John von neumann là ai

🎉 Đếm ngược tới sinh nhật John von Neumann 🎂

  • -- Ngày
  • -- Giờ
  • -- Phút
  • -- Giây

John von Neumann là một nhà toán học, vật lý, nhà khoa học máy tính, kỹ sư và đa hình người Mỹ gốc Hungary. Von Neumann thường được coi là nhà toán học hàng đầu trong thời đại của ông và được coi là "đại diện cuối cùng của các nhà toán học vĩ đại". Nó tích hợp các khoa học ứng dụng và thuần túy. Von Neumann đã có những đóng góp lớn trong nhiều lĩnh vực, bao gồm toán học, vật lý, kinh tế, khoa học máy tính và thống kê. Ông là người đi tiên phong trong việc ứng dụng lý thuyết toán tử vào cơ học lượng tử trong việc phát triển phân tích chức năng, và là nhân vật chủ chốt trong việc phát triển lý thuyết trò chơi và các khái niệm về ô tô, chế tạo xe phổ thông và máy tính kỹ thuật số. Von Neumann đã xuất bản hơn 150 bài báo trong cuộc đời mình: khoảng 60 bài báo về toán học thuần túy, 60 bài báo về toán học ứng dụng, 20 bài báo về vật lý, và phần còn lại về toán học đặc biệt hoặc phi toán học.

Born Neumann János Lajos, December 28, 1903, Budapest, Kingdom of Hungary
Died February 8, 1957, Washington, D.C, United States
Citizenship Hungary, United States
Fields Mathematics, physics, statistics, economics, computer science
Institutions University of Berlin, Princeton University, Institute for Advanced Study, Los Alamos Laboratory
Alma mater Pázmány Péter University, ETH Zürich, University of Göttingen
Thesis Az általános halmazelmélet axiomatikus felépítése [Axiomatic construction of general set theory] [1925]
Other academic advisors László Rátz, David Hilbert
Doctoral students Donald B. Gillies, Israel Halperin, Friederich Mautner
Other notable students Paul Halmos, Clifford Hugh Dowker, Benoit Mandelbrot
Known for Abelian von Neumann algebra, Affiliated operator, Amenable group, Arithmetic logic unit, Artificial viscosity, Axiom of regularity, Axiom of limitation of size, Backward induction, Blast wave [fluid dynamics], Taylor–von Neumann–Sedov blast wave, Bounded set [topological vector space], Carry-save adder, Cellular automata, Class [set theory], Computer virus, Commutation theorem, Continuous geometry, Coupling constants, Decoherence theory [quantum mechanics]
Notable awards Bôcher Memorial Prize [1938], Navy Distinguished Civilian Service Award [1946], Medal for Merit [1946], Medal of Freedom [1956], Enrico Fermi Award [1956]
Spouse Marietta Kövesi, Klara Dan
Children Marina von Neumann Whitman

Nhà toán học và chuyên gia về đa số. Ông đã đóng góp vào các lĩnh vực như vật lý, khoa học máy tính, kinh tế và thống kê.

John von Neumann trước khi nổi tiếng

Ông lấy bằng Tiến sĩ. trong toán học tại Đại học Pázmány Péter.

Thành tựu & Danh hiệu của John von Neumann

Ông đã phát triển các bước cho vật lý hạt nhân của bom khinh khí với tư cách là một thành viên nổi bật của Dự án Manhattan.

Cuộc sống gia đình của John von Neumann

Ông kết hôn với Klara Dan vào năm 1938.

Những người đã hợp tác với John von Neumann

Ông đã giành được Giải thưởng Physicist Enrico Fermi năm 1956.

Top sự thật mà bạn không biết về John von Neumann

John von Neumann [nhà điêu khắc], Eugene, Oregon.. John von Neumann Prize - Giải John von Neumann, được đặt theo tên của John von Neumann được trao hàng năm bởi Trường Cao đẳng Nghiên cứu Cao cấp Rajk László, cho một nhà nghiên cứu xuất sắc trong lĩnh vực khoa học xã hội cụ thể, người đã có ảnh hưởng đáng kể trong một thời gian dài của thời gian nghiên cứu và hoạt động trí tuệ của .... Tàu vũ trụ tự tái tạo - Ý tưởng về một tàu vũ trụ tự tái tạo đã được áp dụng - trên lý thuyết - cho một số "nhiệm vụ" riêng biệt. Biến thể đặc biệt này của ý tưởng được áp dụng cho ý tưởng khám phá không gian được gọi là tàu thăm dò von Neumann, do nhà toán học John von Neumann thiết kế.. Đại số Von Neumann - Trong toán học, đại số von Neumann hoặc đại số W là một đại số * của các toán tử mà không gian Hilbert bị giới hạn trong một cấu trúc liên kết toán tử yếu và chứa toán tử nhận dạng. Nó là một đại số C * đặc biệt.. Kiến trúc Von Neumann - Kiến trúc von Neumann - còn được gọi là Mô hình von Neumann hoặc Kiến trúc Princeton - là một kiến ​​trúc máy tính dựa trên mô tả năm 1945 của John von Neumann và những người khác trong bản thảo đầu tiên của báo cáo trên EDVAC. Tài liệu này mô tả thiết kế kiến ​​trúc của một .... Định lý lưỡng cực của Von Neumann - Trong toán học, đặc biệt là phân tích hàm, định lý lưỡng cực của von Neumann liên quan đến việc đóng một tập hợp các toán tử giới hạn trên một không gian Hilbert trong hầu hết các cấu trúc liên kết. với tính hai mặt của tập này.. Các nhà vật lý hạt nhân Hungary. Các nhà lý thuyết đo lường. Các nhà lý thuyết mạng. Các nhà giám lý Monte Carlo. Các nhà khoa học máy tính Hungary. Người nhận Huy chương Nghiên cứu Carl-Gustaf Rossby. Các nhà kinh tế toán học. Những người chống cộng ở Hungary. Máy tính toán. Các nhà nghiên cứu sự sống nhân tạo. Người nhận giải thưởng Enrico Fermi. Dữ liệu di động tự động. Khen thưởng Huy chương. Chủ tịch Hiệp hội Toán học Hoa Kỳ. Các nhà phát minh Hungary. Nhà thiết kế máy tính. Được chôn cất tại Nghĩa trang Princeton. Các nhà nghiên cứu Mỹ trong hoạt động. Các nhà toán học Áo-Hung. Các thành viên của Lincean Academy. Nhà phân tích chức năng. Công ty RAND người. Định nghĩa của các nhà lý thuyết. Người nhận Huân chương Tự do. Áo TM_MTT quý phái! Bộ môn Viện Nghiên cứu Cao cấp. Các nhà lý thuyết của trò chơi. Công giáo La Mã Hungary. Các nhà toán học Hungary. Các nhà vật lý toán học. Các nhà vật lý hạt nhân Hoa Kỳ. Chuyển đổi sang Công giáo La Mã từ Do Thái giáo. Cựu sinh viên của ETH Zurich. Các nhà vật lý Do Thái. Các nhà lý thuyết xác suất. Động lực học chất lỏng. Dự án Manhattan Người. Quý tộc Hungary. Người Hungary nhập cư vào Hoa Kỳ. Thành viên của Hiệp hội Triết học Hoa Kỳ. Thành viên của Hiệp hội Kinh tế

His real name is John von Neumann.

John von Neumann's birthday is on 28 Tháng 12.

John von Neumann died on 8 Tháng 2, 1957.

He died at aged 53. [1903 - 1957]

John von Neumann was born on 28 Tháng 12, 1903.

 Biểu đồ chiêm tinh của John von Neumann

Thông tin về John von Neumann cập nhật ngày 28 Tháng 3 năm 2022.

