Đài thờ Trà Kiệu được công nhận là bảo vật quốc gia gọi là gì

Đài thờ Trà Kiệu, đài thờ Mỹ Sơn E1, tượng bồ tát Tara được công nhận là bảo vật quốc gia trong đợt đầu đều thuộc nền văn hóa Chămpa, hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng.

Năm 2012, lần đầu tiên hơn 30 cổ vật được Thủ tướng ký quyết định công nhận bảo vật quốc gia, trong đó có 3 bảo vật gồm đài thờ Trà Kiệu, đài thờ Mỹ Sơn E1, tượng Bồ tát Tara đang được lưu giữ tại Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng.

Từ các bảo vật này, những câu chuyện cách đây hơn nghìn năm trước được kể lại qua những hình tượng chạm nổi trên khuôn hình.

Đài thờ Trà Kiệu được phát hiện ở tháp chính kinh đô Trà Kiệu [huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam] vào năm 1918. Đài thờ có niên đại từ thế kỷ VII - X, được làm bằng sa thạch xanh xám, là một kiệt tác của nghệ thuật điêu khắc Chămpa.

Ngay sau khi được phát hiện, đài thờ Trà Kiệu đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu tìm đến giải mã nội dung câu chuyện của các nhân vật quanh đài thờ và đoán định niên đại của nó.

Theo nhà nghiên cứu Jean Przyluski, bốn cảnh xung quanh đài thờ kể về truyền thuyết hình thành nước Phù Nam.

Trong khi đó, học giả George Cœdès, cho rằng nội dung đài thờ nói về truyền thuyết thần Krisna chữa bệnh cho người gù tên là Trivaka và chuyện Krisna kéo gãy cung thần Kamsa.

Sau này, nhà nghiên cứu Trần Kỳ Phương cho rằng 4 cảnh chạm quanh đài thờ là những trích đoạn trong trường ca Ramayana.

Theo trường ca Ramayana, vua Yanak ở kinh thành Videha lập hoàng hậu đã lâu nhưng không có con. Truyền thuyết kể rằng trong một buổi lễ cày đầu năm, khi vua Yanak mở đường cày đầu tiên, từ trong luống cày xuất hiện một bé gái sơ sinh, đó là đứa con mà Mẹ đất đã ban cho nhà vua, vua Yanak đã đặt tên cho đứa bé là Sita.

Khi Sita trưởng thành, vua Yanak kén rể với điều kiện ai giương được cây cung Kamsa của thần Bão tố Rudra thì sẽ được cưới công chúa Sita. Nhiều vương tôn công tử đến thử sức nhưng chưa ai kéo được sợi dây cung. Cuối cùng hoàng tử Rama không chỉ giương được cung mà còn kéo gãy cung. Sau đó hoàng tử Rama được vua Yanak gả công chúa Sita.

Theo ông Võ Văn Thắng - nguyên Giám đốc Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng, đây là đài thờ Chămpa duy nhất còn lại tương đối nguyên vẹn với bệ vuông ở dưới và bệ yoni tròn ở trên. Đây cũng là một bệ thờ tiêu biểu cho loại bệ thờ Chămpa có phần chạm khắc nhiều nhân vật có lối kể chuyện với bố cục hoàn chỉnh và giàu tính nghệ thuật.

"Ngày nay đi ngang qua Trà Kiệu, chúng ta không còn được thấy bóng dáng các chiêm nữ thướt tha, không còn được nghe những điệu nhạc Chăm réo rắt, nhưng nhìn những vũ nữ, nhạc công sống động trên bảo vật đài thờ Trà Kiệu, cùng những hình ảnh về áng tình ca bất hủ Rama - Sita, chúng ta có thể hình dung được phần nào vẻ tráng lệ huy hoàng của một kinh thành Chămpa từng có mặt tại đây và đã hội nhập vào dòng chảy vĩnh hằng của lịch sử, văn hóa Việt Nam", ông Thắng nói.

Có niên đại từ thế kỷ VII - VIII, đài thờ Mỹ Sơn E1 được tìm thấy ở tháp E1 của Thánh địa Mỹ Sơn [huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam] trong cuộc khai quật do ông Henri Parmentier, trưởng khoa khảo cổ của Trường Viễn Đông bác cổ làm trưởng đoàn vào năm 1902 - 1903.

