Liệt kể nét đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng giang

Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận gồm 2 dàn ý chi tiết kèm theo 9 bài văn mẫu hay. Qua đó giúp các em học sinh lớp 11 có nhiều ý mới, ý hay, ý đẹp khi làm văn. Đồng thời giúp cho các em có thêm vốn từ phong phú khi diễn đạt.

Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang

Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng giang hiện lên qua những hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng lại mang nỗi buồn da diết. Tràng giang sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu của Huy Cận, với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương. Vậy sau đây là 9 bài phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng giang, mời các bạn cùng theo dõi tại đây.

Dàn ý vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang

Dàn ý số 1

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm

  • Huy Cận là một nhà thơ xuất sắc trong phong trào Thơ mới.
  • Tràng giang [sáng tác năm 1939, in trong tập Lửa thiêng] là bài thơ nổi tiếng và tiêu biểu nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám, Tràng giang mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.

2. Phần tích khổ thơ

a. Khổ thơ 1

  • Nhan đề và lời đề từ đã gợi lên phần nào cảm xúc chủ đạo của bài thơ: bâng khuâng trước vũ trụ mênh mông.
  • Bài thơ mở đầu với dòng sông ngoại cảnh cũng là dòng sông tâm hồn, nỗi buồn trải ra cùng lớp lớp sóng. Khác với trường giang hùng vĩ, cuồn cuộn của Lý Bạch, Đỗ Phủ, tràng giang của Huy Cận lặng lờ [sóng gợn, thuyền xuôi mái], nhuốm nỗi chia li [thuyền về nước lại, sầu trăm ngả]. Củi lạc cành khô lạc mấy dòng là hình ảnh đời thực, gửi gắm ưu tư của tác giả về thân phận con người.

b. Khổ thơ 2

– Trước thiên nhiên rộng lớn ấy, nhà thơ mong tìm những nơi chốn tụ họp của con người [làng, chợ, bến] những cảnh hoang vắng, trơ trọi. Huy Cận đã học từ câu thơ dịch Chinh phụ ngâm [Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò], nhưng thêm một từ láy [Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu] khiến cảnh vật càng quạnh quẽ. Câu thơ Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều nói đến âm thanh mà lại làm nổi bật cái vắng lặng.

[Lưu ý: Có thể chấp nhận 2 cách hiểu: có và không có tiếng vãn chợ chiều]

Nếu khổ 1 triển khai chiều rộng, chiều dài thì khổ 2 mở thêm vào chiều cao. Những cấu trúc đăng đối nắng xuống trời lên, sông dài trời rộng nhấn mạnh ấn tượng không gian được mở ra ở cả ba chiều. Kết hợp độc đáo sâu chót vót với cái thăm thẳm của vũ trụ. Lời đề từ được nhắc lại ở đây, tô đậm nỗi cô liêu.

c. Khổ thơ 3

  • Khổ thơ 3 thể hiện rõ bút pháp tả cảnh ngụ tình với những hình ảnh vừa gần gũi thân quen vừa giàu sức gợi. Những cảnh nghèo phiêu dạt giữa lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng phải chăng cũng là hình ảnh những kiếp người lênh đênh, vô định.
  • Nhà thơ mong tìm một sự giao cảm, gắn bó nhưng trước mắt chỉ là không gian mênh mông, không một chuyến đò, không một cây cầu kết nối. Con người cảm thấy bơ vơ, cô độc giữa một cõi đời không chút niềm thân mật.

d. Khổ thơ 4

  • Nỗi cô đơn càng thấm thía lúc hoàng hôn. Được gợi từ câu dịch thơ Đỗ Phủ [Mặt đất mây đùn cửa ải xa], Huy Cận đã sáng tạo nên hình ảnh một hoàng hôn hùng vĩ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc. Cánh chim quen thuộc trong thơ ca về hoàng hôn đến Huy Cận cũng mang nét mới lạ: cái hữu hình của cánh chim nhỏ nghiêng xuống làm hiện lên cái vô hình của bóng chiều trĩu nặng; cánh chim giữa trời rộng gợi “cái tôi” cô đơn, rợp ngợp trước vũ trụ, trước cuộc đời.
  • Huy Cận đã liên tưởng đến Thôi Hiệu khi viết hai câu cuôi Khói sóng trên sông làm Thôi Hiệu buồn, còn Huy Cận thì không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà đã luôn da diết trong lòng tác giả.

3. Vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại của bài thơ

a. Đề tài, cảm hứng

  • Tràng giang mang nỗi sầu từ vạn cổ của con người bé nhỏ, hữu hạn trước thời gian, không gian vô hạn, vô cùng.
  • Tràng giang đồng thời thể hiện “nỗi buồn thế hệ” của một “cái tôi” Thơ mới thời mất nước “chưa tìm thấy lôi ra”.

b. Chất liệu thi ca

  • Ở tràng giang, ta bắt gặp nhiều hình ảnh thân quen thuộc trong thơ cổ [tràng giang, bờ bãi đìu hiu, cánh chim trong bóng chiều…], nhiều hình ảnh, tứ thơ được đợi từ thơ cổ.
  • Mặt khác, Tràng giang cũng không thiếu những hình ảnh, âm thanh chân thực của đời thường, không ước lệ [củi khô, tiếng vãn chợ chiều, bèo dạt…]

c. Thể loại và bút pháp

  • Tràng giang mang đậm phong vị cổ điển qua việc vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ 7 chữ với cách ngắt nhịp, gieo vần, cấu trúc đăng đối; bút pháp tả cảnh ngụ tình, gợi hơn là tả những từ Hán việt cổ kính [tràng giang, cô liêu…].
  • Song, Tràng giang lại cũng rất mới qua xu hướng giãi bày trực tiếp “cái tôi” trữ tình “buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà…], qua những từ ngữ sáng tạo mang dấu ấn xúc cảm cá nhân của tác giả [sâu chót vót, niềm thân mật, dợn dợn…].

4. Kết luận

  • Tràng giang của Huy Cận không chỉ là một bức phong cảnh mà còn là “một bài thơ về tâm hồn”. Bài thơ thể hiện nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ, cuộc đời.
  • Từ đề tài, cảm hứng, chất liệu đến giọng điệu, bút pháp, Tràng giang vừa mang phong vị thi ca cổ điển vừa hiện đại cũng là nét đặc trưng của phong cách Hụy Cận.

Dàn ý số 2

I. Mở bài: Giới thiệu tổng quan về tác giả và tác phẩm

  • Huy Cận – một trong những nhà thơ xuất sắc tiên phong trong phong trào Thơ mới trước cách mạng.
  • Trong một chiều thu năm 1939, khi Huy Cận đứng ở bến Chèm [sông Hồng] ngắm cảnh, người thi sĩ rung cảm trước cảnh sắc đất trời rộng lớn cùng nỗi buồn nhân sinh man mác về kiếp người bé nhỏ lênh đênh. Bài thơ được ông cảm hứng sáng tác từ đó.
  • Chất liệu thi ca tinh tế, toát lên vẻ đẹp bức tranh thiên vừa cổ điển, vừa hiện đại thông qua hình ảnh “nỗi buồn thời đại” của “cái tôi” dần mất đi.

2. Phần thân bài

*Chất liệu cổ điển của thời đại thấm đẫm từng câu từ trong bài thơ

– Lấy chủ đề chính về cảnh sắc sông nước mênh mông: Vẻ đẹp cảm hứng đầy cổ điển quen thuộc của thơ Đường.

Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời

[Thơ Đường cổ – Ngô Tất Tố dịch]

  • Tên bài thơ “Tràng giang”: Đây là cụm từ Hán Việt. Cụm từ thể hiện sự trang trọng, phong vị cổ kính của Đường thi.
  • Huy Cận lựa chọn thể thơ cổ phong thất ngôn: lời thơ như một lời trần thuật thể hiện nỗi lòng buồn man mác của người thi sĩ
  • Tinh tế sử dụng cách ngắt nhịp truyền thống của thơ Đường theo nhịp 2/2/3, 4/3
  • Cách xây dựng các cặp hình ảnh đối lập tạo nên những liên tưởng gợi hình gợi cảm: “Nắng xuống” và “trời lên”, “thuyền về” và “nước lại”, sự đối lập giữa cái vô tận của vũ trụ với cái hữu hạn của con người.
  • Hệ thống từ láy sử dụng linh hoạt giúp bài thơ trở nên sinh động: Song song/ điệp điệp/ đìu hiu/ chót vót .
  • Phương thức miêu tả đậm nét Đường thi: Đặc tả linh hồn của vạn vật thiên nhiên thông qua các đường sắc đơn nét [bờ bãi đìu hiu, cánh chim trong bóng chiều,…]
  • Bút pháp độc đáo “họa vân hiển nguyệt” điển hình của thơ Đường cổ: Lấy động tả tĩnh, lấy cái vô hạn để tả cái hữu hạn, lấy cái rộng lớn tả cái nhỏ bé, mong manh

*Cảm hứng thời đại cùng chất thơ hiện đại trong Tràng Giang

– “Cái tôi” đầy lãng mạn và thi vị trước cuộc đời được Huy Cận thể hiện trực tiếp qua từng khổ thơ:

+ Khổ 1: Cái rùng mình ngắn ngủi khi nhận ra thân phận lênh đênh phó mặc trôi dạt theo trăm ngả sông nước, rồi sẽ chẳng biết đi sẽ về đâu.

+ Khổ 2: Sự ngậm ngùi, rung cảm trước những sự sống nhỏ nhoi trong tiếng chợ chiều cô liêu, quạnh vắng

  • Nỗi buồn man mác đặc trưng riêng của lối thơ mới: Sự xót xa đến từ tâm hồn khi cảm nhận được sự đồng điệu với thiên nhiên. Sự buồn khổ đồng cảm với nhân thế. Một nỗi buồn tất yếu khi Huy Cận ý thức được hoàn cảnh của đất nước, của thời đại.
  • Góc nhìn độc đáo đầy mới mẻ – cảnh sắc thiên nhiên qua lăng kính vũ trụ:
  • Tận dụng các góc nhìn đa chiều, mở rộng không gian theo mọi chiều [điệp điệp/ song song/ xuống/ lên/ sâu chót vót/ dài/ rộng]
  • Không chỉ đặc tả màu sắc hoàng hôn mà còn đưa tâm hồn nhà thơ vào cảnh sắc. Hoàng hôn buồn mà lấp lánh sắc màu hay chính lòng của Huy Cận cũng man mác?
  • Sử dụng hình ảnh chân thực, hiện đại nhưng vẫn nên thơ, gợi hình gợi cảm. Các thước phim gần gũi hiện lên mộc mạc [củi khô, mây trôi, tiếng vãn chợ chiều, bèo lặng lẽ trôi,…]. Phản ánh rõ nét bức tranh thiên nhiên vùng quê Việt Nam luôn in hằn trong trái tim Huy Cận.
  • Chất thơ mới đầy trữ tình. Mạch thơ tự do tự tại thể hiện “cái tôi” rộng mở giữa thời đại mới. Hoàn toàn không còn sự gò bó của kết cấu đề – thực – luận – kết trong thơ cổ

3. Kết bài: Tổng kết chung dàn ý vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng Giang

Tràng giang là một áng thi cả thể hiện nỗi buồn “tâm hồn” mãnh liệt của người thi sĩ đa sầu đa cảm trước thiên nhiên rộng lớn. Bài thơ không còn chỉ là một bức phong cảnh đơn thuần, đó là cả nỗi cô đơn trước vũ trụ, cuộc đời.

