Đời nhẹ khôn kham nghĩa là gì năm 2024

Đời nhẹ khôn kham nghĩa là gì năm 2024

Có một câu nói mà tôi đã quên mất từ ngữ chính xác của nó, nhưng đại ý rằng: anh chỉ tìm thấy trong sách thứ sẵn có bên trong mình. Hay nói theo cách diễn giải của chính tôi, thì một người sẽ hiểu một cuốn sách theo cảm quan của chính người ấy, về vấn đề mà người đó quan tâm (hoặc đang quan tâm vào lúc ấy), và tìm thấy trong cuốn sách những câu trả lời phù hợp với câu hỏi đang bận trí người đó lúc đọc sách. Tác gia là người đặt ra bài toán, và người đọc là người giải bài toán. Nhưng với một cuốn sách có quá nhiều ngữ nghĩa như cuốn sách này (đó là chính tôi cho là vậy bởi những chi tiết vừa dễ vừa khó nắm bắt xảy đến trên trang sách) thì như một bài toán nhiều nghiệm, mà mỗi nghiệm được tìm ra là từ dữ kiện trong chính tâm trí người đọc. . Cuốn sách này chứa đầy ẩn dụ tôn giáo (mà hiển hiện rõ nhất là ở tên nhân vật), triết học (được nhắc trực tiếp hoặc gián tiếp, cộng thêm vô số những lồng ghép giữa hiện thức và mộng mị của nhân vật), chính trị,… và không quên cả những học thuyết khoa học. Nói thực tình, có những dòng văn cứ trôi qua trôi lại qua mắt tôi mà không đi vào nhận thức cho được, chỉ vì những khái niệm tác giả đưa ra vượt quá tầm tri nhận của tôi. Nhưng, là một người đọc tầm thường, tôi thích nhìn vào mặt vi mô của câu chuyện trong cuốn sách này. Tôi thích cách nó nói về những vật lộn và tranh đấu của một con người đi tìm “cái tôi”, đi khẳng định cái bản thể riêng có của anh ta. Tôi thích nó lý giải những mâu thuẫn và quẩn quanh của kiếp con người, thích thú trước cách nó diễn giải mối quan hệ giữa người với người, tình yêu, sự bội phản, những sự không thông hiểu, hay ngay cả những vặt vãnh trong kiếp đời một con chó (và cái lý do tại sao chó lại sướng hơn người). Tôi thấy đồng cảm với nỗi tuyệt vọng của Tereza muốn trốn chạy quá khứ và mối quan hệ vỡ nát với người mẹ, cùng niềm quẫn bách của cô trong mối quan hệ với Tomas. Tôi cảm nhận được sự lạc lõng của Sabina khi cô trôi dạt qua muôn thành phố, kiếm tìm kitsch và cũng chính là chạy trốn kitsch (kitsch là một khái niệm thú vị của cuốn sách này, trong nó chứa trọn vẹn sự to lớn lại cũng nhỏ bé, sự khó nắm bắt mà cũng rất rõ ràng của những điều cuốn sách đề cập).

Einmal ist keinmal . Cái gì xảy ra chỉ một lần tốt hơn đừng bao giờ xảy ra. Es muss sein! . Nó phải là vậy. Es konnte auch anders sein! . Nó vẫn có thể khác vậy.

Ba câu nói trên có thể dùng để gói gọn triết lý về kiếp nhân sinh mà tác giả đề cập tới trong cuốn sách, và cũng là phần tôi thích nhất. Cuộc sống, bởi không bao giờ có thể có lần thứ hai, bởi mãi mãi chỉ là bản thử duy nhất, nên chứa đựng đầy bất định. Mọi thứ đều là trải nghiệm lần đầu, và là trải nghiệm duy nhất. Cuộc sống đáng sợ bởi nó là phác hoạ của cái không. Ta không thể biết quyết định nào của mình là đúng, và không thể chọn lựa lại, một khi đã đưa ra lựa chọn. Trong cuốn sách này, những số phận người bị đẩy trôi trong những sự việc phải-là-vậy, và những sự tình cờ có-thể-khác-vậy. Cuốn sách vẽ ra những cảnh đời. Tôi thấy mình trong đó. . Nhưng gấp lại cuốn sách vẫn là một cảm giác băn khoăn khó tả, vì nó còn quá nhiều điều bản thân không thể hiểu hết. Đây là cuốn sách tôi sẽ còn đọc lại!