Đài thờ được làm bằng sa thạch vàng nhạt, lắp ghép bằng nhiều khuôn hình phản ánh đời sống của các tu sĩ Ba-la-môn: đang chơi nhạc, đàm đạo, làm thuốc…

Đây là đài thờ duy nhất được tìm thấy hiện nay mô phỏng các chi tiết trang trí kiến trúc của một ngôi tháp như: các bậc cấp, vòm cửa, trụ cửa, động vật, hoa lá. Đặc biệt hình ảnh các tu sĩ Ấn giáo đang tu luyện trong rừng, sống hòa mình cùng thiên nhiên và muông thú. Phía trước bậc tam cấp được trang trí hình ảnh 6 vũ công đang trình diễn điệu múa dâng khăn lên thần linh.

Theo thần thoại Ấn Độ, núi Meru là nơi ở của các vị thần linh và Siva là vị thần chủ ngự trị trên đỉnh núi. Đài thờ Mỹ Sơn E1 chính là hình ảnh của ngọn núi Meru và Linga-Yoni được thờ cúng bên trên đài thờ là biểu tượng của thần Siva.

Đường viền quanh đài thờ Mỹ Sơn trang trí hình thoi xen lẫn giữa những đóa hoa bốn cánh. Kiểu trang trí này cũng xuất hiện trên một số tác phẩm điêu khắc của nghệ thuật Môn - Dvaravati ở Thái Lan vào thế kỷ VII - VIII.

"Với chức năng là một bộ phận cốt lõi của một ngôi tháp Chămpa, là nơi ngự trị của thần linh tối cao, Đài thờ Mỹ Sơn E1 đã được các nghệ nhân Chămpa tạo dựng với tất cả tài năng và lòng thành kính. Từ bố cục tổng thể cho đến các chi tiết chạm khắc trên đài thờ đều ẩn chứa những thông điệp mang ý nghĩa tâm linh.

Khi có dịp tĩnh lặng để nhìn ngắm và suy tưởng, chúng ta có thể thấy thấp thoáng trên mặt đá đã mòn mờ qua năm tháng của đài thờ Mỹ Sơn E1 những niềm vui, nỗi buồn và lòng mong ước của một cộng đồng đã từng có mặt và để lại những giá trị sống động làm nên sắc màu văn hóa Việt Nam hôm nay", nguyên Giám đốc Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng Võ Văn Thắng viết trong cuốn sách "Bảo vật quốc gia tại Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng".

Tượng bồ tát Tara đang được lưu giữ tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng bị thiếu hai hiện vật trên cánh tay là con ốc và đóa sen.

Tượng được phát hiện hết sức tình cờ vào năm 1978 khi người dân Đồng Dương [nay thuộc xã Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình, Quảng Nam] đang cày ruộng. Ngay sau đó bức tượng được đưa về Bảo tàng Đà Nẵng.

Đây là tượng đồng lớn nhất của nghệ thuật điêu khắc Chăm. Bồ tát Tara được khắc họa trong tư thế đứng trang nghiêm với dáng hình tròn trịa, cân đối, mình thân trên và hai bàn tay để trần.

Ngay khi phát hiện, pho tượng nhanh chóng thu hút sự chú ý và được đánh giá là một kiệt tác nghệ thuật. Mặc dù được phát hiện sau cùng nhưng pho tượng lại thể hiện tập trung những đặc điểm phong cách nghệ thuật mà trước đó các nhà nghiên cứu đã khái quát gọi là phong cách Đông Dương.

Ông Trần Đình Hà - Phó Giám đốc Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng - cho biết, trong quá trình khai quật, 2 vật cầm tay một bên là con ốc, một bên là hoa sen bị gãy. Người dân xã Bình Định Bắc đã tìm thấy và đem về nhà. Sau đó, UBND xã thu hồi, cất giữ như bảo bối của xã từ đời chủ tịch này qua đời chủ tịch khác.

