khi mỗi gia đình có việc vui buồn, giữ vệ sinh và trật tự thôn xóm. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của nhân dân Nam Thượng đòi bọn chức dịch trong làng bỏ tệ nạn xôi thịt chè chén, chống đóng góp tiền của cỗ bàn tế lễ, mở rộng phong trào truyền bá chữ quốc ngữ.

Năm 1938, phong trào đấu tranh công khai hợp pháp và nửa hợp pháp của quần chúng cách mạng phủ Thọ Xuân bắt đầu chuyển lên cao trào. Cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột diễn ra hầu khắp các làng tổng. Các cuộc đấu tranh mang tính chất chính trị - xã hội liên tục bùng nổ, lực lượng tham gia cách mạng ngày càng đông, khí thế và trình độ cách mạng ngày càng dâng cao, nhiều chi bộ Đảng và tổ chức cách mạng được thành lập.

Tại Trung Vực: Đồng chí Trịnh Ngọc Phớc cùng với Hội Tương Tế ái hữu tổ chức cho quần chúng đấu tranh chống phu phen tạp dịch và không đi đắp con đường vào ấp của tri phủ Khiếu Hữu Kiều.

Tại Phong Bái [thuộc Bát Căng Thọ Nguyên], cơ sở cách mạng đã vận động quần chúng chống lý trưởng và bọn cường hào, buộc bọn chúng phải giảm nhẹ thuế phụ canh cho nông dân.

Tiếp đến là cuộc đấu tranh của nhân dân Quần Kênh - Nam Thượng và nhiều làng tổng trong phủ chống chủ ấp Điền Trạch, tên cố đạo tham lam tàn bạo đã tổ chức trạm gác thu thuế và đánh đập những người đi lấy củi. Tháng 8-1938 một số nông dân nghèo khổ vào rừng lấy củi đi qua ấp, vì không có tiền nộp thuế đã bị bọn bảo vệ ấp bắn bị thương 2 người. Căm phẫn trước hành động tàn bạo của tên chủ ấp, cơ sở cách mạng Quần Kênh, Nam Thượng đã tổ chức đấu tranh buộc chủ ấp phải xử tù tên bảo vệ bắn bị thương người vô tội và phải giải phóng khu rừng Điền Trạch cho nhân dân tự do lấy củi, đốt than. Tri phủ Khiếu Hữu Kiều đứng ra can thiệp nhưng hàng trăm người dân Quần Kênh, Nam Thượng, Quân Bình, Hội Hiền kiên quyết vây ấp, cuối cùng tên chủ ấp phải thực hiện yêu cầu của nhân dân. Đặc biệt là cuộc đấu tranh của hàng ngàn quần chúng tổng Thử Cốc đòi tiền hưng công đại chẩn [tiền công đắp đường]. Nhân dịp tri phủ Thọ Xuân hành hạt về tổng Thử Cốc, dưới sự lãnh đạo của Hội Tương tế ái hữu quần chúng tập trung đón y và đưa ra yêu sách: đòi dân sinh dân chủ, cải cách hương tục, đòi tiền đắp đường từ năm 1937 mà bọn chức sắc định biển thủ. Cuối cùng tri phủ Phan Văn Kỷ đã trả lại tiền công đắp đường và thực hiện cải lương hương tục.

Nhân đà thắng lợi, quần chúng các làng: Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, Ngọc Trung đã làm đơn đòi chính quyền cho nhân dân được khất thuế lưu động. Trước sức mạnh của quần chúng bọn thống trị phải chấp nhận. Phong trào khất thuế lưu động của quần chúng tổng Thử Cốc thắng lợi đã khích lệ quần chúng Thiệu Hóa, Yên Định tổ chức đấu tranh đòi khất thuế.

Tiếp sau cuộc đấu tranh đòi khất thuế, quần chúng tổng Thử Cốc, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Đỗ Đan Quế lại tiếp tục đấu tranh bắt bọn thống trị phải trả tiền đắp đê quai xanh tại Cống Quanh. Bất chấp binh lính và sự uy hiếp bằng vũ lực của quân thù, quần chúng vẫn cương quyết đấu tranh, cuối cùng tri phủ và chủ thầu phải trả tiền công cho dân phu.

Phong trào đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế phát triển lên những mức độ cao hơn. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, các chiến sĩ cộng sản Thọ Xuân đã chỉ đạo Hội Tương Tế ái hữu vận động nhân dân trong huyện đấu tranh chống luật "Dự án thuế thân mới". Luật "Dự án thuế thân mới" thực chất là tăng thuế từ 2,7 đồng Đông Dương lên 3.6 đồng Đông Dương cho một dân đinh trong một năm. Thuế thân là thứ thuế bất công vô lý đáng lẽ phải phế bỏ nhưng bọn thống trị lại tìm cách nâng cao. Hiểu rõ tính chất bất công vô lý đó, quần chúng khắp phủ Thọ Xuân mà tiêu biểu là các thôn làng: Nam Thượng, Mỹ Lý, Quần Kênh, Phong Bái, Phúc Bồi, Yên Trường, Long Linh, Chợ Thạc đã ký vào các bản dân nguyện gửi lên Viện dân biểu Trung Kỳ bác bỏ luật “Dự án thuế thân mới" và tiếp theo là đấu tranh bác bỏ luật "Dự án thuế điền thổ". Riêng làng Long Linh Ngoại đã có 300 quần chúng ký vào bản dân nguyện gửi lên Viện dân biểu Trung Kỳ.

Nhân đà thắng lợi, nhiều làng trong phủ tổ chức đấu tranh chống các loại thuế vô lý. Quần chúng làng Trung Lập [Xuân Lập] đấu tranh đòi bỏ thuế chợ xép, quần chúng làng Yên Lược đấu tranh đòi xóa bỏ thuế củi mà bọn chủ đồn điền Khe Ngang - Vạn Lại quy định.