John von Neumann [Neumann János; 28 tháng 12 năm 1903 – 8 tháng 2 năm 1957] là một nhà toán học người Mỹ gốc Hungary và là một nhà bác học thông thạo nhiều lĩnh vực đã đóng góp vào vật lý lượng tử, giải tích hàm, lý thuyết tập hợp, kinh tế, khoa học máy tính, giải tích số, động lực học chất lưu, thống kê và nhiều lĩnh vực toán học khác.
Đáng chú ý nhất, von Neumann là nhà tiên phong của máy tính kỹ thuật số hiện đại và áp dụng của lý thuyết toán tử [operator theory] vào cơ học lượng tử [xem đại số Von Neumann], một thành viên của Dự án Manhattan, người sáng lập ra lý thuyết trò chơi và khái niệm cellular automata. Cùng với Edward Teller và Stanisław Ulam, von Neumann khám phá ra những bước quan trọng trong vật lý hạt nhân liên quan đến phản ứng nhiệt hạch [thermonuclear] và bom khinh khí.


John von Neumann - Nhà vật lý

Home » Tiểu Sử » Thiên tài vô song của John von Neumann

Posted by Nguyễn Việt Thanh Giang Tiểu Sử

” Hầu hết những nhà toán học chứng tỏ những gì họ hoàn toàn có thể, von Neumann chứng tỏ những gì ông ấy muốn ” Thực sự rất khó để bác bỏ một cách hiệu suất cao công bố rằng John von Neumann hoàn toàn có thể là người mưu trí nhất từng sống. Vào thời gian ông qua đời năm 1957 ở tuổi 53 nhã nhặn, đa phần người Hungary đã không chỉ cách mạng hóa một số ít nghành toán học và vật lý mà còn có những góp phần cơ bản cho kinh tế tài chính học và thống kê thuần túy và đóng vai trò quan trọng trong việc ý tưởng ra bom nguyên tử, nguồn năng lượng hạt nhân và điện toán kỹ thuật số .

Hiện nay được biết đến như thể “ đại diện thay mặt sau cuối của những nhà toán học vĩ đại ”, thiên tài von Neumann đã trở thành lịch sử một thời ngay cả khi còn sống của chính mình. Rất nhiều câu truyện và giai thoại về sự sáng chói của ông, từ những nhà vật lý đoạt giải Nobel đến những nhà toán học đẳng cấp và sang trọng quốc tế :

“Bạn biết đấy, Herb, Johnny có thể tính toán trong đầu nhanh gấp mười lần tôi có thể. Và tôi có thể làm chúng nhanh gấp mười lần bạn có thể, vì vậy bạn có thể thấy Johnny ấn tượng như thế nào ”- Enrico Fermi [Giải Nobel Vật lý, 1938]

Bạn đang đọc: Thiên tài vô song của John von Neumann

” Người ta có ấn tượng về một công cụ tuyệt vời và hoàn hảo nhất có những bánh răng được gia công để chia lưới đúng mực đến một phần nghìn inch. ” – Eugene Wigner [ Giải Nobel Vật lý, 1963 ] “ Đôi khi tôi tự hỏi liệu một bộ não như của von Neumann không chỉ ra loài nào tiêu biểu vượt trội hơn loài người ” – Hans Bethe [ Giải Nobel Vật lý, 1967 ] Và thực sự, von Neumann đã thao tác cùng và hợp tác với một số ít nhân vật quan trọng nhất của khoa học thế kỷ XX. Anh học trung học với Eugene Wigner, cộng tác với Hermann Weyl tại ETH, tham gia những bài giảng của Albert Einstein ở Berlin, thao tác với David Hilbert tại Göttingen, với Alan Turing và Oskar Morgenstern ở Princeton, với Niels Bohr ở Copenhagen và thân thiện với cả hai Richard Feynman và J. Robert Oppenheimer tại Los Alamos . Là một người di cư đến Mỹ vào năm 1933, cuộc sống của von Neumann là một cuộc sống nổi tiếng dành riêng cho những tiềm năng theo đuổi nhận thức và phát minh sáng tạo, nhưng cũng để tận thưởng đời sống. Hai lần kết hôn và giàu sang, anh ấy thích quần áo đắt tiền, rượu mạnh, xe hơi nhanh và những trò đùa nhơ bẩn, theo Stanisław Ulam, người bạn của anh ấy. Người viết tiểu sử sau khi qua đời của ông, Norman Macrae, gần như là không tự nguyện kể lại, mọi người thích von Neumann, ngay cả những người không chấp thuận đồng ý với chính trị bảo thủ của ông [ Regis, 1992 ] .

Bài luận này nhằm mục đích làm điển hình nổi bật 1 số ít kỳ công không hề tin được trong tâm lý của “ Johnny ” von Neumann. Chúc những bạn đọc vui tươi !

Những năm đầu [1903–1921]

Neumann János Lajos [ John Louis Neumann trong tiếng Anh ] sinh [ hay “ đến ” ] vào ngày 28 tháng 12 năm 1903 tại Budapest, Hungary. Sinh ra trong mái ấm gia đình những chủ ngân hàng nhà nước Do Thái giàu sang, không tinh ý, sự nuôi dạy của ông hoàn toàn có thể được diễn đạt là đặc ân. Cha anh có bằng tiến sỹ luật và anh lớn lên trong một căn hộ cao cấp 18 phòng trên tầng cao nhất phía trên văn phòng Kann-Heller tại 62 phố Bajcsy-Zsilinszky ở Budapest [ Macrae, 1992 ] .

John von Neumann lúc 7 tuổi [1910]

Thần đồng

“ Johnny ” von Neumann là một thần đồng. Ngay từ khi còn nhỏ, đã có những câu truyện kỳ ​ ​ lạ về năng lực của cậu bé John Louis : chia hai số có tám chữ số trong đầu và trò chuyện bằng tiếng Hy Lạp cổ đại ở tuổi lên sáu [ Henderson, 2007 ], thành thạo giải tích ở tuổi tám [ Nasar, 1998 ] và đọc Théorie des Fonctions của Emile Borel [ “ Về 1 số ít điểm trong kim chỉ nan tính năng ” ] ở tuổi mười hai [ Leonard, 2010 ]. Được biết, von Neumann chiếm hữu một trí nhớ kỹ thuật số, và do đó, ông hoàn toàn có thể nhớ lại những cuốn tiểu thuyết và những trang trong danh bạ điện thoại cảm ứng theo lệnh. Điều này được cho phép anh ta tích góp một kiến ​ ​ thức gần như bách khoa về những gì anh ta từng đọc, ví dụ điển hình như lịch sử dân tộc của những cuộc cuộc chiến tranh Peloponnesian, Thử thách Joan of Arc và lịch sử dân tộc Byzantine [ Leonard, 2010 ]. Một giáo sư của Princeton về chủ đề sau này từng công bố rằng khi anh ấy ngoài ba mươi tuổi, Johnny có trình độ sâu hơn về lịch sử vẻ vang Byzantine hơn anh ấy [ Blair, 1957 ] .