"Nhiều năm qua, chính quyền TP Đà Nẵng muốn xin 2 vật đó về Bảo tàng điêu khắc Chăm để bức tượng được trọn vẹn. UBND xã Bình Định Bắc đã lấy ý kiến người dân và đồng ý với đề nghị này. Ngoài ra, người dân muốn được hỗ trợ xây nhà văn hóa như lời "tri ân" bao đời gìn giữ cổ vật và Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng lúc ấy là anh Huỳnh Đức Thơ cũng đã đồng ý", ông Hà nói.

Theo ông Hà, sau đó Sở Văn hóa, Thể thao tỉnh Quảng Nam và Sở Văn hóa, Thể thao TP Đà Nẵng đã làm việc với nhau. Sở Văn hóa, Thể thao tỉnh Quảng Nam đã tham mưu cho UBND tỉnh tạm thời giao con ốc và hoa sen về cho Bảo tàng tỉnh Quảng Nam. Cuối năm 2019, UBND xã Bình Định Bắc đã tiến hành bàn giao hai hiện vật là con ốc và đóa sen thuộc về tượng Bồ tát Tara cho Bảo tàng Quảng Nam bảo quản theo quy định.

Song từ đó đến nay, Bảo tàng tỉnh Quảng Nam không có công văn trả lời hay thông tin gì cho phía Đà Nẵng cả. Vì thế, bức tượng Bồ tát Tara vẫn chưa được "hoàn chỉnh".

Nội dung: Khánh Hồng

Thiết kế: Nguyễn Vượng

10/01/2022

Thông thường, cứ hễ cái gì cũ kỹ, không dùng được nữa thì hay bị trêu là "đưa vào bảo tàng", thực tế thì các hiện vật đưa vào bảo tàng có những giá trị đặc biệt; lắm khi đã bị sứt vỡ, móp méo nhưng vẫn có giá trị cung cấp thông tin hoặc ít ra là một chứng tích cho một thời kỳ văn minh của nhân loại. Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng [BTĐKC] là nơi đang bảo quản và trưng bày bộ sưu tập đầy đủ nhất về điêu khắc Champa; đầy đủ với ý nghĩa là nó bao gồm các hiện vật tiêu biểu cho các thời kỳ, các chủ đề, các loại hình đa dạng trong lịch sử nghệ thuật Champa. Bài viết này kể câu chuyện về một hiện vật đang trưng bày tại BTĐKC: Đài thờ Trà Kiệu.+

Đài thờ Trà Kiệu đã được xếp hạng là Bảo vật quốc gia trong đợt xếp hạng đầu tiên của Việt Nam [năm 2012][1]. Nhưng từ khi những mảnh vỡ của đài thờ này được thu thập cho đến hình ảnh tổng thể của đài thờ được trưng bày cho du khách chiêm ngưỡng hiện nay là một câu chuyện dài.

Ảnh 1: Các bộ phận của Đài thờ Trà Kiệu

Để dễ theo dõi câu chuyện, xin tạm gọi tên các bộ phận của đài thờ này gồm ba bộ phận [Ảnh 1]: [I] dưới cùng là một bệ thờ hình vuông có chạm khắc bốn mặt; [II] trên bệ vuông là 2 thớt đá tròn có chạm khắc hình cánh hoa sen xếp chồng lên nhau, trong đó thớt phía trên [II.B] có vòi dài nhô ra ngoài [như kiểu một máng cối xay bột], cũng được gọi là yoni; [III] một linga đặt ở trung tâm của bệ vuông, xuyên qua hai thớt đá tròn và nhô cao hơn mặt trên của yoni. Ngoài ra có một bộ phận liên quan nằm giữa thớt đá tròn II.A và II.B, không được thể hiện trong ảnh 1, nhưng là một yếu tố dẫn đến nhiều suy luận khác nhau, và đến nay vẫn là một bí ẩn, tạm gọi là bộ phận II.X.