Từ các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế, các chiến sĩ cộng sản phủ Thọ Xuân đã liên tiếp tổ chức chỉ đạo các cuộc đấu tranh mang ý nghĩa chính trị xã hội rộng lớn.

Tiêu biểu là cuộc vận động ủng hộ nhân dân Trung Hoa kháng chiến chống Nhật nhân ngày song thất [7-7] hàng năm. Kế tiếp cuộc mít tinh của quần chúng cách mạng tổng Thử Cốc tổ chức tại cánh đồng Mã Nung do đồng chí Đỗ Đông Uyên diễn thuyết vào ngày 7-7-1937 là cuộc vận động ủng hộ nhân dân Trung Hoa của quần chúng cách mạng toàn phủ Thọ Xuân.

Cuộc vận động diễn ra ở tất cả các làng tổng do Hội Tương Tế ái hữu chủ trì. Hàng ngàn quần chúng cách mạng đã viết thư, đã ủng hộ tiền của động viên các chiến sĩ Trung Hoa chiến đấu. Tiếp sau là cuộc mít tinh của quần chúng tổng Thử Cốc ủng hộ chiến sĩ và nhân dân Trung Hoa nhân kỷ niệm Quảng Châu công xã [12-12].

Tiến lên những cung bậc mới, các chiến sĩ cộng sản đã tổ chức nhiều cuộc mít tinh đưa ra những khẩu hiệu đấu tranh mới. Đó là: Cuộc mít tinh tại núi Khoai [Yên Định] do Tỉnh ủy tổ chức, hàng ngàn quần chúng tổng Thử Cốc tham dự. Cuộc mít tinh phản đối chiến tranh đế quốc ở Can Lộc do đồng chí Trịnh Hữu Thường chỉ đạo, hàng ngàn quần chúng trong huyện đã tham dự cuộc mít tinh hô vang các khẩu hiệu: “Phản đối chiến tranh phát xít", "không đi lính cho Pháp"...

Từ phong trào đấu tranh sôi sục của quần chúng, cơ sở cách mạng và tổ chức Đảng Thọ Xuân phát triển mở rộng.

Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, giữa năm 1938, đồng chí Trịnh Hữu Thường được cử về Thọ Xuân cùng với đồng chí Hoàng Sĩ Oánh tổ chức hội nghị thành lập Ủy ban vận động cách mạng phủ Thọ Xuân. Hội nghị quyết định thành lập Ban chỉ đạo gồm 5 đồng chí: Trịnh Hữu Thường, Hoàng Sĩ Oánh, Nguyễn Mậu Sung, Lê Khánh Việp, Nguyễn Văn Anh. Sau một thời gian hoạt động, Ban chỉ đạo đã tích cực xây dựng củng cố phát triển Hội Tương tế ái hữu, chỉ đạo đưa người của cách mạng nắm giữ các chức vụ của chính quyền địch ở làng xã để dễ bề hoạt động, tích cực tổ chức các phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ trên địa bàn toàn huyện.

Tại tổng Thử Cốc, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt đã tổ chức hội nghị cán bộ chủ chốt Hội Tương Tế ái hữu các làng trong tổng quyết định thành lập Ban vận động cách mạng tổng Thử Cốc do đồng chí Trịnh Ngọc Điệt phụ trách.

Tại làng Long Linh Ngoại, các chiến sĩ cộng sản đã thành lập “Hội Kỳ Anh" để thu hút các cụ cao niên tham gia cách mạng. Thông qua các cụ, nhiều chủ trương của Hội Tương Tế ái hữu đã trở thành phong trào cách mạng của quần chúng. Tiến lên một bước, các chiến sĩ cách mạng đã vận động nhân dân đem tờ kiểm tra tội trạng của lý Sinh lên phủ đòi phủ cho Sinh thôi chức lý trưởng. Sự việc không thành nhưng từ đó lý Sinh không dám ngang ngược như trước.

Tại Quần Kênh: Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, đáp ứng nguyện vọng của quần chúng, Ban vận động cách mạng Quần Kênh đã tiến hành xây dựng tổ chức Thanh niên dân chủ và tổ chức phụ nữ dân chủ để tập hợp thanh niên và phụ nữ vào trận tuyến đấu tranh. Hoạt động của các tổ chức quần chúng đã làm tăng thêm sức mạnh trong Hội Tương tế ái hữu.

Tại Phúc Bồi: Lý trưởng Hoàng Văn Toản được sắc phong cửu phẩm. Toản đã cho tay chân bắt dân làng lên phủ đón sắc phong nhằm đề cao uy thế để dễ bề áp bức bóc lột. Các chiến sĩ cộng sản Phúc Bồi đã cùng Hội Tương Tế ái hữu bố trí cho dân làng cứ việc ăn uống cổ bàn tại nhà lý Toản nhưng không một ai chịu đi rước sắc phong.

Tại làng Nam Thượng: Lý trưởng Đinh Văn Cẩn tự ý thu lạm thuế, Hội Tương Tế ái hữu đã vận động nhân dân viết đơn kiện gửi lên tri phủ. Với những bằng chứng xác thực lý Cẩn bị bãi chức. Lợi dụng việc bầu lý trưởng mới, Hội Tương Tế ái hữu đã vận động nhân dân bầu người của cách mạng giới thiệu.

Tại tổng Thử Cốc: Chính quyền thực dân phong kiến cho phép nhân dân bầu cử Hội đồng hương chính để mị dân. Lợi dụng vào đó các chiến sĩ cộng sản đã vận động nhân dân bầu những người của cách mạng vào Hội đồng hương chính ở các làng.

Tại làng Vân Lộ: Các chiến sĩ cộng sản đã tổ chức cho nhân dân đấu tranh đánh đổ lý trưởng Võ Bá Toản, một tên cường hào gian ác và sâu mọt, sau đó đã bầu ông Lê Xuân Khương, người của cách mạng giới thiệu làm lý trưởng Vân Lộ [Thọ Nguyên]. Lý trưởng Lê Xuân Khương trong nhiều năm đã cùng với quần chúng đấu tranh trì hoãn thuế khóa, chống các chính sách áp bức bóc lột của chính quyền thực dân phong kiến.