Trái: John von Neumann năm 11 tuổi [1915] với người anh họ Katalin Alcsuti. [Ảnh: Nicholas Vonneumann]. Phải: Anh em nhà Neumann Miklós [1911–2011], Mihály [1907–1989] và János Lajos [1903–1957]

"One of his remarkable abilities was his power of absolute recall. As far as I could tell, von Neumann was able on once reading a book or article to quote it back verbatim; moreover, he could do it years later without hesitation. He could also translate it at no diminution in speed from its original language into English. On one occasion I tested his ability by asking him to tell me how A Tale of Two Cities started. Whereupon, without any pause, he immediately began to recite the first chapter and continued until asked to stop after about ten or fifteen minutes." Excerpt, The Computer from Pascal to von Neumann by Herman Goldstein [1980]
  • Leo Szilard [đạt 1908–16 tại Real Gymnasium], nhà vật lý đã hình thành phản ứng dây chuyền hạt nhân và vào cuối năm 1939 đã viết bức thư nổi tiếng Einstein-Szilard cho Franklin D. Roosevelt, dẫn đến việc hình thành Dự án Manhattan xây dựng quả bom nguyên tử đầu tiên
  • Eugene Wigner [đạt 1913–21 tại Lutheran Gymnasium ], người đoạt giải Nobel Vật lý năm 1963, người đã làm việc trong Dự án Manhattan, bao gồm lý thuyết về hạt nhân nguyên tử, các hạt cơ bản và Định lý Wigner trong cơ học lượng tử
  • Edward Teller [học năm 1918–26 tại Trường Minta], “cha đẻ của bom khinh khí”, thành viên ban đầu của Dự án Manhattan và là người đóng góp cho vật lý hạt nhân và phân tử, quang phổ và vật lý bề mặt
"The four Budapesters were as different as four men from similar backgrounds could be. They resembled one another only in the power of the intellects and in the nature of their professional careers. Wigner [...] is shy, painfully modest, quiet. Teller, after a lifetime of successful controversy, is emotional, extroverted and not one to hide his candle. Szilard was passionate, oblique, engagé, and infuriating. Johnny [...] was none of these. Johnny's most usual motivation was to try to make the next minute the most productive one for whatever intellectual business he had in mind." - Excerpt, John von Neumann by Norman Macrae [1992]

Vào thời gian von Neumann nhập học ĐH năm 1921, ông đã viết một bài báo với một trong những người dạy kèm của mình, Mikhail Fekete về ” Sự tổng quát của định lý Fejér về vị trí của những gốc của một loại đa thức nhất định ” [ Ulam, 1958 ]. Fekete đã cùng với Laszló Rátz được cho là đã thông tin cho von Neumann và khởi đầu dạy kèm cho anh ta môn toán cấp ĐH. Theo Ulam, ngay từ khi mới 18 tuổi, von Neumann đã được công nhận là một nhà toán học chính thức. Trong một bài báo về kim chỉ nan tập hợp bắt đầu được viết bởi von Neumann 16 tuổi, chính Abraham Fraenkel [ người nổi tiếng về kim chỉ nan tập hợp Zermelo-Fraenkel ] sau này đã công bố [ Ulam, 1958 ] :

Letter from Abraham Fraenkel to Stanislaw Ulam Around 1922-23, being then professor at Marburg University, I received from Professor Erhard Schmidt, Berlin [...] a long manuscript of an author unknown to me, Johann von Neumann, with the title Die Axiomatisierung der Mengerlehre, this being his eventual doctor dissertation which appeared in the Zeitschrift only in 1928 [...] I asked to express my view since it seemed incomprehensible. I don't maintain that I understood anything, but enough to see that this was an outstanding work, and to recognize ex ungue leonem [the claws of the lion]. While answering in this sense, I invited the young scholar to visit me in Marburg, and discussed things with him, strongly advising him to prepare the ground for the understanding of so technical an essay by a more informal essay which could stress the new access to the problem and its fundamental consequences. He wrote such an essay under the title Eine Axiomatisierung der Mengerlehre and I published it in 1925.

Như Macrae [ 1992 ] viết, không khi nào hoài nghi rằng một ngày nào đó Johnny sẽ theo học ĐH. Cha của Johnny, Max, khởi đầu muốn anh theo bước chân của mình và trở thành một nhà kinh tế tài chính được trả lương cao, lo ngại về sự không thay đổi kinh tế tài chính của sự nghiệp toán học. Tuy nhiên, với sự giúp sức và khuyến khích từ những nhà toán học Hungary như Lipót Fejér và Rudolf Ortvay, cha anh sau cuối đã chấp thuận đồng ý và quyết định hành động để von Neumann theo đuổi đam mê của mình, hỗ trợ vốn cho việc học tập của anh ở quốc tế . Johnny, có vẻ như đồng ý chấp thuận với cha mình, bắt đầu quyết định hành động theo đuổi sự nghiệp kỹ sư hóa học. Vì anh ta không có bất kể kiến ​ ​ thức nào về hóa học, nên người ta đã sắp xếp để anh ta hoàn toàn có thể theo học một khóa học không lấy bằng hai năm về hóa học tại Đại học Berlin. Từ năm 1921 đến năm 1923, ông đã thi đậu và thi đỗ vào ETH Zurich Gianh Giá. Vẫn chăm sóc đến việc theo đuổi toán học, ông cũng đồng thời vào Đại học Pázmány Péter [ nay là Đại học Eötvös Loránd ] ở Budapest với tư cách là Tiến sĩ. ứng viên trong toán học. Tiến sĩ của ông luận án, chính thức được viết dưới sự giám sát của Fejér, được coi là tiên đề hóa triết lý tập hợp của Cantor. Khi chính thức đến Berlin học hóa học, anh ấy đã triển khai xong bằng Tiến sĩ của mình. phần đông vắng mặt, chỉ Open tại Đại học ở Budapest vào cuối mỗi kỳ thi. Khi ở Berlin, ông hợp tác với Erhard Schmidt về kim chỉ nan tập hợp và cũng tham gia những khóa học về vật lý, gồm có cả cơ học thống kê do Albert Einstein giảng dạy. Tại ETH, mở màn từ năm 1923, ông liên tục cả điều tra và nghiên cứu hóa học và điều tra và nghiên cứu toán học . “ Rõ ràng là bằng Tiến sĩ. luận văn và kỳ thi không tạo nên một nỗ lực đáng trân trọng ” – Eugene Wigner

Hai bức chân dung của John von Neumann [những năm 1920]

Trong toán học, lần tiên phong ông điều tra và nghiên cứu kim chỉ nan đồng điệu của Hilbert với nhà toán học người Đức Hermann Weyl. Cuối cùng anh ấy đã tốt nghiệp cả kỹ sư hóa học từ ETH và với bằng Tiến sĩ. trong toán học, triệu tập kiêm thủ khoa từ Đại học Budapest năm 1926 khi 24 tuổi . “ Có một buổi hội thảo chiến lược dành cho học viên tiên tiến và phát triển ở Zürich mà tôi đang dạy và von Neumann xuất hiện trong lớp. Tôi đã đi đến một định lý nhất định, và tôi nói rằng nó không được chứng tỏ và nó hoàn toàn có thể khó. von Neumann không nói gì nhưng sau năm phút anh ta giơ tay lên. Khi tôi gọi cho anh ấy, anh ấy đã lên bảng đen và ghi lại vật chứng. Sau đó, tôi sợ von Neumann ” – George Pólya

Nhiều Người Cũng Xem  Blogger Lê Nguyễn Hương Trà

Từ đơn đăng ký Học bổng của von Neumann cho Hội đồng Giáo dục Quốc tế [1926]

Đơn ĐK của anh ấy đến Ban Giáo dục Quốc tế do Rockefeller hỗ trợ vốn [ ở trên ] cho học bổng sáu tháng để liên tục điều tra và nghiên cứu tại Đại học Göttingen đề cập đến tiếng Hungary, tiếng Đức, tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Ý, và kèm theo thư ra mắt từ Richard Courant, Hermann Weyl và David Hilbert, ba trong số những nhà toán học số 1 quốc tế vào thời gian đó [ Leonard, 2010 ] .