Ảnh 2: Tượng bò Nandin đặt trên nửa bệ vuông Đài thờ Trà Kiệu

Ảnh 3: Tượng thần Laksmi đặt trên nửa bệ vuông Đài thờ Trà Kiệu

Đài thờ này không phải được sưu tầm nguyên vẹn một lúc; những bộ phận của nó đã được thu thập rải rác vào nhiều thời điểm khác nhau và được các nhà nghiên cứu suy luận lắp ghép lại theo những cách khác nhau trong 100 năm qua và lần thay đổi mới nhất là năm 2017. Năm 1901, bộ phận I và II được thu thập từ Trà Kiệu, đưa về công viên thành phố Đà Nẵng [địa điểm BTĐKC hiện nay] và được giới thiệu trên số đầu tiên của Tạp chí Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp [BEFEO][2], kèm theo ảnh một nửa khối đặt dưới tượng bò thần Nandin [Ảnh 2] và một nửa khối đặt dưới tượng thần Laksmi  [Ảnh 3].

Ảnh 4: Bản vẽ phục dựng Đài Thờ Trà Kiệu của H.Parmentier

Đến năm 1909, Henri Parmentier đã miêu tả kỹ hơn về ba bộ phận của đài thờ này với suy luận là đài thờ còn thiếu một bộ phận hình trống [tambour] ở giữa [II.X] và cho rằng có thể dựa theo các đài thờ tìm thấy ở Mỹ Sơn để phục dựng lại bộ phận thiếu này[3].  [Ảnh 4]

Sau khi tòa nhà đầu tiên của BTĐKC được xây dựng xong vào năm 1919, Henri Parmentier đã cho trưng bày đài thờ này tại sân vườn, phía trước gian nhà chính [Ảnh 5]. Nhìn bức ảnh chụp vào thời kỳ này, ta thấy giữa 2 thớt tròn II.A và II.B, có thêm một thớt tròn [II.X] được phục chế bằng xi măng, quét vôi trắng.    

Ảnh 5: Đài thờ Trà Kiệu trước sân BTĐK trước năm 1919 [EFEO]

Trong hai năm 1927 - 1928, Trường Viễn Đông Bác Cổ đã tiến hành khai quật khảo cổ quy mô lớn tại Trà Kiệu, do J. Y. Claeys chủ trì. Kết quả khai quật đã mang về cho BTĐKC một số lượng hiện vật đáng kể, trong số này có ba mảnh vỡ có trang trí hình trứng [sau này thường được gọi là hình vú] [Ảnh 6] và đã được J.Y. Claeys ghép vào đài thờ Trà Kiệu [Ảnh 7].  J.Y. Claeys đã có suy luận và giải thích như sau:

“Trong số nhiều khối đá khai quật được ở Trà Kiệu có một bệ tròn, mặt ngoài trang trí hình trứng [godrons], đã vỡ làm ba, được nhận ra là một bộ phận của cái đài thờ hình tròn được mang về Tourane trước đây và được phục dựng trước gian chính của Bảo tàng Chăm.  Một khối hình chiếc trống [tambour] bằng vữa đã được xây dựng bù cho bộ phận bị thiếu. Khối này đã được đặt vào vị trí bình thường và hình dạng của đài thờ được cải thiện một cách đáng kể. Chúng tôi đưa ra một cách phục dựng mới.

Những hình trứng [godrons] trang trí quanh khối tròn này rất đáng được chú ý. Chúng không hoàn toàn là hình cầu mà là hơi kéo dài ra như đầu quả đạn súng cối. Loại trang trí này không phải ngoại lệ đối với Champa; những trang trí hình trứng trên các khối đá khác tương tự, nhưng kích thước nhỏ hơn, đã được tìm thấy trên một khu vực sân [terrain] của kinh đô Chăm. Cũng tồn tại ở các nơi khác, nhất là ở Mĩ Sơn, các đài thờ có cùng loại trang trí này và cũng trên mặt bằng hình vuông. Liệu có thể xem đó là sự hình thể hóa những chiếc vú phụ nữ hay thậm chí là phần đầu hiện thực của các linga? Câu hỏi này chưa được mổ xẻ; hình dạng này, quen thuộc ở nhiều di tích, có tính thẩm mỹ cao hơn  là những khối cầu thông thường”[4].

Ảnh 7: Đài thờ Trà Kiệu được Claeys trưng bày  năm 1931

Năm 1936, BTĐKC được mở rộng, Đài thờ Trà Kiệu được dời từ ngoài sân vào trưng bày trong nhà, và vẫn được trưng bày với thớt đá II.X hình trứng/hình vú. [Ảnh 8].