Từ trong phong trào cách mạng, nhiều quần chúng ưu tú, trung kiên giác ngộ lý tưởng cộng sản đã được lựa chọn kết nạp vào Đảng Cộng sản.

Tại làng Long Linh Ngoại, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, đồng chí Trịnh Khắc Sản đã lựa chọn kết nạp 4 quần chúng vào Đảng và ngày 29- 6-1938 tổ chức hội nghị thành lập chi bộ cộng sản gồm 5 đảng viên [1] do đồng chí Trịnh Khắc Sản là Bí thư.

Tại tổng Thử Cốc: Vào đầu tháng 6-1938, trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng trong tổng, một số quần chúng được lựa chọn kết nạp vào Đảng và dưới sự chỉ đạo của phủ ủy Thiệu Hóa chi bộ ghép của 4 làng: Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, Ngọc Trung [Xuân Minh] đã được thành lập tại nhà bà Lý Đan [Ngọc Trung]. Chi bộ gồm 5 đảng viên [2 ] do đồng chí Trịnh Ngọc Điệt làm Bí thư.

Sự ra đời và hoạt động của các chi bộ cộng sản đã làm phong trào cách mạng quanh vùng phát triển mạnh mẽ và đúng hướng, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng Thọ Xuân phát triển thành cao trào.

Năm 1939, tình hình thế giới và trong nước chuyển biến phức tạp, nguy cơ chiến tranh thế giới đến gần. Tại Pháp, chính phủ bình dân bị lật đổ, bọn phản động lên cầm quyền. Điều đó đã tác động xấu đến Cách mạng Việt Nam. Tại Đông Dương, bọn phản động thuộc địa rắp tâm tập trung lực lượng khủng bố cách mạng. Tại Thanh Hóa, ngày 20-6-1939, Tỉnh ủy quyết định chuyển một số cơ sở vào hoạt động bí mật và chủ trương tiếp tục phong trào đấu tranh công khai hợp pháp và bán hợp pháp.

Tại Thọ Xuân: Sau vụ khủng bố gay gắt của địch vào tháng 12-1938, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và quần chúng cách mạng đã bị bắt [Riêng tổng Thử Cốc đã bị bắt 40 người], các chi bộ Đảng và tổ chức cách mạng vẫn cương quyết tổ chức đấu tranh công khai hợp pháp và bán hợp pháp, đồng thời đưa một bộ phận rút vào hoạt động bí mật.

Đầu tháng 7-1939, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, đồng chí Trịnh Hữu Thường, Hoàng Sĩ Oánh đã tổ chức hội nghị của các cơ sở Đảng và cách mạng ở Thọ Xuân bàn biện pháp đưa cao trào đấu tranh trong huyện phát triển lên những quy mô mới với hình thức công khai hợp pháp. Hội nghị đã quyết định sẽ tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại chợ Neo [Bắc Lương] nhân ngày kỷ niệm Cách mạng Tư sản Pháp [14-7-1939].

Sáng ngày 14-7-1939, các cơ sở Đảng và cơ sở cách mạng trong toàn phủ đã huy động hàng ngàn quần chúng về chợ Neo tham dự mít tinh. Đồng chí Trịnh Hữu Thường thay mặt Ban tổ chức đã đọc diễn văn, phản đối bọn phản động thuộc địa, phản bội tinh thần Cách mạng tư sản Pháp, phản đối việc khủng bố Mặt trận dân chủ Đông Dương của nhà cầm quyền, lên án chủ nghĩa phát xít, kêu gọi toàn dân đoàn kết đấu tranh đòi tự do, cơm áo, hòa bình... Cuộc mít tinh đã biến thành cuộc tuần hành biểu dượng lực lượng. Từ chợ Neo quần chúng đã tổ chức thành nhiều đoàn người diễu hành khắp các địa phương trong phủ, vừa đi vừa hô to các khẩu hiệu: “Hoan nghênh Cách mạng tư sản Pháp", "Kiên quyết phòng thủ Đông Dương", “Đả đảo phát xít Đức - Ý - Nhật", "Tự do, cơm áo, hòa bình muôn năm"... Cuộc mít tinh, tuần hành thị uy diễn ra sôi động trên quy mô toàn phủ, bọn thống trị tức giận điên cuồng nhưng không dám đàn áp.

Cũng vào ngày 14-7-1939, Tỉnh ủy tổ chức cuộc mít tinh kỷ niệm tại chợ Đu. Hàng ngàn quần chúng trong khu vực đã vượt sông từ đêm ngày 13-7 để kịp về dự. Từ làng Long Linh Ngoại quần chúng đã xếp thành hàng ngũ chỉnh tề kéo về văn chỉ mít tinh và sau đó biến thành cuộc tuần hành về chợ Đu, vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu: "Tích cực phòng thủ Đông Dương", "Hoan nghênh Cách mạng tư sản Pháp", "Chống khủng bố đàn áp"... Trước khí thế cách mạng của quần chúng, bọn địch huy động lực lượng định đàn áp nhưng lại không dám dở trò.

Trước đó 7 ngày [vào ngày 7-7-1939], các chiến sĩ cách mạng Thọ Xuân đã tổ chức mít tinh tại chùa Đầm [Xuân Thiên]. Hàng ngàn quần chúng các tổng Quảng Thi, Quảng Yên đã nghiêm túc lắng nghe đồng chí Nguyễn Đức Nghi diễn thuyết về chủ nghĩa phát xít và tai họa của chiến tranh phát xít và kêu gọi quần chúng ủng hộ nhân dân Trung Hoa chống Nhật.