Ở Göttingen [1926–1930]

Khán phòng tối đa tại Đại học Göttingen, 1935

Johnny đến Göttingen vào mùa thu năm 1926 để liên tục việc làm toán học của mình dưới thời David Hilbert, hoàn toàn có thể là nhà toán học số 1 quốc tế thời đó. Được biết, theo Leonard [ 2010 ], von Neumann khởi đầu bị lôi cuốn bởi lập trường của Hilbert trong cuộc tranh luận về cái gọi là siêu ngữ học, còn được gọi là chủ nghĩa hình thức và đây là điều đã thôi thúc ông theo học Hilbert. Đặc biệt, trong đơn xin học bổng của mình, anh ấy đã viết về nguyện vọng được thực thi [ Leonard, 2010 ]

"Research over the bases of mathematics and of the general theory of sets, especially Hilbert's theory of uncontradictoriness [...], [investigations which] have the purpose of clearing up the nature of antinomies of the general theory of sets, and thereby to securely establish the classical foundations of mathematics. Such research render it possible to explain critically the doubts which have arisen in mathematics"

Lý thuyết tập hợp

John von Neumann đã viết một loạt những bài báo về triết lý tập hợp và logic khi ở tuổi hai mươi :

  • von Neumann [1923]. Bài báo lý thuyết tập hợp đầu tiên của ông có tựa đề Zur Einführung der transfiniten Zahlen [“Về sự ra đời của các số vô hạn”] và liên quan đến định nghĩa năm 1897 của Cantor về số thứ tự như các loại thứ tự của các tập hợp có thứ tự tốt. Trong bài báo, von Neumann giới thiệu một lý thuyết mới về số thứ tự, coi một thứ tự là tập hợp của các thứ tự trước đó [Van Heijenoort, 1970].
  • von Neumann [1925]. Bài báo lý thuyết tập hợp thứ hai của ông có tựa đề Eine Axiomatisierung der Mengenlehre [“Một tiên đề hóa lý thuyết tập hợp”]. Đây là bài báo đầu tiên giới thiệu cái mà sau này được gọi là lý thuyết tập hợp von Neumann-Bernays-Gödel [NBG] và bao gồm phần giới thiệu đầu tiên về khái niệm một lớp, được định nghĩa bằng cách sử dụng các khái niệm ban đầu về hàm và đối số. Trong bài báo, von Neumann có lập trường về nền tảng của cuộc tranh luận toán học, phản đối việc Brouwer và Weyl sẵn sàng ‘hy sinh phần lớn toán học và lý thuyết tập hợp’, và ‘nỗ lực của các nhà logic học xây dựng toán học dựa trên tiên đề về khả năng rút gọn’. Thay vào đó, ông lập luận cho cách tiếp cận tiên đề của Zermelo và Fraenkel, theo quan điểm của von Neumann, thay thế sự mơ hồ bằng sự chặt chẽ [Leonard, 2010].
  • von Neumann [1926]. Bài báo thứ ba Az általános nalmazelmélet axiomatikus folépitése, luận án tiến sĩ của ông, chứa những điểm chính sẽ được xuất bản bằng tiếng Đức lần đầu tiên trong bài báo thứ năm của ông.
  • von Neumann [1928]. Trong bài báo lý thuyết tập hợp thứ tư của mình, có tựa đề Die Axiomatisierung der Mengenlehre [“Tiên đề hóa của lý thuyết tập hợp”], von Neumann chính thức đưa ra hệ tiên đề của riêng mình. Với một trang tiên đề, nó là tiên đề lý thuyết tập hợp ngắn gọn nhất được phát triển vào thời điểm đó, và là cơ sở cho hệ thống do Gödel và Berneys phát triển sau này .
  • von Neumann [1928]. Bài báo thứ năm của ông về lý thuyết tập hợp, “Über die Definition durch transfinite Induktion und verwandte Fragen der allgemeinen Mengenlehre” [“Về định nghĩa bằng quy nạp vô hạn và các câu hỏi liên quan của lý thuyết tập hợp tổng quát”] chứng minh khả năng định nghĩa bằng quy nạp vô hạn. Đó là, trong bài báo von Neumann chứng minh ý nghĩa của tiên đề đối với việc loại bỏ các nghịch lý của lý thuyết tập hợp, chứng minh rằng một tập hợp không dẫn đến mâu thuẫn nếu và chỉ khi bản số của nó không giống với bản số của tất cả các tập hợp, mà ngụ ý tiên đề về sự lựa chọn [Leonard, 2010].
  • von Neumann [1929]. Trong bài báo về lý thuyết tập hợp thứ sáu của mình, Über eine Widerspruchsfreiheitsfrage in der axiomatischen Mengenlehre, von Neumann thảo luận về các câu hỏi về tính nhất quán tương đối trong lý thuyết tập hợp [Van Heijenoort, 1970].


Trái: John von Neumann vào những năm 1920. Phải: von Neumann, J [1923]. Zur Einführung der transfiniten Zahlen [“Về việc giới thiệu các số vô hạn”]. Acta Litterarum ac Scientiarum Regiae Universitatis Hungaricae Francisco-Josephinae, sectio scientiarum mathmaticarum, 1, trang 199–208.

Lấy cảm hứng từ những khu công trình của Georg Cantor, tiên đề năm 1908 của Ernst Zermelo về triết lý tập hợp và những lời phê bình năm 1922 về kim chỉ nan tập hợp của Zermelo của Fraenkel và Skolem, khu công trình của von Neumann đã phân phối giải pháp cho một số ít yếu tố của kim chỉ nan tập hợp Zermelo, dẫn đến sự tăng trưởng sau cuối của Zermelo – Lý thuyết tập hợp Fraenkel [ ZFC ]. Các yếu tố mà anh ấy đã giúp xử lý gồm có :

  • Vấn đề phát triển lý thuyết số thứ tự của Cantor trong lý thuyết tập hợp Zermelo. von Neumann đã định nghĩa lại thứ tự bằng cách sử dụng các tập hợp được sắp xếp hợp lý bằng cách sử dụng cái gọi là quan hệ ∈.
  • Vấn đề tìm kiếm một tiêu chí xác định các lớp quá lớn để được thiết lập. von Neumann đưa ra tiêu chí rằng một lớp quá lớn để trở thành một tập hợp nếu và chỉ khi nó có thể được ánh xạ vào lớp của tất cả các tập hợp.
  • Khái niệm có phần không chính xác của Zermelo về ‘một hàm mệnh đề xác định’ trong tiên đề tách biệt của ông. von Neumann đã chính thức hóa khái niệm này bằng các chức năng của mình, mà việc xây dựng nó chỉ cần rất nhiều tiên đề.
  • Bài toán về cơ sở của Zermelo của tập rỗng và tập vô hạn, và lặp lại các tiên đề về ghép đôi, liên hợp, tập hợp lũy thừa, phân tách và sự lựa chọn để tạo ra các tập hợp mới. Fraenkel đưa ra tiên đề loại trừ các tập hợp. von Neumann đã sửa đổi công thức của Fraenkel trong tiên đề về tính đều đặn để loại trừ các tập hợp không có cơ sở.
"At a mathematical conference preceding Hilbert's address, a quiet, obscure young man, Kurt Gödel, only a year beyond his PhD, announced a result which would forever change the foundations of mathematics. He formalized the liar paradox, "This statement is false" to prove roughly that for any effectively axiomatized consistent extension T of number theory [Peano arithmetic] there is a sentence σ which asserts its own unprovability in T. John von Neumann, who was in the audience immediately understood the importance of Gödel's incompleteness theorem. He was at the conference representing Hilbert's proof theory program and recognized that Hilbert's program was over. In the next few weeks von Neumann realized that by arithmetizing the proof of Gödel's first theorem, one could prove an even better one, that no such formal system T could prove its own consistency. A few weeks later he brought his proof to Gödel, who thanked him and informed him politely that he had already submitted the second incompleteness theorem for publication." - Excerpt, Computability. Turing, Gödel, Church and Beyond by Copeland et al. [2015]

“ Gödel trọn vẹn không hề sửa chữa thay thế được. Trong một lớp học một mình. ”
Vào cuối năm 1927, von Neumann đã xuất bản mười hai bài báo lớn trong toán học. Ông Habilitation [ trình độ trình độ để thực thi giảng dạy ĐH độc lập ] được hoàn thành xong vào tháng Mười Hai năm 1927, và ông mở màn giảng dạy như một Privatdozent tại Đại học Berlin vào năm 1928 ở tuổi 25, người trẻ nhất Privatdozent khi nào bầu trong lịch sử vẻ vang của trường ĐH ở bất kể đối tượng người dùng .

