Đánh giá sự phát triển của vận tải đa phương thức ở Việt Nam hiện nay

[Luận án 2020] Pháp luật về Vận tải đa phương thức trong điều kiện Hội nhập quốc tế

Mục lục:

  • THÔNG TIN LUẬN ÁN
  • 1. Tính cấp thiết của đề tài
  • 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
  • 4. Phương pháp nghiên cứu
  • 5. Những đóng góp mới về lý luận và thực tiễn của Luận án
  • 6. Kết cấu của Luận án

THÔNG TIN LUẬN ÁN

  • Trường: Đại học Luật Hà Nội
  • Tác giả: TS. Nguyễn Thị Thu Hằng
  • Định dạng: PDF/Word
  • Số trang: 194 trang
  • Năm: 2020

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cùng với sự phát triển của tự do hoá thương mại, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ trong vận tải, vận tải đa phương thức đã nhanh chóng trở thành một phương pháp vận tải hàng hoá tiên tiến đã và đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới, đặc biệt là trong việc vận chuyển hàng hoá liên quốc gia. Sự ra đời và phát triển của phương pháp vận tải này đã góp phần đổi mới cách vận chuyển hàng hoá, hạn chế thời gian hàng hoá phải lưu kho, đơn giản hoá về thủ tục, nâng cao chất lượng dịch vụ cũng như nâng cao mức độ an toàn cho hàng hoá trong quá trình vận chuyển, giảm cước phí vận chuyển Vì vậy, phát triển dịch vụ vận chuyển hàng hoá bằng vận tải đa phương thức là một xu hướng tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu giao lưu thương mại và hội nhập kinh tế trên thế giới.

Chiến lược phát triển giao thông vận tải Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã nêu: Giao thông vận tải là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, một trong ba khâu đột phá cần ưu tiên phát triển đi trước một bước với tốc độ nhanh, bền vững nhằm tạo tiền đề cho phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước . Sự phát triển của giao thông vận tải không chỉ là tiền đề mà cũng là kết quả của sự phát triển kinh tế xã hội. Thực tế cho thấy, gắn với những thành tựu đã đạt được về tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế, nhu cầu về giao thông vận tải cũng gia tăng nhanh chóng, quy mô dịch vụ vận chuyển hàng hoá ở nước ta trong những năm qua không ngừng được mở rộng. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới [Wold Bank] nhu cầu giao thông vận tải và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội [GDP] của Việt Nam luôn duy trì ở mức cao: năm 2015 tăng 6,68%; năm 2016 tăng 6,21%; năm 2017 tăng 6,81 %; năm 2018 ước tính tăng 7,08%; năm 2019 tăng 7,02% . Sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của Việt Nam là kết quả của quá trình mở rộng sản xuất gắn liền với thương mại quốc tế và được thúc đẩy bởi sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Cải thiện có hiệu quả vận tải hàng hóa, với tính chất là xương sống của thương mại hàng hóa, gắn với hoạt động xuất nhập khẩu trở thành một động lực để phát triển kinh tế bền vững. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đang tạo ra nhu cầu ngày càng cao đối với giao thông vận tải. Theo Báo cáo Logistics năm 2018 của Bộ Công thương, chỉ riêng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển năm 2017, sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển Việt Nam ước đạt 536,4 triệu tấn, tăng 17% so với năm 2016, trong đó tỷ lệ hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển chiếm khoảng 90%. Cũng theo báo cáo này, trong 9 tháng đầu năm 2018, vận tải hàng hóa bằng đường bộ đạt 934,7 triệu tấn, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2017; vận tải thuỷ nội địa trong 8 tháng đầu năm 2018 đạt 189,5 triệu tấn, tăng 7,3% . Thành phần của nhu cầu giao thông vận tải ở Việt Nam cũng có sự thay đổi đáng kể, phát triển dịch vụ vận chuyển hàng hoá bằng vận tải đa phương thức trở thành một xu hướng tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu giao lưu thương mại và hội nhập kinh tế trên thế giới. Để đáp ứng nhu cầu về vận tải hàng hoá, yêu cầu phát triển kinh tế bền vững, đi đôi với việc bảo đảm sự phát triển cân đối hài hoà của các phương thức vận chuyển cần phải xây dựng sự phối hợp giữa các phương thức vận chuyển truyền thống nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Xây dựng thị trường vận tải cạnh tranh, tăng cường kết nối vận tải đa phương thức đang là chính sách được nhà nước quan tâm triển khai thực hiện. Trong các chiến lược phát triển giao thông vận tải của Việt Nam, phát triển vận tải đa phương thức luôn được đề cập tới như một mục tiêu trong hiện đại hoá giao thông vận tải, ứng dụng công nghệ vận tải tiên tiến, tạo lập sự kết nối giữa các phương thức vận tải nhằm xây dựng hệ thống vận tải đồng bộ, liên hoàn và hiệu quả.