Gần một thập kỷ ra đời và tổ chức đấu tranh cách mạng, tổ chức Đảng Thọ Xuân đã bị quân thù tiến hành khủng bố trắng, nhiều cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng bị bắt tù đầy, chi bộ Đảng phải thành lập đi thành lập lại nhiều lần, nhưng qua mỗi lần thử thách số lượng đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng lại phát triển mở rộng. Lực lượng cách mạng ngày càng đông đảo và trưởng thành. Điều đó khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là các chi bộ Đảng Thọ Xuân là điều kiện tuyệt đối duy nhất đảm bảo cho các tầng lớp nhân dân lao động Thọ Xuân hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến tới độc lập tự do và ấm no hạnh phúc. Mục đích lý tưởng của Đảng đi vào tâm hồn và trí tuệ của quần chúng, làm cho quần chúng tự nguyện phấn đấu trở thành đảng viên, khôi phục lại tổ chức Đảng và phong trào cách mạng.

Trong những năm 1936-1939, căn cứ vào tình hình quốc tế và trong nước, Đảng quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược: Tạm gác nhiệm vụ dân tộc dân chủ, đoàn kết mọi lực lượng đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới. Tổ chức Đảng Thọ Xuân đã nhanh nhạy nắm bắt thời cơ tổ chức phong trào đấu tranh công khai hợp pháp và nửa hợp pháp thu hút đông đảo quần chúng trên địa bàn toàn phủ vào trận tuyến mới. Thông qua đấu tranh cách mạng, quần chúng đã được học tập rèn luyện nâng cao dân trí và trình độ, giác ngộ cách mạng tạo ra những điều kiện cần thiết đưa phong trào cách mạng lên cao trào rộng lớn và quyết liệt. Cao trào cách mạng thời kỳ 1936-1939 có ý nghĩa như một cuộc tổng diễn tập đấu tranh trên địa bàn Thọ Xuân.

Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945

[ĐCSVN] - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam.
Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách mạng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ [Ảnh tư liệu]

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.

Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám. Quá trình hình thành đường lối chiến lược giải phóng dân tộc là quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX - một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần túy biến thành một xã hội thuộc địa, dù tính chất phong kiến còn được duy trì một phần nhưng các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều chuyển động trong quỹ đạo của xã hội thuộc địa. Trong lòng xã hội Việt Nam thời kỳ này đã hình thành nên những mâu thuẫn giai cấp, dân tộc đan xen rất phức tạp.

Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa là phải vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố dã man, vừa phát triển lực lượng bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng nhất là phải nhiều lần lập mới, bổ sung Ban chấp hành Trung ương của Đảng, vừa phải đẩy mạnh hoạt động “tự chỉ trích”, đấu tranh với tinh thần Bônsêvích để khắc phục những quan niệm cho rằng: Những nguyên lý về “giai cấp cách mạng” được coi như những giáo lý phải được tiếp thu vô điều kiện như chân lý bất biến khi vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy móc, chống chủ nghĩa chủ quan tách rời thực tiễn.

Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội trước hết là bằng cương lĩnh, đường lối chính trị, mà theo nguyên tắc hoạt động của Đảng Cộng sản thì cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng phải do Đại hội – cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng quyết định. Trong thời kỳ 1930 – 1945 - thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng phải hoạt động bí mật là chủ yếu, chính quyền thực dân liên tục, điên cuồng đàn áp khủng bố các tổ chức của Đảng nhất là Ban chấp hành Trung ương phải lập đi lập lại nhiều lần, giao thông liên lạc thường bị gián đoạn cho nên trong thời kỳ này Đảng ta không thể tiến hành Đại hội thường kỳ như quy định của Điều lệ Đảng để có thể phát huy trí tuệ của toàn Đảng trong việc hình thành cương lĩnh, đường lối chính trị. Sau hội nghị hợp nhất thành lập Đảng 3/2/1930, trong thời kỳ này, Đảng ta chỉ tiến hành duy nhất Đại hội lần thứ I vào tháng 3/1935. Trong hoàn cảnh đó, Ban Chấp hành Trung ương có trọng trách vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng vào thực tiễn để hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua đã xác định: Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là quá trình phát triển lâu dài trải qua những thời kỳ, giai đoạn chiến lược khác nhau trong tiến trình cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa mà trước tiên là đấu tranh giành độc lập dân tộc. Do đó, trong chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt xác định nhiệm vụ chiến lược là “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập; dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông; thu hết sản nghiệp lớn [như công nghiệp vận tải, ngân hàng…] của tư bản chủ nghĩa đế quốc Pháp để giao cho chính phủ công nông quản lý; giao hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo…; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ; dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa.

Những nội dung chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập tự do của toàn đân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới mở ra sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga [1917], đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, thời đại mới là: “Thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”[1]. Cương lĩnh chính trị đầu tiên này đã xử lý đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp trong chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc. Vì mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của xã hội Việt Nam thời kỳ này là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động.

Bảy tháng sau, tại Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương – thay cho Ban chấp hành Trung ương lâm thời, luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương [Dự án để thảo luận trong Đảng] được thay thế cho cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam lại nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên: “một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”[2]. Luận cương xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền” cho đây là: “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Luận cương cho rằng: Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải: “Tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Luận cương còn xác định hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong phải được đặt ngang hàng nhau: “Có đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”[3]. Luận cương đã quá nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp là điều không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa.