"By the middle of 1927 it was clearly desirable for the young eagle Johnny to soar from Hilbert's nest. Johnny had spent his undergraduate years explaining what Hilbert had got magnificently right but was now into his postgraduate years where had to explain what Hilbert had got wrong" - Excerpt, John von Neumann by Norman Macrae [1992]

Cùng khoảng chừng thời hạn ông góp phần cho kim chỉ nan tập hợp, von Neumann cũng đã chứng tỏ một định lý được gọi là định lý minimax cho những game show có tổng bằng không, sau này đặt nền móng cho nghành nghề dịch vụ kim chỉ nan game show mới như một ngành toán học. Định lý minimax hoàn toàn có thể được tóm tắt như sau :

The Minimax Theorem [von Neumann, 1928] The minimax theorem provides the conditions that guarantee that the max-min inequality is also an equality, i.e. that every finite, zero-sum, two-person game has optimal mixed strategies.


Trái: von Neumann, J. [1928]. Zur Theorie der Gesellschaftsspiele [“Về lý thuyết của trò chơi chiến lược”]. Phải: Bản sao lần đầu tiên của Lý thuyết Trò chơi và Hành vi Kinh tế [1944] của John von Neumann và Oskar Morgenstern [Ảnh: Whitmore Rare Books].

Vào cuối năm 1929, số lượng những bài báo chính được xuất bản của von Neumann đã tăng lên 32, trung bình gần một bài báo lớn mỗi tháng. Năm 1929, ông nhanh gọn trở thành Privatdozent tại Đại học Hamburg, nơi ông nhận thấy triển vọng trở thành một giáo sư sẽ tốt hơn .

Cơ lượng tử

Trong một list rút gọn mà chính von Neumann nộp cho Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia sau này khi còn sống, ông đã liệt kê khu công trình của mình về cơ học lượng tử ở Göttingen [ 1926 ] và Berlin [ 1927 – 29 ] là khu công trình “ quan trọng nhất ”. Thuật ngữ cơ học lượng tử, phần nhiều được nghĩ ra bởi wunderkind Werner Heisenberg, hai mươi ba tuổi của Göttingen vào năm trước vẫn còn được tranh luận sôi sục, và trong cùng năm von Neumann đến, Erwin Schrödinger, khi đó đang thao tác tại Thụy Sĩ, đã bác bỏ công thức của Heisenberg là trọn vẹn sai lầm đáng tiếc. [ Macrae, 1992 ]. Như câu truyện diễn ra :

"In Johnny's early weeks at Göttingen in 1926, Heisenberg lectured on the difference between his and Schrödinger's theories. The aging Hilbert, professor of mathematics, asked his physics assistant, Lothar Nordheim, what on earth this young man Heisenberg was talking about. Nordheim sent to the professor a paper that Hilbert still did not understand. To quote Nordheim himself, as recorded in Heims's book: "When von Neumann saw this, he cast it in a few days into elegant axiomatic form, much to the liking of Hilbert." To Hilbert's delight, Johnny's mathematical exposition made much use of Hilbert's own concept of Hilbert space." - Excerpt, John von Neumann by Norman Macrae [1992] "By the time von Neumann started his investigations on the formal framework of quantum mechanics this theory was known in two different mathematical formulations: the "matrix mechanics" of Heisenberg, Born and Jordan, and the "wave mechanics" of Schrödinger. The mathematical equivalence of these formulations had been established by Schrödinger, and they had both been embedded as special cases in a general formalism, often called "transformation theory", developed by Dirac and Jordan. This formalism, however, was rather clumsy and it was hampered by its reliance upon ill-defined mathematical objects, the famous delta-functions of Dirac and their derivatives. [..] [von Neumann] soon realized that a much more natural framework was provided by the abstract, axiomatic theory of Hilbert spaces and their linear operators." - Excerpt, Von Neumann's Contributions to Quantum Theory by Léon Van Hove [1958]
  • von Neumann [1927]. Mathematische Begründung der Quantenmechanik [“Nền tảng Toán học của Cơ học Lượng tử”] trong Nachrichten von der Gesellschaft der Wissenschaaries zu Göttingen, Mathematisch-Physikalische Klasse trang 1–57.
  • von Neumann [1927]. Wahrscheinlichkeitstheoretischer Aufbau der Quantenmechanik [“Lý thuyết xác suất của Cơ học lượng tử”] trong Nachrichten von der Gesellschaft der Wissenschaosystem zu Göttingen, Mathematisch-Physikalische Klasse trang 245–272.
  • von Neumann [1927]. Thermodynamik quantenmechanischer Gesamtheiten [“Nhiệt động lực học của các đại lượng cơ lượng tử”] trong Nachrichten von der Gesellschaft der Wissenschaaries zu Göttingen, Mathematisch-Physikalische Klasse. trang 273–291.
  • von Neumann [1930]. Allgemeine Eigenwerttheorie Hernticcher Funktionaloperatoren [“Lý thuyết giá trị tổng quát của các toán tử hàm Hermitian”] trong Mathematische Annalen 102 [1] trang 49–131.
  • von Neumann [1931]. Die Eindeutigkeit der Schrödingerschen Operatoren [“Tính duy nhất của toán tử Schrödinger”] trong Mathematische Annalsen 104 trang 570–578.

Tóm lại, hoàn toàn có thể nói những góp phần của von Neumann so với cơ học lượng tử nói chung là gấp đôi, gồm có :

  • Khung toán học của lý thuyết lượng tử, trong đó các trạng thái của hệ thống vật lý được mô tả bằng vectơ không gian Hilbert và các đại lượng có thể đo được [như vị trí, động lượng và năng lượng] bởi các toán tử hermitian không giới hạn tác động lên chúng; và
  • Các khía cạnh thống kê của lý thuyết lượng tử. Trong quá trình xây dựng công thức cơ học lượng tử theo vectơ và toán tử trong không gian Hilbert, von Neumann cũng đưa ra quy tắc cơ bản về cách hiểu lý thuyết về mặt thống kê [Van Hove, 1958]. Nghĩa là, do kết quả của phép đo một đại lượng vật lý nhất định trên một hệ thống ở trạng thái lượng tử nhất định, phân bố xác suất của nó phải được biểu thị bằng vectơ đại diện cho trạng thái và độ phân giải phổ của toán tử đại diện cho đại lượng vật lý.
  • Bản sao lần đầu tiên của Mathematische Grundlagen der Quantenmechanik [1932] của John von Neumann

Cơ học lượng tử quả thực đã rất như mong muốn khi lôi cuốn được sự chăm sóc của một thiên tài toán học tầm cỡ von Neumann trong những năm tiên phong sau khi phát hiện ra nó vào năm 1925. Kết quả là, khung toán học của kim chỉ nan đã được tăng trưởng và những góc nhìn chính thức của những quy tắc lý giải trọn vẹn mới lạ của nó đã được một người duy nhất nghiên cứu và phân tích trong hai năm [ 1927 – 1929 ]. – Van Hove [ 1958 ]

Lý thuyết toán tử

Sau việc làm của mình trong triết lý tập hợp và cơ học lượng tử, khi vẫn ở Berlin, tiếp theo, von Neumann chuyển sự quan tâm của mình sang đại số, đặc biệt quan trọng là kim chỉ nan toán tử tương quan đến điều tra và nghiên cứu những toán tử tuyến tính trên không gian hàm. Các ví dụ tầm thường nhất là những độc lạ và những nhà khai thác không hề thiếu toàn bộ tất cả chúng ta nhớ từ thống kê giám sát. von Neumann đã ra mắt nghiên cứu và điều tra về những vòng của toán tử trải qua ý tưởng của ông về cái mà thời nay được gọi là đại số von Neumann, được định nghĩa là