Là một hình thức vận chuyển hàng hoá đặc thù dựa trên sự kết hợp của ít nhất hai phương thức vận chuyển truyền thống, vận tải đa phương thức đòi hỏi được điều chỉnh bằng những quy định pháp luật riêng nhằm giải quyết những vấn đề pháp lý phát sinh trong toàn bộ chuỗi vận tải mà không chỉ sử dụng khuôn khổ pháp lý đang được áp dụng cho từng phương thức vận chuyển riêng lẻ. Tuy nhiên, hệ thống các quy định pháp luật về vận tải đa phương thức của nước ta so với yêu cầu thực tế của vận tải đa phương thức còn chưa tương xứng, chưa thực sự đóng vai trò định hướng và thúc đẩy sự phát triển của loại hình vận chuyển hàng hoá này ở Việt Nam, cũng như chưa tạo lập hành lang pháp lý đầy đủ cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ vận tải đa phương thức. Nếu như trong khu vực, Ấn Độ từ năm 1993 đã ban hành Luật về vận tải đa phương thức [The Multimodal Transportation of Goods Act, 1993], Luật hợp đồng của Trung Quốc năm 1999 đã quy định về hợp đồng vận tải đa phương thức [Mục 4, Chương 17, Contract Law of the Peoples Republic of China, 1999], Thái Lan ban hành Luật vận tải đa phương thức năm 2005 [The Multimodal Transport Act, B.E. 2548], thì Việt Nam đến năm 2003 mới có Nghị định đầu tiên trực tiếp quy định về vận tải đa phương thức [Nghị định số 125/2003/NĐ-CP Nghị định số 87/2009/NĐ-CP] và cho đến nay vẫn chưa có Luật về vận tải đa phương thức. Đây cũng là lý do khiến các chuyên gia quốc tế đánh giá : Xét về cơ sở hạ tầng và hành lang pháp lý, mạng lưới giao thông vận tải đa phương thức của Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển .

Việc nghiên cứu và đưa ra những đề xuất hoàn thiện các quy định pháp luật về vận tải đa phương thức nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng của các quy phạm pháp luật về hoạt động vận chuyển hàng hoá nói chung, vận tải đa phương thức nói riêng, đáp ứng xu thế phát triển của vận tải đa phương thức tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay là rất cần thiết. Tuy nhiên, ngoài một số ít công trình khoa học đề cập tới một vài khía cạnh của pháp luật về vận tải đa phương thức, hiện chưa có công trình khoa học nào mang tính chuyên sâu nghiên cứu xây dựng hệ thống lý luận về pháp luật về vận tải đa phương thức, nghiên cứu thực trạng pháp luật về vận tải đa phương thức của Việt Nam và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức ở Việt Nam.

Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài: Pháp luật về vận tải đa phương thức trong điều kiện hội nhập quốc tế làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ luật học của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của đề tài là trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về vận tải đa phương thức, pháp luật về vận tải đa phương thức; đánh giá thực trạng pháp luật và hiệu quả thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức tại Việt Nam, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức.

Để đạt được mục đích đó, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài bao gồm:

Xem thêm tài liệu liên quan:

  • [Luận án 2019] Lý luận và thực tiễn giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và quốc gia tiếp nhận đầu tư: Áp dụng đối với Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay / TS. Trần Thị Hồng Nhung
  • [Luận văn 2020] Pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử ở Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế / ThS. Phan Thị Cúc
  • [Luận văn 2020] Pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng thương mại thông qua Internet trong bối cảnh hội nhập quốc tế / ThS. Trần Thị Thuỳ Linh
  • [Luận văn 2019] Pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế / ThS. Đào Thị Thùy Linh
  • [Luận án 2019] Hoàn thiện pháp luật về hòa giải thương mại ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế / ThS. Lê Hương Giang
  • [Luận văn 2019] Giao kết hợp đồng thương mại thông qua Internet trong bối cảnh hội nhập quốc tế / ThS. Lê Thùy Trang

Thứ nhất, nghiên cứu các vấn đề lý luận về vận tải đa phương thức ở các nội dung: khái niệm, các đặc điểm pháp lý, lịch sử hình thành, các mô hình, vai trò của vận tải đa phương thức.

Thứ hai, nghiên cứu các vấn đề lý luận về pháp luật về vận tải đa phương thức, xác định các yếu tố chi phối pháp luật về vận tải đa phương thức gắn với bối cảnh hội nhập quốc tế.

Thứ ba, phân tích, đánh giá ưu điểm và hạn chế trong các quy định pháp luật hiện hành và hiệu quả thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức của Việt Nam; nghiên cứu và so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam với các quy định pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia khác về vận tải đa phương thức.

Thứ tư, nghiên cứu đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức trên cơ sở phù hợp với chủ trương đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước, đáp ứng quy luật vận động của nền kinh tế thị trường và yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế ở nước ta.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Các quan điểm khoa học về vận tải đa phương thức và pháp luật về vận tải đa phương thức; hệ thống các quy định pháp luật hiện hành về vận tải đa phương thức của Việt Nam; một số quy định về vận tải đa phương thức trong các điều ước quốc tế và pháp luật của một số quốc gia về vận tải đa phương thức; thực tiễn thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức ở Việt Nam trong những năm qua.