Đã triết lại còn thơ! Triết như một cái thân cây to lớn vững chắc xám xịt và Thơ là tán lá xanh um líu lo chim hót.

Nhưng rồi mình lại lẩn thẩn.

Đời nhẹ như là đối lập đời nặng ư? Con người ta có thể có hai cuộc đời, một nặng một nhẹ? Hay chỉ được phép chọn một, đời nặng thì thôi nhẹ mà đời nhẹ thời khỏi nặng?

Thực ra có chút mâu thuẫn (trước hết là về mặt ngôn ngữ), so với nguyên bản.

Nesnesitelná lehkost bytí. Được dịch ra tiếng Anh là The Unbearable Lightness of Being.

Nôm na là cái (sự) nhẹ không kham nổi của đời. Gốc nhẹ là danh từ, đời bổ nghĩa cho nhẹ. Dịch ra tiếng Việt, đời lại là danh từ mà nhẹ là tính từ bổ nghĩa cho đời. (Đúng không ấy nhỉ?!)

Về ngôn ngữ có trái ngược nhau mà nói ngữ nghĩa giống nhau thì có thuận?

Rồi mình lại vẩn vơ.

Cái sự nhẹ mà đã không kham nổi thì sự nặng sẽ ra sao? Hay đã có sự nhẹ rồi thời sự nặng không còn nữa?

Người bảo, ngươi đời nhẹ khôn kham thời ta đời nặng như chì thì sao?

Nghĩ, sự nặng (của đời) đè con người ta ghê gớm lắm, đè đến ngóc đầu không lên nổi. Còn biết đâu đến sự nhẹ mà kham với chả khôn kham?

Hình như không phải vậy.

Người đời thường nhẫn nhục dưới gánh nặng. Đến độ cúi đầu. Nhưng dưới chân là mặt đất. Cúi mặt thấy đất. Đất lại nâng lên.

Cái sự nhẹ thảng hoặc có sượt qua. Mấy ai để ý? Ít người dính với cái nhẹ rồi, mới biết đời khôn kham là vậy. Lơ lửng lửng lơ. Không điểm tựa. Không nơi bấu víu.

Nhưng bay bổng ...

Mình chẳng dám rườm lời. Chép ra đây một đoạn nguyên bản để nhớ. Xin lỗi những ai không đọc được, vì mình chả dám dịch. Có thể tham khảo các bản khác, Chương 2 Phần Một (phần này có tên Nhẹ và Nặng).

...

2.

Bude-li se každá Vteřina našeho života nekonečněkrát opakovat, jsme přikováni k věčnosti jak Ježíš Kristus ke kříží. Taková představa je hrozná. Ve světě věčného návratu leží na každém gestu tíha nesnesitelné odpovědnosti. To je důvod, proč Nietzsche nazýval myšlenku věčného návratu nejtěžším břemenem (das schwerste Gewicht).

Je-li věčný návrat nejtěžším břemenem, pak se mohou naše životy jevit na jeho pozadí ve vší nádherné lehkosti.

Ale je tíha opravdu hrozná a lehkost nádherná? Nejtěžší břemeno nás drtí, klesáme pod nim, tiskne nás k zemi. Ale v milostné poezii všech věků žena touží být zatížena břemenem mužova těla. Nejtěžší břemeno je tedy zároveň obrazem nejintenzivnějšího naplnění života. Čím je břemeno těžší, tím je náš život blíž zemi, tím je skutečnější a pravdivější.

Naproti tomu absolutní nepřítomnost břemene způsobuje, že se člověk stává lehčí než vzduch, vzlétá do výše, vzdaluje se zemí, pozemskému bytí, stává se jen napůl skutečný a jeho pohyby jsou stejně svobodné jako bezvýznamné.

Co si tedy máme zvolit? Tíhu nebo lehkost?

Tuto otázku si kladl Parmenides v šestém století před Kristem. Viděl celý svět rozdělen na dvojice protikladu: světlo - tma; jemnost - hrubost; teplo - chlad; bytí - nebytí. Jeden pól protikladu byl pro něho pozitivní (světlo, teplo, jemnost, bytí), druhý negativní. Takové dělení na pozitivní a negativní pól nám může připadat dětinsky snadné. Až najeden případ: co je pozitivní, tíha nebo lehkost?

Parmenides odpověděl: lehkost je pozitivní, tíha je negativní.

Měl pravdu či ne? To je otázka. Jisté je jen jedno: protiklad tíha - lehkost je nejtajemnější a nejmnohovýznamnější ze všech protikladů.