Đến tháng 12/1930, trong thư của Trung ương gửi các cấp Đảng bộ, lại tiếp tục nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và xác định: Địa chủ là “thù địch của dân cày, không kém gì đế quốc chủ nghĩa” “liên kết đế quốc chủ nghĩa mà bóc lột dân cày”[4]. Giai cấp tư sản “có một bộ phận đã ra mặt phản cách mạng” một bộ phận khác “kiếm cách thỏa hiệp với đế quốc” một bộ phận “ra mặt chống đế quốc” nhưng đến khi cách mạng phát triển “chúng sẽ theo phe đế quốc mà chống lại cách mạng”[5]. Trong thư này, Ban thường vụ Trung ương chủ trương: “Tiêu diệt địa chủ” “tịch ký tất cả ruộng đất của chúng nó [địa chủ] mà giao cho bần và trung nông”[6]. Nhận thức không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa Việt Nam và không phù hợp với chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc còn kéo dài gần 5 năm cho đến Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ nhất [3/1935]. Từ đây cùng với sự phát triển của thực tiễn đấu tranh cách mạng, thông qua thực hành nghiêm túc nguyên tắc “tự chỉ trích” [phê bình và tự phê] với tinh thần “tự chỉ trích Bônsêvích phải có nguyên tắc có kỷ luật, theo dân chủ tập trung và phải luôn luôn đặt quyền lợi uy tín Đảng lên trên hết. Không được lợi dụng tự chỉ trích mà gây mầm bè phái chống Đảng và làm rối loạn hàng ngũ Đảng” phải thông qua tự chỉ trích để tẩy trừ: “các khuynh hướng hữu khuynh tả khuynh, lối hành động cô độc biệt phái, quan liêu hủ bại… để Đảng luôn “xứng đáng đội quân tiên phong cách mệnh, lãnh tụ chính trị của giai cấp”[7]. Ban chấp hành Trung ương có bước tiến mạnh mẽ trong tư duy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Trong thư gửi các tổ chức Đảng ngày 26/7/1936, Ban Trung ương đã công khai phê phán những biểu hiện giáo điều trong phân tích đặc điểm giai cấp trong xã hội thuộc địa và cho rằng: “Ở một xứ thuộc địa như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện tại, nếu chỉ quan tâm đến cuộc đấu tranh giai cấp có thể sẽ nẩy sinh những khó khăn để mở rộng phong trào giải phóng dân tộc”[8]. Tháng 10/1936, Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng ban hành văn bản: chung quanh vấn đề chính sách mới đã chỉ rõ: “cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa, nghĩa là không thể nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa; muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng… Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân [kẻ thù] chính, nguy hiểm nhất để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.

Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: 1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc. 2.Đông Dương hoàn toàn độc lập [thi hành quyền dân tộc tự quyết]. 3.Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4. Lập quốc dân cách mệnh quân. 5.Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9. Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10.Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. 12.Phổ thông giáo dục cường bách. 13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v[9].

Một điểm rất đặc sắc của quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc thời kỳ 1930-1945 là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình thức tổ chức độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam đó là lập mặt trận dân tộc thống nhất để hiện thực hóa tư tưởng của V.Lênin vĩ đại: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng – Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác ngộ và được tập hợp tổ chức trong mặt trận dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Chín tháng sau ngày thành lập, ngày 18/11/1930, Ban thường vụ Trung ương đã ban hành chỉ thị về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng minh”. Trên cơ sở phân tích sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc, bản chỉ thị đã nhận định: “Cuộc cách mệnh tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công [Rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến tay sai phản động, hèn hạ; Kín là đặt để công nông trong bức tranh dân tộc phản đế bao la][10]. Bản chỉ thị cũng phê phán những biểu hiện của quan điểm hẹp hòi, “tả” khuynh trong xây dựng, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất nên “Tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông”, “Do thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào tầng lớp giữa và cho tới cả những người địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp, để cần kíp động viên toàn dân nhất tề hành động.”[11].

Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội VII, quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, mặt trận bình dân Pháp được thành lập và giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ [5/1936]. Thực hiện nghị quyết của quốc tế cộng sản, lợi dụng mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang”[12].

Đến Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”[13]. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”[14].Tại Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”[15].

Ngày 28/1/1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Sau một thời gian chuẩn bị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 từ ngày 10 đến 19/5/1941. Hội nghị đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, dự báo phe phát xít nhất định thất bại, phe Đồng minh chống phát xít chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc sẽ suy yếu và phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ. Hội nghị dự đoán rằng: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”[16]. Hội nghị nhận định: “Đế quốc Pháp – Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày mà chúng còn áp bức bóc lột cả các dân tộc, không chừa một hạng nào…Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mệnh cách mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Pháp – Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”… Do đó: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mệnh tư sản dân quyền, cuộc cách mệnh phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng”[17]. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.”.

Từ quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta đã xác định tính chất của cách mạng Việt Nam giai đoạn này là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Vì thế Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức”.

Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước trên bán đảo Đông Dương. Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là: “Việt Nam độc lập đồng minh [gọi tắt là Việt minh]. Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc được thành lập trước đây đều thống nhất lấy tên là: Hội cứu quốc”, như Hội nông dân cứu quốc, Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc… và tất cả các Hội cứu quốc đều tham gia là thành viên của Việt minh. Đối với Lào, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh, và đối với Campuchia thì lập Mặt trận Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở ra đời mặt trận ở mỗi nước sẽ thành lập mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh.

Các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều chịu ách thống trị của đế quốc Pháp, phát xít Nhật cho nên phải đoàn kết thống nhất lực lượng để đánh đuổi kẻ thù chung. Vấn đề dân tộc ở bán đảo Đông Dương lúc này là vấn đề tự do độc lập của mỗi dân tộc. Do đó Hội nghị Trung ương 8 khẳng định hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi được Pháp, Nhật thì: “các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ chức thành Liên Bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành dân tộc quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”[18]. Sau Hội nghị Trung ương 8, ngày 19/5/1941 một Đại hội gồm đại diện các Đảng phái, các tổ chức quần chúng… tuyên bố thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh với tuyên ngôn: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào; đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam độc lập đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao ĐLĐM và Cao Miên ĐLĐM để cùng thành lập Đông Dương ĐLĐM hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”[19].

Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, và coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã xác định bốn điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang thắng lợi và xác định sáu nhiệm vụ phải thực hiện để củng cố, tăng cường, phát triển mở rộng lực lượng cách mạng trong cả nước đủ sức để thực hiện và củng cố thắng lợi của cuộc khởi nghĩa vũ trang[20].

Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển sáng tạo phương thức khởi nghĩa vũ trang cách mạng khi đề ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa.Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng là người lãnh đạo người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đến Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6 tháng 11/1939. Đó là sự chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong sang thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc, chỉ tập trung lực lượng toàn dân tộc giải quyết cho được một vấn đề cấp bách và quan trọng hàng đầu là đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc. Từ xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu là đế quốc Pháp – Nhật, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng tiến hành cuộc cách mạng này là toàn dân Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp, mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất phản đế với tên gọi Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh. Đảng Cộng sản Đông Dương là thành viên của Việt Minh và là hạt nhân chính trị lãnh đạo Việt Minh. Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc là khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa vũ trang từng phần. Giành chính quyền ở từng địa phương chuẩn bị lực lượng đón thời cơ tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] là sự khẳng định kế thừa, tiếp thu và phát triển sáng tạo tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” [1927] và cương lĩnh cách mạng đầu tiên [chánh cương vắn tắt sách lược vắn tắt, chương trình vắn tắt] của Đảng do chính Người dự thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 là sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị, trong đổi mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự chỉ trích Bônsêvích để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn máy móc…

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong cách mạng tháng 8/1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

--------------------------------

[1] Hồ Chí Minh toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội.2009. Tập 8. Trang 562

[2] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[3] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[4] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 235

[5] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 236

[6] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 299

[7] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 567

[8] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 74

[9] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 544-545

[10] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 231

[11] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 232

[12] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 21

[13] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 544

[14] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 77

[15] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 68

[16] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[17] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[18] Lịch sử Cách mạng Tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 1995. Trang 41, 42

[19] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 466-467

[20] Cách mạng tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội 1995. Trang 42-43

PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó Trưởng ban thường trực
Ban Tư tưởng – Văn hóa TW

Vai trò lãnh đạo của Đảng trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945

Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng lên phá bỏ xiềng xích nô lệ gần một thế kỷ dưới ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và hàng nghìn năm của chế độ quân chủ; giành quyền làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời mới. Mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH.

Nhưng kẻ thù của cách mạng tìm cách xuyên tạc những thành quả, những giá trị to lớn của Cách mạng Tháng Tám. Sự xuyên tạc của chúng làm cho một số người không hiểu, hoặc không muốn hiểu sự thật của cách mạng. Một số luận điểm cho rằng vào tháng 8-1945, thời cơ xuất hiện khi quân Nhật bại trận phải đầu hàng, lực lượng các nước Đồng minh tiếp nhận sự đầu hàng chưa vào Đông Dương kịp, do đó xuất hiện "một khoảng trống quyền lực" nhờ đó mà dân tộc Việt Nam giành được độc lập một cách quá dễ dàng, không phải đổ máu, chẳng qua là do "vận may". Thậm chí họ còn cho rằng Cách mạng Tháng Tám chẳng qua "may mắn" mà vớ được chính quyền... Những người này coi thường hoặc phủ nhận hoàn toàn vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc chuẩn bị lực lượng đón bắt thời cơ - nhân tố chủ quan quyết định thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945.

Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách mạng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ [Ảnh tư liệu]

Đó là sự nhận thức sai lầm và ngoan cố, xuyên tạc. Sự thật lịch sử đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc chuẩn bị lực lượng là nhân tố chủ quan quan trọng nhất quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Nói như vậy, không có nghĩa là phủ nhận nhân tố khách quan.

Đến tháng 8-1945, ở Việt Nam tình thế khách quan vô cùng thuận lợi xuất hiện. Thực hiện lời cam kết ở Hội nghị Yanta, ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật, quân đội Liên Xô tấn công đội quân Quan Đông tinh nhuệ nhất gồm hơn 1 triệu quân của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc. Bên cạnh việc quân đội Liên Xô tiến đánh quân đội Nhật thì Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hirôsima ngày [6-8-1945] và Nagadaki ngày [9-8-1945]. Trước sức mạnh của đồng minh, ngày 11-8-1945 Chính phủ Nhật gửi thông điệp cho Liên Xô, Mỹ và các nước Đồng minh chấp nhận đầu hàng vô điều kiện. Đúng như dự đoán của lãnh tụ Hồ Chí Minh thì đây là cơ hội nghìn năm có một để nhân dân ta thực hiện tổng khởi nghĩa.

Lúc này, thời cơ đã đến. Thời cơ xuất hiện trong những ngày tháng 8 - 1945 không chỉ có ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước Đông Nam châu Á bị quân đội Nhật chiếm đóng. Các nước này tuy có điều kiện khách quan thuận lợi giống như ở Việt Nam, nhưng không chớp được thời cơ khởi nghĩa hoặc kịp thời phát động tổng khởi nghĩa nhưng thành quả thu được không nhiều, vì lực lượng chưa được chuẩn bị đầy đủ, Đảng tiên phong chưa nắm được quyền lãnh đạo cách mạng… Chỉ có duy nhất ở Việt Nam từ khi Đảng thành lập năm 1930 đến năm 1945, đảng từng bước chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng chờ thời cơ đến và kịp thời chớp thời cơ, lãnh đạo nhân dân Tổng khởi nghĩa thắng lợi.

Đảng đã vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, ra sức và tích cực chuẩn bị lực lượng để đón thời cơ giành thắng lợi chứ không khoanh tay chờ thời một cách bị động. Sự lãnh đạo tích cực của Đảng trong việc chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền, được thể hiện trên 3 mặt sau:

Một là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân được chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa khi thời cơ đến.

Quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành cao trào cách mạng 1930 - 1931, đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám. Cao trào dân chủ 1936 - 1939, là cuộc tổng diễn tập thứ 2 chuẩn bị cho cách mạng tháng tám. Cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945 là cuộc diễn tập thứ ba trực tiếp dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Đặc biệt, trong thời kỳ cao trào kháng Nhật, cứu nước [thời kỳ tiền khởi nghĩa], sau chỉ thị “Nhật pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12-3-1945, Đảng lãnh đạo quần chúng tiến hành khởi nghĩa từng phần, làn sóng khởi nghĩa phát triển mau lẹ, kịp thời và dâng lên gần như đồng thời ở nhiều nơi... Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, quần chúng nhân dân được chuẩn bị mọi mặt. Nhân dân Việt Nam, nhất là quần chúng trong các tổ chức Cứu quốc, từ lâu đã sẵn sàng hy sinh để giành độc lập, quyết tâm chiến đấu.