Phạm vi nghiên cứu của luận án được giới hạn như sau:

Về không gian, luận án tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức ở Việt Nam. Trong luận án, tác giả có đề cập tới một số quy định pháp luật quốc tế, khu vực và pháp luật của một số quốc gia khác chỉ nhằm mục đích tham khảo và so sánh luật, thông qua đó rút ra bài học kinh nghiệm để hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Về thời gian, luận án nghiên cứu điều kiện kinh tế xã hội, pháp luật Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế [được xác định từ thời điểm khái niệm hội nhập được đề cập chính thức tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, năm 1996].

Về nội dung, luận án nghiên cứu các quy định pháp luật của Việt Nam trực tiếp điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong vận tải đa phương thức. Các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến hoạt động vận tải đa phương thức như bảo hiểm, đại lý vận tải, xếp dỡ và giao nhận hàng hóa sẽ không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án.

4. Phương pháp nghiên cứu

Luận án được thực hiện trên cơ sở quan điểm, đường lối và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, chính sách của Nhà nước về phát triển vận tải đa phương thức. Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, bao gồm:

Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng để xem xét, đánh giá sự phát triển của vận tải đa phương thức và pháp luật về vận tải đa phương thức dựa trên những điều kiện kinh tế, chính trị và lịch sử của xã hội.

Phương pháp hệ thống hoá, tổng hợp và phân tích các quan điểm pháp lý được sử dụng để giải quyết vấn đề lý luận về vận tải đa phương thức. Phương pháp phân tích, tổng hợp cũng được sử dụng để khái quát hoá, đánh giá và nhận định các vấn đề thực tiễn được đề cập.

Phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh luật học được sử dụng để bình luận thực trạng pháp luật trên cơ sở pháp luật của mỗi quốc gia là một hệ thống có tính mở, đồng thời vận tải đa phương thức không chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà chủ yếu là vận tải đa phương thức quốc tế, do đó phải xem xét vấn đề trong sự đối chiếu và học tập kinh nghiệm của các quốc gia trong khu vực và quốc tế.

Phương pháp diễn giải, quy nạp, dự báo được sử dụng để đưa ra các đề xuất, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vận tải đa phương thức ở Việt Nam.

Trong các phương pháp trên, phương pháp hệ thống, phân tích và so sánh luật học được sử dụng chủ yếu và xuyên suốt hầu hết các nội dung của luận án.

5. Những đóng góp mới về lý luận và thực tiễn của Luận án

Trong bối cảnh hội nhập và sự phát triển của thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam tham gia ngày một nhiều hơn vào vận tải đa phương thức với cả tư cách người kinh doanh vận tải đa phương thức, người gửi hàng và người nhận hàng hoặc các bên liên quan. Bằng việc kế thừa có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu đã có, luận án có một số đóng góp mới về lý luận và thực tiễn như sau:

Thứ nhất, Luận án đã tổng hợp, làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận về vận tải đa phương thức, cụ thể: [i] Sự ra đời và phát triển của vận tải đa phương thức; [ii] Khái niệm vận tải đa phương thức; [iii] Đặc điểm pháp lý của vận tải đa phương thức; [iv] Các mô hình vận tải đa phương thức và vai trò của vận tải đa phương thức.

Thứ hai, Luận án đã xây dựng được hệ thống lý luận pháp luật về vận tải đa phương thức, bao gồm: [i] Khái niệm pháp luật vận tải đa phương thức; [ii] Cấu trúc hình thức và nội dung của pháp luật về vận tải đa phương thức; [iii] Nguyên tắc của pháp luật về vận tải đa phương thức; [iv] Sự phát triển của pháp luật về vận tải đa phương thức ở Việt Nam; [v] Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về vận tải đa phương thức trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Thứ ba, Luận án đã làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức ở Việt Nam trên các phương diện: [i] Về điều kiện kinh doanh vận tải đa phương thức; [ii] Về chủ thể quan hệ vận tải đa phương thức; [iii] Về hợp đồng vận tải đa phương thức; [iv] Giải quyết tranh chấp về VTĐPT.

Bốn là, Luận án đã chỉ ra các định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế.

Với những kết quả đạt được, Luận án là tài liệu có giá trị tốt để các cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp tham khảo trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực vận tải nói chung và vận tải đa phương thức nói riêng, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về vận tải đa phương thức; Luận án cung cấp nguồn tư liệu tin cậy phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập về vận tải đa phương thức.

6. Kết cấu của Luận án

Ngoài Phần mở đầu, phần tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được cơ cấu thành ba chương với các nội dung cụ thể sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về vận tải đa phương thức và pháp luật về vận tải đa phương thức.

Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức ở Việt Nam.

Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế.

Video liên quan

Chủ Đề