Definition of a von Neumann algebra A von Neumann algebra is a *-algebra of bounded operators on a Hilbert space that is closed in the weak operator topology and contains the identify operator

Tại Mỹ

John von Neumann lần tiên phong đến Mỹ khi vẫn còn là một Privatdozent tại Đại học Hamburg vào tháng 10 năm 1929 khi ông được mời giảng về lý thuyết lượng tử tại Đại học Princeton. Chuyến thăm dẫn đến lời mời trở lại với tư cách là một giáo sư thỉnh giảng, mà ông đã làm trong những năm 1930 – 33. Cùng năm nhiệm kỳ này kết thúc, Adolf Hitler lần tiên phong lên nắm quyền ở Đức, khiến von Neumann từ bỏ trọn vẹn những chức vụ học thuật của mình ở châu Âu, nói rõ về chính sách Đức Quốc xã rằng
“ Nếu những cậu bé này liên tục trong hai năm nữa, chúng sẽ hủy hoại nền khoa học Đức trong một thế hệ – tối thiểu là ”

Tất nhiên, theo hầu hết các tài khoản, dự đoán của von Neumann đã trở thành sự thật. Năm sau, khi được Bộ trưởng Bộ giáo dục Đức Quốc xã hỏi “Toán học đang phát triển như thế nào ở Göttingen, khi nó không bị ảnh hưởng bởi người Do Thái?” Hilbert được cho là đã trả lời:

Xem thêm: Tiểu sử Color Man “Ông Trùm GameShow Việt Nam” là ai?

” Không còn toán học ở Göttingen nữa. ”

Tại Đại học Princeton [1930–1933]

Hoàn cảnh mà von Neumann [ và rất nhiều nhà toán học và vật lý hạng nhất khác ] đến Princeton, New Jersey vào giữa những năm 1930 đã được nhiều người biết đến .
Đặc biệt, trong trường hợp của von Neumann, ông đã được tuyển dụng cùng với Eugene Wigner ở trường trung học Luther đương đại của mình bởi giáo sư Oswald Veblen của Đại học Princeton, theo lời ra mắt từ Princeton, theo Wigner [ Macrae, 1992 ] để :

"..invite not a single person but at least two, who already knew each other, who wouldn't suddenly feel put on an island where they had no intimate contact with anybody. Johnny's name was of course well known by that time the world over, so they decided to invite Johnny von Neumann. They looked: who wrote articles with John von Neumann? They found: Mr. Wigner. So they sent a telegram to me also." - Excerpt, John von Neumann by Norman Macrae [1992]

Lý thuyết Ergodic

Lý thuyết Ergodic là một nhánh của toán học điều tra và nghiên cứu những đặc tính thống kê của những hệ động lực xác lập. Về mặt hình thức, triết lý ergodic tương quan đến những trạng thái của hệ động lực với 1 số ít đo không bao giờ thay đổi. Một cách không chính thức, hãy nghĩ về cách những hành tinh hoạt động theo cơ học Newton trong hệ mặt trời : những hành tinh hoạt động nhưng quy luật chi phối hoạt động của những hành tinh vẫn không đổi. Trong hai bài báo xuất bản năm 1932, von Neumann đã có những góp phần cơ bản cho triết lý của những mạng lưới hệ thống như vậy, gồm có định lý công thái học trung bình của von Neumann, được coi là cơ sở toán học khắt khe tiên phong cho cơ học thống kê của chất lỏng và chất khí. Hai bài báo có tiêu đề Bằng chứng về Giả thuyết Quasi-ergodic [ 1932 ] và Ứng dụng Vật lý của Giả thuyết Ergodic [ 1932 ] .


Trái: von Neumann, J. [1932]. Chứng minh Giả thuyết Quasi-ergodic. Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia 18 [1] trang 70–82. Phải: von Neumann, J. [1932]. Các ứng dụng vật lý của Giả thuyết Ergodic. Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia 18 [3] trang 263–266.

Một trường con của triết lý giám sát, kim chỉ nan ergodic hay nói cách khác là tương quan đến hoạt động giải trí của những mạng lưới hệ thống động lực học được phép chạy trong một thời hạn dài. Định lý ergodic của von Neumann là một trong hai định lý quan trọng nhất trong nghành nghề dịch vụ này, định lý còn lại của Birkhoff [ 1931 ]. Theo Halmos [ 1958 ]

"The profound insight to be gained from [von Neumann's] paper is that the whole problem is essentially group-theoretic in character, and that, in particular, for the solvability of the problem of measure the ordinary algebraic concept of solvability of a group is relevant. Thus, according to von Neumann, it is the change of group that makes a difference, not the change of space; replacing the group of rigid motions by other perfectly reasonable groups we can produce unsolvable problems in R2 and solvable ones in R3." - Excerpt, Von Neumann on Measure and Ergodic Theory by Paul R. Halmos [1958]

Tại Viện Nghiên cứu Cao cấp

Sau ba năm làm giáo sư thỉnh giảng tại Princeton trong quá trình 1930 – 33, von Neumann được ý kiến đề nghị giữ chức giáo sư trọn đời tại khoa của Viện Nghiên cứu Cao cấp [ IAS ] vào năm 1933. Ông 30 tuổi. Đề nghị được đưa ra sau khi kế hoạch chỉ định cựu giáo sư Hermann Weyl của von Neumann bị thất bại [ Macrae, 1992 ]. Chỉ mới được xây dựng ba năm trước đó, von Neumann đã trở thành một trong sáu giáo sư tiên phong của IAS, những người khác là JW Alexander, Albert Einstein, Marston Morse, Oswald Veblen và sau cuối là Hermann Weyl .

Viện Nghiên cứu Cao cấp ở Princeton, New Jersey [Ảnh: Cliff Compton]

Khi ông gia nhập vào năm 1933, Viện vẫn nằm trong khoa toán của Hội trường Fine của Đại học Princeton. Được xây dựng vào năm 1930 bởi Abraham Flexner và được hỗ trợ vốn bởi tiền từ thiện của Louis Bamberger và Caroline Bamberger Fuld, Viện Nghiên cứu Nâng cao đã và vẫn là một trường ĐH không giống bất kể trường ĐH nào khác. Lấy cảm hứng từ kinh nghiệm tay nghề của Flexner tại Đại học Heidelberg, Cao đẳng All Souls, Oxford và Collège de France, IAS đã được miêu tả là ” Một cơ sở nghiên cứu và điều tra hạng nhất không có giáo viên, không có sinh viên, không có lớp học, mà chỉ có những nhà nghiên cứu được bảo vệ khỏi những thăng trầm và áp lực đè nén của quốc tế bên ngoài. ” – Sylvia Nasar [ 1998 ] Năm 1939 chuyển đến khuôn viên trường riêng và phòng hoạt động và sinh hoạt chung Fuld Hall, Viện Nghiên cứu Cao cấp chỉ trong vài năm vào đầu những năm 1930 đã thừa kế một cách hiệu suất cao ngai vàng của Đại học Göttingen như thể TT quan trọng nhất của ngoài hành tinh toán học. Sự biến hóa can đảm và mạnh mẽ và nhanh gọn kể từ đó được gọi là ” Cuộc thanh trừng vĩ đại ” năm 1933, khi 1 số ít học giả số 1 chạy trốn khỏi châu Âu, lúng túng cho sự bảo đảm an toàn của họ. Trong số đó, ngoài von Neumann và Wigner, tất yếu còn có Einstein [ 1933 ], Max Born [ 1933 ], đồng nghiệp Budapestians Leó Szilárd [ 1938 ] và Edward Teller [ 1933 ], cũng như Edmund Landau [ 1927 ], James Franck [ 1933 ] và Richard Courant [ 1933 ], trong số những người khác .