Hai là, Đảng tích cực vận động, lôi kéo tầng lớp trung gian[1]đứng về phía cách mạng.

Trong hệ thống lý luận của giai cấp vô sản, vấn đề tranh thủ tầng lớp trung gian có tầm quan trọng lớn mặc dù về cơ bản tầng lớp trung gian không đóng vai trò đầu tàu quyết định trong những bước ngoặt của lịch sử. Nhưng khi các tầng lớp trung gian ngả về phía cách mạng thì nó tạo thêm điều kiện thuận lợi cho cách mạng thành công. Trái lại, nếu Đảng lãnh đạo cách mạnh không tranh thủ được tầng lớp trung gian, thì nhiều khi thời cơ đã chín muồi mà vẫn không thể làm cách mạng thắng lợi nhanh chóng được.

Tình cảnh khó khăn của tầng lớp trung gian là tiền đề tạo ra khả năng lôi cuốn họ vào con đường đấu tranh chống Pháp - Nhật. Nhưng từ khả năng đến hiện thực là cả một quá trình vận động. Chính sách của Đảng với tầng lớp trung gian trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám là: phê bình, uốn nắn, vạch đường lối, chân thành đoàn kết cùng nhau đưa cách mạng đến thành công. Chẳng những thẳng thắn phê bình mà Đảng còn chân thành đoàn kết trong hành động thực tế. Đảng giúp đỡ các tầng lớp trung gian lập ra tổ chức của mình để phát huy năng lực phục vụ Tổ quốc. “Tháng 6 năm 1944 Đảng dân chủ Việt Nam ra đời với tư cách là một chính đảng cách mạng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức yêu nước tiến bộ”[2]làm cho thành phần tổ chức của Mặt trận Việt Minh ngày thêm phong phú và khả năng hiệu triệu của tầng lớp trung gian tham gia đánh đuổi Nhật càng được tăng thêm. Tuy vậy, cho đến cuộc đảo chính của Nhật ngày 9-3-1945 các tầng lớp trung gian tham gia phong trào cách mạng chống Nhật - Pháp vẫn chưa đông đảo. Sau đảo chính, nhiều nhân vật trung gian vẫn trải qua một bước dao động ngắn rồi với mạnh dạn tham gia phong trào cứu quốc một cách đông đảo. Một số đông quần chúng trung gian thoạt đầu còn bị mắc lừa Nhật và bọn tay sai Đại Việt quốc gia liên minh vì tưởng rằng Nhật đã ban cho mình độc lập thật, cứ thế mà hưởng. Một số nhân vật trung gian khác, tuy hiểu rằng Nhật chẳng tốt đẹp gì, nhưng thiếu quan điểm đấu tranh cách mạng nên lập lờ chủ trương lợi dụng Nhật hoặc lợi dụng chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim để xây dựng lực lượng cho Việt Nam để sau này Nhật thua có thể chống Pháp nếu Pháp quay trở lại xâm lược lần nữa, điển hình là tổ chứcTân Việt Nam hội. Hơn nữa, bộ mặt có vẻ trung gian của nội các bù nhìn Trần Trọng Kim cũng làm cho nhiều người mắc lừa… Trước tình hình đó, Đảng chủ trương phải vạch mặt chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim "Thân phận bù nhìn của nó chỉ giữ được bù nhìn, phương châm của nó hứa hẹn nhiều nhưng thực hành ít, hay thực hành trái với lời hứa. Nhiệm vụ của nó là bọc nhung cho ách Nhật và hùa với giặc áp bức bóc lột nhân dân”[3], và bóc dần cái vẻ độc lập giả hiệu của phát xít Nhật... Sự phê bình, giúp đỡ của Đảng đã làm cho quần chúng trung gian dần dần tỉnh ngộ và đi theo cách mạng. Mặt khác, thực tiễn chứng minh những điều phê bình chỉ dẫn của Đảng là đúng. Ngày 13-8-1945, sau khi Nhật đầu hàng đồng minh tầng lớp trung gian nói chung đều theo cách mạng.

Ba là, Đảng tiền phong đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, sẵn sàng lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền

Ngay từ năm 1930 tại Hội nghị thành lập Đảng, Chánh cương vắn tắt của Đảng xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập"[4]. Đường lối chiến lược và sách lược của Đảng đúng đắn ngay từ đầu và không ngừng được bổ sung, phát triển cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng.Đặc biệt tại Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương [5-1941] do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì đã đề ra chủ trươngthay đổi chiến lược cáchmạng. Hội nghịquyết định tiếp tục chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất để tranh thủ mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hội nghị nhấn mạnh “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của các bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được”[5]. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa.

Cuối năm 1944, Hồng quân Liên Xô phản công tiêu diệt phát xít Đức, Ý, giải phóng các nước Đông Âu, làm cho quân Nhật ở Đông Dương hoang mang dao động. Trước tình hình đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh nhận định: "Bây giờ tình hình phát triển cách mạng hòa bình đã qua, nhưng thời kỳ khởi nghĩa toàn dân chưa đến. Cho nên nếu chỉ hoạt động trong vòng chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào tiến tới, nhưng nếu phát động khởi nghĩa ngay thì sẽ bị quân địch làm cho nguy khốn. Đã đến lúc một cuộc đấu tranh phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự, nhưng lúc này chính trị vẫn trọng hơn quân sự, cần phải tiến hành hình thức đấu tranh thích hợp thì mới có thể đưa cách mạng tới thành công"[6].