Sự kết hợp tinh tế và hài hòa giữa chất liệu thi ca hiện đại và cổ điển, Huy Cận biến bài thơ thành nguồn cảm hứng bất tận còn sống mãi với thời gian

Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang – Mẫu 1

Huy Cận là một nhà thơ tên tuổi trong nền thi ca nước nhà với nhiều tác phẩm tiêu biểu, có đóng góp rất nhiều trong phong trào thơ mới. “Tràng Giang” là một trong những bài thơ tiêu biểu và nổi tiếng nhất của ông. “Tràng Giang” trích trong tập “Lửa Thiêng” được viết trước cách mạng tháng Tám. Với bút pháp nghệ thuật đặc sắc, bài thơ là một bức tranh đẹp được hòa quyện giữa nét cổ điển và hiện đại.

Nét đẹp cổ điển và hiện đại được thể hiện ngay từ thi đề của bài thơ “Tràng Giang”. Hai chữ “Tràng Giang” mang tính cổ điển mà trang nhã, là từ Hán Việt, gợi cho ta đên những bài thơ Đường thi có màu sắc xưa cũ, cổ kính. Nhưng nếu các thi nhân xưa đến với thiên nhiên để tìm sự giao cảm thì nhà thơ hiện đại Huy Cận lại đứng trước “Tràng Giang” để thể hiện nỗi ưu tư, buồn bã trước kiếp người nhỏ bé cô đơn. Đó là một tâm hồn rất hiện đại mà qua đó ta có thể thấy được nét quyến rũ của bài thơ.

Với khổ thơ đầu tiên:

Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng

Hai từ láy “điệp điệp” và “song song” của 2 câu thơ đầu đậm chất cổ điển của thơ Đường. Giữa cái bao la bát ngát của sóng, của nước là hình ảnh một “con thuyền xuôi mái”. Thuyền và nước thường đi đôi với nhau nhưng ở đây “thuyền về nước lại” nghe sao xót xa. Câu thơ cuối “Củi một cành khô lạc mấy dòng” cho ta thấy được sự cô đơn lẻ loi đến lạc lõng giữa vũ trụ bao la. Nét đẹp cổ điển của khổ thơ được thể hiện qua ngòi bút đặc sắc của tác giả, chỉ bằng vài nét chấm phá đơn sơ đã gợi được lên hồn cốt của tạo vật.Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn thấy được nét đẹp hiện đại của khổ thơ, đó là hình ảnh độc đáo không ước lệ “củi một cành khô”, hình ảnh thâu tóm ý tưởng chủ đạo cả khổ thơ, hé mở tâm trạng nhân vật trữ tình cô đơn, lạc lõng.

Khổ thơ tiếp

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Từ láy được tác giả sử dụng dày đặc “lơ thơ” “đìu hiu”, “chót vót” cùng với việc sử dụng hình ảnh đối lập “nắng xuống – trời lên”, “sông dài- trời rộng” là thủ pháp nghệ thuật trong lối thơ cổ. Vẻ đẹp cổ điển còn hiện ra qua các thi liệu quen thuộc như sông, trời còn cuộc sống con người thì cô đơn, buồn bã. Cái mới mẻ ở đây là cách diễn đạt qua hình ảnh chuyển đổi cảm giác của tác giả khi mà “nắng xuống trời lên” lại “sâu chót vót”, gợi lên cho ta cái mở rộng về thời gian, không gian để rồi thấy rõ hơn cái nhỏ bé cô đơn của con người.

Ở khổ thơ thứ ba:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

“Bèo” là hình ảnh ẩn dụ cho kiếp người trôi nổi thường được sử dụng trong những bài thơ cổ điển. Ở đây, bèo không chỉ có một cánh mà “hàng nối hàng” rợn ngợp. Cảnh vật ở đây hiu quạnh đến vô cùng. Cụm kết cấu “không… không” nhấn mạnh điều đó. Giữa không gian mênh mông rợn ngợp giường như heo hắt không có sự sống, chỉ có “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.

Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại được thể hiện đặc sắc ở khổ thơ cuối:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” được tác giả lấy thi hứng từ tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Bút pháp gợi tả cùng từ láy “lớp lớp” cho thấy được hình ảnh sống động của núi mây. Ở đây tác giả vận dụng rất tài tình động từ “đùn” khiến cho từng lớp mây như đang chuyển động. Hình ảnh này rất độc đáo, mang vẻ đẹp hiện đại. Ở câu thơ sau, “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Hình ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng chiều” cũng là những hình ảnh quen thuộc của thơ ca cổ điển. Câu thơ tả không gian nhưng gửi được cả thời gian. Giữa khung cảnh đó là một tâm hồn rất hiện đại:

Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

“Dợn dợn” là một từ láy độc đáo của Huy Cận mà trước đó chưa ai sử dụng. Kết hợp cùng với cụm từ “vời con nước” khiến cho “lòng quê” càng thêm hiu quanh. Ở câu thơ cuối tác giả lấy cảm hứng từ tứ thơ “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” của Thôi Hiệu. Nhưng ở đây tác giả không cần “khói hoàng hôn” cũng vẫn “nhớ nhà” bởi nỗi nhớ đó luôn thường trực trong tâm khảm. Nét khác biệt đó làm nên vẻ đẹp hiện đại của câu thơ.

Ngoài ra bài thơ “Tràng Giang” mang vẻ đẹp cổ điển và hiện đại thể hiện ở thể loại thơ và bút pháp mà tác giả sử dụng. Thể loại thơ ở đây là thơ 7 chữ với lối ngắt nhịp đăng đối nhuần nhuyễn. Song, “Tràng Giang” cũng rất mới qua những từ ngữ giãi bày cảm xúc cá nhân

“Tràng Giang” là một bức tranh về phong cảnh mà còn là một bản nhạc về tâm hồn. Nét thi vị của bài thơ là ở vẻ đẹp cổ điển và hiện đại luôn hòa quyện, sóng đôi. Nét đẹp của bài thơ sẽ mãi đi vào lòng người, để rồi qua vẻ đẹp đó ta thấy được một tấm lòng yêu nước thầm kín, một tài hoa rực sáng của thi ca.

Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang – Mẫu 2

Nếu Xuân Diệu được mệnh danh là chủ soái dòng Tây, Nguyễn Bính là chủ soái dòng quê thì nhà thơ Huy Cận được coi là chủ soái dòng Đường. Sinh thời, một trong những gương mặt xuất sắc của phong trào thơ mới, còn được mệnh danh là “hồn thơ ảo não” ấy cũng đã tự nhận mình có ảnh hưởng không nhỏ của thơ ca cổ điển, nhất là thơ Đường. Bởi vậy sáng tác của ông luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai yếu tố cổ điển và hiện đại. Bài thơ Tràng giang, ra đời vào năm 1939, in trong tập “Lửa thiêng” đã xuất sắc thể hiện một cái tôi đa sầu, đa cảm qua màu sắc nghệ thuật rất đặc trưng đó.

Cổ điển và hiện đại là sự kết hợp của hai màu sắc nghệ thuật vô cùng độc đáo trong sáng tác của những nhà thơ tài năng. Đối với nhà thơ Huy Cận sự kết hợp của hai màu sắc đó chính là yếu tố làm nên phong cách nghệ thuật của thơ ông. Bài thơ Tràng giang có sự kết hợp đầy sáng tạo giữa hai yếu tố ấy tạo nên một dấu ấn rất riêng để Huy Cận khẳng định cái tôi buồn bã, cô đơn trước cuộc đời qua một nguồn cảm hứng bất tận với không gian của vũ trụ bao la.