Ảnh 8: Đài thờ Trà Kiệu được trưng bày trong bảo tàng, năm 1936 [EFEO]

Điều đặc biệt là đến năm 1972, khi Carl Heffrey thực hiện tập sách ảnh The Arts of Champa thì đài thờ Trà Kiệu đã không còn thớt hình vú nữa. [Ảnh 9]

Ảnh 9: Đài thờ Trà Kiệu không có thớt hình trứng/ hình vú [Carl Heffrey 1972]

Cách trưng bày này đã được duy trì cho đến những năm gần đây với sự thắc mắc của nhiều người, trong đó có ý kiến của những học giả chuyên về nghệ thuật Chăm cho rằng việc tháo gỡ thớt hình trứng/hình vú ra khỏi Đài thờ Trà Kiệu làm mất đi một dấu hiệu đặc biệt về phong cách của Đài thờ. Trên đường đi tìm lời giải thích cho thắc mắc này, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu lại hình dáng, kích thước của các hiện vật tại BTĐKC và đã khám phá rằng việc lắp đặt thớt đá hình trứng vào Đài thờ Trà Kiệu là một nhầm lẫn của J. Y. Claeys[5], bởi vì chu vi cũng như lỗ rỗng giữa lòng thớt đá hình trứng này không ăn khớp với chu vi và lỗ rỗng của hai thớt đá II. A và II.B. Ngoài ra, chúng tôi cũng nhận ra một chiếc linga sưu tầm tại Trà Kiệu năm 1918, vốn lâu nay vẫn trưng bày riêng lẻ ở BTĐKC lại có số đo trùng khớp với  lỗ rỗng của hai thớt đá II.A và II.B., chiếc linga này ắt hẳn là chiếc linga trong lòng Đài thờ Trà Kiệu mà lâu nay các nhà nghiên cứu trưng bày đã bỏ qua và thay thế bằng chiếc linga xi-măng. Đến năm 2017, trong dịp cải tạo nâng cấp bảo tàng, chúng tôi đã tháo gỡ và trưng bày lại Đài thờ Trà Kiệu với chiếc linga nguyên gốc đặt giữa đài thờ, xuyên qua bệ yoni II.B [Ảnh 10a, 10b, 10c]. Trưng bày lần này được thực hiện theo bản vẽ với số đo của các bộ phận đài thờ và chiếc linga lâu nay đặt tách biệt bên ngoài đài thờ [Ảnh 11a], phù hợp với cấu trúc của một bệ thờ linga ở một số nơi khác[6]. [Ảnh 11b].

Hình 10 a,b: Lắp đặt Linga vào bên trong hai thớt IIA và IIB [2017]

Ảnh 10c: Đài thờ Trà Kiệu được trưng bày tại BTĐKC năm 2017.

Ảnh 11a: Bản vẽ mặt cắt của Đài thờ Trà Kiệu được lắp đặt lại năm 2017

Ảnh 11b: Ảnh vẽ mặt cắt một bệ thờ có hình Linga trong sách

Le Musée de Sculpture Cam de Đà Nẵng, Paris, 1997, tr 197.

Riêng thớt đá II.X, chúng tôi vẫn để lại khoảng hở trong lần trưng bày này. Đó không phải là thớt đá hình trứng/hình vú mà Claeys đã lắp vào nhưng nó là hình trống [tambour] như Parmentier suy luận hay một trang trí nào khác, hiện nay vẫn chưa tìm thấy hiện vật gốc và vẫn còn là một bí ẩn.

Trong giới hạn bài viết này chỉ xin cung cấp một số hình ảnh và thông tin về quá trình trưng bày Bảo vật quốc gia "Đài thờ Trà Kiệu".  Liên quan đến Đài thờ này còn nhiều chuyện thú vị liên quan đến niên đại của nó và đặc biệt là giải mã những hình ảnh chạm khắc chung quanh bệ thờ I; liệu đó là câu chuyện về một Kaudynia từ Ấn Độ cắm một mũi giáo vào vùng đất mới, hay về thần Krishna chữa bệnh cho một người gù và cũng có thể là miêu tả câu chuyện đám cưới của nàng Sita. Câu chuyện này còn cần nhiều trang viết nữa.

V.V.T

Video liên quan

Chủ Đề