Đêm 9-3-1945, khi Nhật đảo chính Pháp, ngay đêm đó Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng được triệu tập tại Đình Bảng [Từ Sơn, Bắc Ninh] do đồng chí Trường Chinh chủ trì. Ban thường vụ Trung ương Đảng nhận định về thời cơ có thể nổ ra khởi nghĩa: Tình hình chính trị trong cả nước khủng hoảng sâu sắc, nạn đói ghê gớm diễn ra, chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt là những cơ hội tốt cho khởi nghĩa đi đến chín muồi một cách nhanh chóng; Khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương, khi phát xít Nhật đưa quân ra ngăn cản quân Đồng minh, để sau lưng sơ hở thì lúc đó là lúc phát động khởi nghĩa vô cùng thuận lợi. Đồng thời bản Chỉ thị nói rõ “Dù sao ta không thể đem việc quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc khởi nghĩa của ta, vì như thế lại ỷ vào người và tự bỏ tay trong khi tình thế biến chuyển thuận tiện. Nếu cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật thành lập hay nếu giặc Nhật mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh của Nhật mất tinh thần thì khi ấy quân đồng minh chưa đổ bộ vào Đông Dương thì cuộc tổng khởi nghĩa của ta có thể bùng nổ thắng lợi”[7]. Dự kiến này gần đúng với sự thật diễn ra trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Thực hiện chỉ thị trên, Đảng phát động cao trào kháng Nhật cứu nước [thời kỳ tiền khởi nghĩa] lãnh đạo toàn dân gấp rút chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Hội nghị thay đổi khẩu hiệu [đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp] trước đây bằng khẩu hiệu đánh đuổi phát xít Nhật và đề ra việc thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân. Bản Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời nhạy bén, bình tĩnh thận trọng và sáng tạo. Bản chỉ thị là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và của Mặt trận Việt Minh trong cao trào kháng Nhật cứu nước, quyết định trực tiếp đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.

Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về việc tổ chức Uỷ ban dân tộc giải phóng các cấp và trong phạm vi cả nước thì lập Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam tức chính quyền cách mạng lâm thời của nước Việt Nam mới.

Để chuẩn bị tích cực và khẩn trương hơn nữa cho việc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong cả nước. Ban thường vụ Trung ương triệu tập hội nghị quân sự Bắc Kỳ ở Hiệp Hoà, Bắc Giang [16-4-1945]. Hội nghị quyết định quyết đinh thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân; phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang; xây dựng căn cứ kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ.

Trong thời gian, này trong nội bộ Đảng ta phê phán nghiêm khắc quan điểm sai lầm của một vài đồng chí ở Trung Bộ chủ trương cải tổ chính phủ Trần Trọng Kim hy vọng giành độc lập bằng con đường hoà bình với Nhật. Đồng thời, Trung ương phê phán tư tưởng tả khuynh của các đồng chí trong báo Giải Phóng [Nam Bộ] vẫn còn giữ khẩu hiệu đánh đổ phát xít Pháp Nhật sau khi Nhật hoàn thành cuộc đảo chính.

Trong cao trào tiền khởi nghĩa, tất cả các hoạt động của Đảng về chính trị, quân sự, tư tưởng đều chĩa mũi nhọn vào phát xít Nhật và chính phủ bù nhìn thân Nhật, nhằm mục tiêu trước mắt là tổng khởi nghĩa giành chính quyền .

Vừa được tin quân Nhật hoàn toàn tan rã và xin đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh, ngày 13-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc ở Tân Trào [Tuyên Quang]. Hội nghị nhận định thời cơ cho ta giành độc lập đã tới, Đảng phải kịp thời phát động, lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay sai của chúng trước khi quân Đồng minh Anh, Mỹ vào Việt Nam.

Ngay đêm 13-8-1945, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập do đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư phụ trách. Uỷ ban đã ra Quân lệnh số 1 hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam đã gửi thư tới đồng bào cả nước kêu gọi nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Đến đây, trong một thời gian dài chuẩn bị lực lượng từ năm 1930. Đảng sẵn sàng lãnh đạo quần chúng nhân dân chớp thời cơ nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền, đây là nhân tố vô cùng quan trọng để cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi.

Tóm lại, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kết hợp chặt chẽ điều kiện khách quan và chủ quan: Kết hợp chặt chẽ đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng với trí sáng tạo, tinh thần dũng cảm và sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta. Kết hợp những cố gắng của bản thân nhân dân Việt Nam với chiến công của quân đội Liên Xô, quân đội Đồng minh và thắng lợi của các lực lượng dân chủ nói chung trên toàn thế giới chống chủ nghĩa đế quốc. Trong đó, nguyên nhân chủ quan đóng vai trò quyết định. Vì thời cơ cách mạng xuất hiện như một tất yếu, lịch sử đưa quần chúng đến ngưỡng cửa của khởi nghĩa giành chính quyền rồi trôi đi một cách nhanh chóng. Nếu Đảng tiên phong không chuẩn bị đầy đủ, không kịp thời chớp lấy thời cơ thì dù điều kiện khách quan có thuận lợi đến đâu cách mạng cũng không nổ ra được.

Thời gian không ngừng trôi, thắng lợi Cách mạng Tháng Tám mãi mãi là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng, lịch sử dân tộc Việt Nam. Những bài học đúc rút từ thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát huy trong điều kiện mới.

_______________

[1] Các tầng lớp trung gian trong Cách mạng Tháng Tám gồm có tiểu tư sản, tư sản dân tộc và các nhân sĩ yêu nước trong giai cấp địa chủ…

[2] Ban nghiên cứu lịch sử Đảng,Cách mạng tháng tám 1945, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr. 80

[3] Thanh Đạm:Vấn đề tầng lớp trung gian trong Cách mạng tháng Tám, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 163, năm 1975

[4] ĐCSVN:Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 2, tr .2

[5], [7] Sđd, t.7, tr. 113, 373

[6] Hồ Chí MinhToàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 4, tr. 4.

ThS Trần Thị Kim Dung [Viện Xây dựng Đảng - Học viện CTQG Hồ Chí Minh]

Video liên quan

Chủ Đề