Chính nhà thơ Huy Cận từng tâm sự, ban đầu Tràng giang có dự định là một bài thơ Đường theo thể thất ngôn bát cú. Bởi cảm xúc của một chàng sinh viên buồn bã trước thời cuộc, nhớ nhà, nhớ quê hương da diết đã khiến ông bật thành những câu thơ thất ngôn mang âm hưởng Đường thi. Có lẽ bởi vậy mà ngay từ nhan đề cho tới lời đề từ và xuyên suốt cả bốn khổ thơ, màu sắc cổ điển trong bài đã hiển hiện như một mạch nguồn kết nối tạo nên cái dư vang cho cái điệu buồn thương, ảo não rất đặc trưng của hồn thơ Huy Cận.

Xem Thêm:  Tập làm văn lớp 3: Kể về ngày hội đấu vật mà em biết [7 mẫu]

Thật vậy, nét cổ điển của bài thơ được gợi lên ngay từ nhan đề “Tràng giang”. Nếu đặt là “Chiều trên sông” như ban đầu thì sẽ không có được điều đó. “Tràng giang” là một từ Hán Việt, có nghĩa là một con sông dài, với điệp vần “ang” vừa tạo nên sắc thái cổ kính, trang trọng vừa có âm hưởng ngân vang dài rộng hơn. Bởi vậy thi đề khiến độc giả cảm nhận như tên một bài thơ Đường nào đó. Thêm vào nữa là lời đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài – một câu thơ thất ngôn vẽ nên một khung cảnh cũng rất Đường thi. Đó là cảm xúc buồn bã, cô đơn của con người trước một không gian rộng lớn bát ngát của trời, của sông mà ta cũng hay bắt gặp trong thơ của một thi sĩ xưa nào đó. Màu sắc cổ điển ngay từ ban đầu đã dẫn dắt cảm xúc của nhân vật trữ tình, khơi dậy nguồn cảm hứng để vẽ nên một khung cảnh đẹp, mênh mông có khả năng chất chứa nỗi sầu nhân thế của nhà thơ.

Và cứ thế phong vị cổ điển của Tràng giang được tiếp tục khơi gợi từ việc nhà thơ sử dụng những chất liệu, hình ảnh, bút pháp miêu tả, ngôn ngữ, giọng điệu… trong bài thơ. Huy Cận đã vận dụng và sáng tạo nguồn thi liệu cổ để tạo nên sắc thái riêng trong tác phẩm này. Những hình ảnh như: tràng giang, sóng gợn, con thuyền,bến cô liêu, bèo trôi, áng mây, cánh chim, bóng hoàng hôn… không hề xa lạ trong thơ xưa. Trước hết nó gợi lên những khung cảnh thiên nhiên rộng lớn nhưng vắng lặng, quạnh hiu. Chắc chắn, người yêu thơ cổ đã hơn một lần được cảm nhận khung cảnh quen thuộc như thế này:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song

Hay

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Chưa nói đến sóng gợn, thuyền trôi, bến cô liêu mà khung cảnh gió đìu hiu đã gợi cho chúng ta nhớ đến câu thơ: “Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” trong Chinh phụ ngâm. Ngay cả hình ảnh lớp lớp mây cao đùn núi bạc cũng được khơi nguồn cảm hứng từ ý thơ trong bài Cảm xúc mùa thucủa nhà thơ Đỗ Phủ: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Còn hình ảnh bèo trôi quá quen thuộc trong thơ xưa thường gợi nên những thân phận trôi nổi, bấp bênh, vô định trước dòng đời. Ý nghĩa ấy trong bài thơ này cũng vẫn nguyên vẹn như vậy. Hay cuối bài thơ, nỗi nhớ nhà của thi nhân cũng được khơi gợi từ tứ thơ trong Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu. Dẫu không cần khói sóng trên sông nhưng ý vị nỗi niềm cũng bắt nguồn từ ý thơ của thi sĩ thời Đường. Điều đó có thể khẳng định, việc sử dụng những thi liệu cổ, hình ảnh trong thơ xưa đã làm nên sắc thái cổ điển rất riêng cho bài thơ này.