Bên trái: Hình ảnh của một phần giảng viên tại Viện Nghiên cứu Cao cấp, bao gồm cả cư dân nổi tiếng nhất của nó là Albert Einstein và John von Neumann, có thể nhìn thấy trong nền. Phải: Julian Bigelow, Herman Goldstine, J. Robert Oppenheimer và John von Neumann trước MANIAC, máy tính của Viện Nghiên cứu Cao cấp.

Hình học

Khi ở Viện Nghiên cứu Cao cấp, von Neumann đã xây dựng nghành hình học liên tục, một dạng tựa như của hình học xạ ảnh phức tạp, thay vì một chiều của khoảng trống con nằm trong một tập rời rạc 0, 1, …, n, nó hoàn toàn có thể là một thành phần của khoảng chừng đơn vị chức năng [ 0,1 ] .

A continuous geometry is a lattice L with the following properties: - L is modular - L is complete - The lattice operations satisfy a continuity property - Every element in L has a complement - L is irreducible, meaning the only elements with unique complements are 0 and 1
  • von Neumann [1936]. Hình học liên tục. Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia 22 [2] trang 92–100.
  • von Neumann [1936]. Ví dụ về hình học liên tục. Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia 22 [2] trang 101–108;

Ngoài việc theo đuổi học tập của mình, mở màn từ giữa đến cuối những năm 30, von Neumann đã tăng trưởng trình độ về khoa học vụ nổ, những hiện tượng kỳ lạ rất khó quy mô hóa bằng toán học. Đặc biệt, von Neumann trở thành người có thẩm quyền số 1 về toán học về những điện tích hình dạng, những điện tích nổ có hình dạng để tập trung chuyên sâu công dụng của nguồn năng lượng của một chất nổ . Vào năm 1937, theo Macrae, von Neumann đã tự quyết định hành động rằng cuộc chiến tranh rõ ràng đang đến. Mặc dù rõ ràng là tương thích với những việc làm kế hoạch và hoạt động giải trí tiên tiến và phát triển, nhưng thay vào đó, anh ta đã nhã nhặn nộp đơn xin trở thành trung úy trong lực lượng dự bị của cục bom mìn của USArmy. Là một thành viên của Quân đoàn Dự bị của Sĩ quan, điều này có nghĩa là anh ta hoàn toàn có thể thuận tiện truy vấn vào những loại thống kê vụ nổ khác nhau, mà anh ta nghĩ sẽ rất mê hoặc [ Macrae, 1992 ] .


Trái: Ảnh từ huy hiệu ID Los Alamos của von Neumann. Phải: John von Neumann nói chuyện với Richard Feynman và Stanislaw Ulam ở Los Alamos [Ảnh:]

Không cần phải nói, những góp phần chính của von Neumann so với bom nguyên tử sẽ không phải là một trung úy trong lực lượng dự bị của cục bom mìn, mà là ở ý tưởng sáng tạo và phong cách thiết kế thấu kính nổ thiết yếu để nén lõi plutonium của vũ khí Fat Man. nó sau đó đã được thả xuống Nagasaki .
Một thành viên của Dự án Manhattan ở Los Alamos, New Mexico, von Neumann vào năm 1944 đã chỉ ra rằng sự ngày càng tăng áp suất từ ​ ​ phản xạ sóng xung kích vụ nổ từ những vật thể rắn lớn hơn những gì được tin cậy trước đây, tùy thuộc vào góc tới của nó. Khám phá đã dẫn đến quyết định hành động cho nổ bom nguyên tử cách tiềm năng vài km, thay vì tác động ảnh hưởng [ Macrae, 1992 ]. von Neumann đã xuất hiện trong cuộc thử nghiệm Trinity tiên phong vào ngày 16 tháng 7 năm 1945 tại sa mạc Nevada với tư cách là vụ thử bom nguyên tử tiên phong từng được kích nổ thành công xuất sắc .

Làm việc trên triết học

von Neumann phát biểu tại Hiệp hội Triết học Mỹ năm 1957. Ảnh: Alfred Eisenstaedt

Macrae [ 1992 ] đưa ra quan điểm rằng ngoài việc là một trong những nhà toán học số 1 trong cuộc sống của mình, về nhiều mặt, von Neumann có lẽ rằng cũng nên được coi là một trong những nhà triết học quan trọng nhất trong thời đại của ông. Đặc biệt, giáo sư triết học John Dorling tại Đại học Amsterdam, đặc biệt quan trọng nhấn mạnh vấn đề những góp phần của von Neumann so với triết học toán học [ gồm có triết lý tập hợp, kim chỉ nan số và khoảng trống Hilbert ], vật lý [ đặc biệt quan trọng là lý thuyết lượng tử ], kinh tế học [ kim chỉ nan game show ], sinh học [ tự động hóa tế bào ], máy tính và trí tuệ tự tạo .
Công việc của anh ấy về hai thứ sau, máy tính và trí tuệ tự tạo [ AI ] lần tiên phong Open khi anh ấy ở Princeton vào giữa những năm 1930 gặp Alan Turing 24 tuổi lần tiên phong khi anh ấy dành một năm tại IAS vào năm 1936 – 37. Turing khởi đầu sự nghiệp của mình bằng cách thao tác trong cùng nghành nghề dịch vụ với von Neumann – điều tra và nghiên cứu về triết lý tập hợp, logic và Entscheidungsproblem của Hilbert. Khi triển khai xong bằng Tiến sĩ tại Princeton vào năm 1938, Turing đã lan rộng ra khu công trình của von Neumann và Gödel và trình làng logic thứ tự và khái niệm về giám sát tương đối, bổ trợ cho máy Turing được ý tưởng trước đó của ông với cái gọi là máy tiên tri, được cho phép nghiên cứu và điều tra những yếu tố nằm ngoài năng lực của máy Turing. Mặc dù được von Neumann đề xuất về vị trí trợ lý điều tra và nghiên cứu sau tiến sỹ sau Tiến sĩ của mình, Turing đã khước từ và thay vào đó quay trở lại Anh [ Macrae, 1992 ] .

Làm việc trên máy tính

"After having been here for a month, I was talking to von Neumann about various kinds of inductive processes and evolutionary processes, and just as an aside he said, "Of course that's what Turing was talking about." And I said, "Who's Turing?". And he said, "Go look up Proceedings of the London Mathematical Society, 1937". The fact that there is a universal machine to imitate all other machines ... was understood by von Neumann and few other people. And when he understood it, then he knew what we could do." - Julian Bigelow" - Excerpt, Turing's Cathedral by George Dyson [2012]

Năm 1945, von Neumann đề xuất kiến nghị một diễn đạt cho kiến ​ ​ trúc máy tính thời nay được gọi là kiến trúc von Neumann, gồm có những điều cơ bản của một máy tính kỹ thuật số điện tử văn minh gồm có :

  • Một đơn vị xử lý có chứa một đơn vị logic số học và các thanh ghi của bộ xử lý;
  • Đơn vị điều khiển có chứa thanh ghi lệnh và bộ đếm chương trình
  • Một bộ nhớ có thể lưu trữ dữ liệu và hướng dẫn;
  • Lưu trữ ngoài; và
  • Cơ chế đầu vào và đầu ra;
  • John von Neumann với máy IAS, đôi khi được gọi là “Máy von Neumann”, được cất giữ trong tầng hầm của Fuld Hall từ năm 1942–1951 [Ảnh: Alan Richards]

Mặc dù có tác động ảnh hưởng đến quyền hạn của mình, trong suốt cuộc sống của mình, von Neumann chắc như đinh thừa nhận rằng khái niệm TT của máy tính văn minh thực sự là bài báo năm 1936 của Turing Về những số hoàn toàn có thể thống kê giám sát, với Ứng dụng cho Entscheidungsproblem [ Fraenkel, 1972 ]
” Von Neumann nhấn mạnh vấn đề một cách chắc như đinh với tôi và với những người khác, tôi chắc như đinh rằng ý niệm cơ bản là do Turing – trong chừng mực không được mong đợi bởi Babbage, Lovelace và những người khác. ” – Stanley Fraenkel [ 1972 ]