Và một yếu tố nữa làm nên chất cổ điển đặc trưng chính là bút pháp miêu tả. Từ nghệ thuật đối, nét chấm phá đến cái cách khơi gợi sự tĩnh lặng của cảnh vật trong bài thơ đều thuộc về âm hưởng của thơ xưa. Người đọc không ít lần thấy sự đối lập giữa những cái nhỏ bé, ít ỏi với không gian mênh mông, bất tận của sông, của trời. Ngay khổ thơ đầu tiên đã hiện lên một tràng giang rộng lớn, bất tận qua những sự vật nhỏ bé mà nhà thơ đã chạm tới như: những con sóng nhỏ lăn tăn, con thuyền buông trôi theo dòng nước, một cành củi khô. Con người bỗng dưng tìm thấy sự đồng điệu trong cảnh vật, cũng nhỏ bé, cô đơn nhưng nỗi buồn thì trải dài bất tận, lan tỏa khắp cả không gian. Sự đối ngược giữa cảnh vật với cảnh vật là sợi dây kết nối với nỗi lòng thi nhân. Đây chính là dư vị được khơi gợi từ thơ xưa mà nên.

Bên cạnh đó bút pháp chấm phá, rất đặc trưng của thơ Đường cũng được tác giả sử dụng để khắc họa cái rộng lớn vô biên của ngoại cảnh. Trước khi thấy được cảnh tượng: nắng xuống trời lên, sông dài trời rộng nhà thơ đã kịp phác qua cái lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiubến cô liêu. Hay ở cuối bài thơ, khung cảnh hùng vĩ, tráng lệ của bức tranh bầu trời hoàng hôn chỉ được hiện lên qua vài nét vẽ mây cao đùn núi bạc, chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa. Cái thần thái của cảnh vật chỉ nằm trong một vài nét phác thảo như thế và làm nổi bật lên một khung cảnh mây trời, sông nước mênh mang như mở rộng ra cả ba chiều vô cùng, vô tận.

Tràng giang càng rộng lớn, bát ngát lại càng quạnh quẽ, vắng lặng, đìu hiu. Một phần do cách miêu tả qua thủ pháp nhân hóa như: buồn điệp điệp, nước song song, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng, bến cô liêu, lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng… Các sự vật dường như không hề có mối liên hệ, gắn kết, chỉ để làm tô đậm thêm trạng thái lặng thinh đến nao lòng. Nhưng cũng bởi một phần do cách hạn chế ở mức tối đa về âm thanh, chuyển động của sự vật trong bài thơ. Nếu nói Tràng giang gần như tĩnh lặng vì không có một chút âm thanh nào rất đúng. Từ sóng đến thuyền, đến gió, đến mây, đến chim… đều êm ả, trầm buồn. Có xuất hiện tiếng làng xa vãn chợ chiều hay không vẫn chưa khẳng định được, vì nó đặt trong trạng thái nghi vấn Đâu? Bởi vậy có chăng là sự chuyển động đứt gãy, chia lìa của thuyền về nước lại, của nắng xuống trời lên sâu chót vót, là cái gấp gáp trong thời khắc hoàng hôn của lớp lớp mây cao đùn núi bạc, của chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa… Cách để khơi gợi một không gian rộng lớn như thế nhưng hoàn toàn trong tĩnh lặng là cách thơ xưa hay làm. Bởi những ý nghĩa tượng trưng từ cảnh vật sẽ làm thức dậy nỗi buồn, sự cô đơn của nhân vật trữ tình.