Tư vấn

"The only part of your thinking we'd like to bid for systematically is that which you spend shaving: we'd like you to pass on to us any ideas that come to you while so engaged." Excerpt, Letter from the Head of the RAND Corporation to von Neumann [Poundstone, 1992]

Nhân cách

Mặc dù có nhiều cuộc hẹn, nhiều nghĩa vụ và trách nhiệm và tác dụng điều tra và nghiên cứu đa dạng và phong phú, von Neumann sống một lối sống khá khác thường so với một nhà toán học. Theo miêu tả của Vonnauman và Halmos : “ Các bữa tiệc và đời sống về đêm có sức mê hoặc đặc biệt quan trọng so với von Neumann. Trong thời hạn giảng dạy ở Đức, von Neumann là người phủ nhận đời sống về đêm ở Berlin thời Cabaret. ” – Vonneuman [ 1987 ] Những bữa tiệc tại nhà von Neumann diễn ra tiếp tục, nổi tiếng và lê dài. – Halmos [ 1958 ]

John von Neumann với vợ Klari Dan và con chó của họ [Ảnh: Alan Richards]

Người vợ tiên phong của anh, Klara, nói rằng anh hoàn toàn có thể đếm mọi thứ ngoại trừ lượng calo . von Neumann cũng thích tiếng Yiddish và những câu truyện cười dơ bẩn, đặc biệt quan trọng là những câu truyện tiếu lâm [ Halmos, 1958 ]. Ông là một người không hút thuốc, nhưng tại IAS đã nhận được nhiều lời phàn nàn vì tiếp tục bật nhạc diễu hành cực lớn của Đức trên máy hát trong văn phòng của ông, làm mất tập trung chuyên sâu những người ở những văn phòng lân cận, gồm có cả Albert Einstein. Trên thực tiễn, von Neumann công bố làm một số ít việc làm tốt nhất của mình trong thiên nhiên và môi trường ồn ào, hỗn loạn ví dụ điển hình như trong phòng khách của ngôi nhà với tiếng tivi chói lọi. Mặc dù là một người lái xe tồi, anh ta thích lái xe, tiếp tục đọc sách, dẫn đến nhiều vụ bắt giữ và tai nạn thương tâm .

Von Neumann ở Florida Everglades năm 1938 [Ảnh: Marina von Neumann Whitman]

Là một nhà tư tưởng

Stanislaw Ulam, một trong những người bạn thân của von Neumann, đã miêu tả sự thành thạo toán học của von Neumann như sau :

“Most mathematicians know one method. For example, Norbert Wiener had mastered Fourier transforms. Some mathematicians have mastered two methods and might really impress someone who knows only one of them. John von Neumann had mastered three methods: 1] A facility for the symbolic manipulation of linear operators, 2] An intuitive feeling for the logical structure of any new mathematical theory; and 3] An intuitive feeling for the combinatorial superstructure of new theories.” Two bicyclists start twenty miles apart and head toward each other, each going at a steady rate of 10 m.p.h. At the same time, a fly that travels at a steady 15 m.p.h. starts from the front wheel of the southbound bicycle and flies to the front wheel of the northbound one, then turns around and flies to the front wheel of the southbound one again, and continues in this manner till he is crushed between the two front wheels. Question: what total distance did the fly cover? There are two ways to answer the problem. One is to calculate the distance the fly covers on each leg of its trips between the two bicycles and finally sum the infinite series so obtained. The quick way is to observe that the bicycles meet exactly an hour after they start so that the fly had just an hour for his travels; the answer must therefore be 15 miles. When the question was put to von Neumann, he solved it in an instant, and thereby disappointed the questioner: “Oh, you must have heard the trick before!” “What trick,” asked von Neumann, “all I did was sum the infinite series.” Excerpt, A Beautiful Mind [Nasar, 1998]


Trong bài báo Szeged năm 1934 [ Lorch, 1993 ] Edgar R. Lorch diễn đạt kinh nghiệm tay nghề làm trợ lý cho von Neumann trong những năm 1930, gồm có những trách nhiệm của ông :

  • Tham dự các bài giảng của von Neumann về lý thuyết toán tử, ghi chép, hoàn thành các chứng minh chưa hoàn thành và lưu hành đến tất cả các thư viện đại học Mỹ;
  • Hỗ trợ von Neumann trong vai trò biên tập của Biên niên sử Toán học bằng cách đọc qua mọi bản thảo được chấp nhận xuất bản, gạch chân các chữ cái Hy Lạp màu đỏ và chữ Đức màu xanh lá cây, khoanh tròn chữ nghiêng, viết ghi chú vào máy in ở lề và viết một lần mỗi tuần đến các nhà in để hướng dẫn họ nghệ thuật sắp chữ;
  • Dịch nhiều bài báo 100 trang của von Neumann sang tiếng Anh;
"His fluid line of thought was difficult for those less gifted to follow. He was notorious for dashing out equations on a small portion of the available blackboard and erasing expressions before students could copy them." - Excerpt, John von Neumann: As Seen by his Brother by N.A. Vonneuman [1987]

Tổng thống Dwight D. Eisenhower [trái] trao tặng John von Neumann [phải] Huân chương Tự do của Tổng thống năm 1956

Ông được chôn cất tại Nghĩa trang Princeton ở Princeton, New Jersey cùng với những người bạn suốt đời của ông là Eugene Wigner và Kurt Gödel. Gödel đã viết cho ông một bức thư một năm trước khi ông qua đời, bức thư này đã được công bố thoáng rộng. Bức thư được Hartmanis [ 1989 ] đàm đạo cụ thể trong bài báo thao tác của ông, Cột phức tạp cấu trúc. Dưới đây là một đoạn trích :

Letter from Kurt Gödel to von Neumann, March 20th 1956 Dear Mr. von Neumann: With the greatest sorrow I have learned of your illness. The news came to me as quite unexpected. Morgenstern already last summer told me of a bout of weakness you once had, but at that time he thought that this was not of any greater significance. As I hear, in the last months you have undergone a radical treatment and I am happy that this treatment was successful as desired, and that you are now doing better. I hope and wish for you that your condition will soon improve even more and that the newest medical discoveries, if possible, will lead to a complete recovery. [...] I would be very happy to hear something from you personally. Please let me know if there is something that I can do for you. With my best greetings and wishes, as well to your wife, Sincerely yours, Kurt Gödel P.S. I heartily congratulate you on the award that the American government has given to you

Đáng chú ý quan tâm, có một đoạn video phỏng vấn von Neumann trên chương trình NBC về những điều Thanh niên muốn biết của Mỹ vào đầu những năm 1950 [ bên dưới ] :

Đối với bất kỳ ai muốn tìm hiểu thêm về cuộc đời và công việc của John von Neumann, tôi đặc biệt giới thiệu bài luận năm 1958 của người bạn Stanislaw Ulam John von Neumann 1903–1957 trong Bản tin của Hiệp hội Toán học Hoa Kỳ 64 [3] trang 1–49 và cuốn sách John von Neumann * của Norman Macrae [1992].

Xem thêm: Giọng đọc chị Google là ai? Lộ diện gương mặt của chị Google

Bài luận này là một phần của loạt truyện về những chủ đề tương quan đến toán học, được đăng trên Cantor’s Paradise, một ấn phẩm hàng tuần trên Medium. Cảm ơn bạn đã đọc !
* Đây là một link Cộng tác viên Amazon

Source: //muarehon.vn
Category: Tiểu Sử

Posts by Nguyễn Việt Thanh Giang

Video liên quan

Chủ Đề