Và một trong những điểm đặc sắc trong cách mang phong vị cổ điển đến cho bài thơ còn nhờ cách dùng ngôn ngữ, thể thơ, cách ngắt nhịp. Bài thơ dễ gợi nên cái hồn cốt cổ xưa là bởi nhà thơ Huy Cận đã sử dụng và sáng tạo rất nhiều các từ láy. Có đến hơn mười từ láy trong mười sáu câu thơ: điệp điệp, song song, lơ thơ, đìu hiu, chót vót, mênh mông, lặng lẽ, lớp lớp,dợn dợn. Chưa nói đến tác dụng của chúng trong việc tạo sắc thái ý nghĩa trong bài thơ mà những từ láy đó đã tạo nên cảm xúc buồn buồn, sâu lắng theo kiểu bàng bạc của thơ xưa mà ta hay bắt gặp. Thể thơ thất ngôn và cách ngắt nhịp 4/3 rất quen thuộc đã thổi cái chất cổ điển ngay trong âm hưởng, nhịp điệu cho bài thơ.

Tuy nhiên thành công nổi bật của Tràng giang là tác phẩm đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo giữa hai yếu tố cổ điển và hiện đại. Màu sắc hiện đại thực sự đã mang tới những ý nghĩa và giá trị sâu sắc cho bài thơ. Có thể thấy, Tràng giang sử dụng rất nhiều những thi liệu cổ, nhưng chúng ta cũng nhận ra rằng bài thơ cũng có rất nhiều những hình ảnh, âm thanh rất đỗi đời thường, không hề ước lệ. Những cành củi khô, tiếng vãn chợ chiều hay bèo dạt là những gì hiện đại rất khác với thơ xưa. Lần đầu tiên trong thơ xuất hiện một thứ đã chẳng còn nhựa sống nhưng lại có ý nghĩa khắc họa tâm sự của một cái hồn bơ vơ, lạc lõng, vô định trước cuộc đời giàu ý nghĩa như cành củi. Chính Huy Cận cũng đã nói ông rất cân nhắc khi sử dụng hình ảnh này, nhưng cuối cùng nó vừa đậm chất hiện đại mà còn đạt được hiệu quả cao trong việc thể hiện cảm xúc của cái tôi trữ tình. Hay cứ nghĩ bèo dạt là thi liệu quen thuộc, nhưng ở đây nhà thơ không sử dụng một cánh bèo mà là hàng nối hàng bèo trong sự vô định không biết về đâu. Huy Cận không gợi lên một thân phận, một kiếp người mà là cả một thế hệ con người trong thời đại ấy. Bao người nghệ sĩ như ông đang sống trôi nổi, lênh đênh giữa thời cuộc mất nước này? Cái chân thực, hiện đại được Huy Cận gửi gắm trong đó. Bởi vậy những hình ảnh như thế trước khi chuyển tải tâm sự của một cái tôi “bất hòa nhưng bất lực”, bản thân chúng đã được nhà thơ khơi gợi lên những vẻ đẹp rất bình dị, đời thường. Trong khung cảnh của tràng giang mênh mông, bát ngát, người ta vẫn thấy vẻ đẹp của quê hương, đất nước rất đỗi gần gũi, mến yêu. Cho nên cảm xúc nhớ nhà không cần phải trỗi dậy bởi khói sóng hoàng hôn, mà tự thân nó đã là một nỗi niềm thường trực, không bao giờ nguôi trong lòng thi nhân.

Nét hiện đại trong bài thơ còn được nhà thơ thể hiện qua những cảm xúc chân thật nhất của “một chiếc linh hồn nhỏ/ mang mang thiên cổ sầu”. Cái tôi cô đơn, nhỏ bé, lạc lõng trước dòng đời đã được nhà thơ thể hiện một cách trực tiếp, thẳng thắn. Ông đã tái hiện một khung cảnh rộng lớn, mênh mông thuộc về vũ trụ trên tràng giang để tìm chốn ẩn náu cho cái tôi của chính mình. Hơi thở hiện đại chính là từ cảm xúc bất lực của cả một thế hệ đương thời trong hoàn cảnh mất nước. Tất cả điều đó được gửi gắm vào những sự vật nhỏ bé trên dòng tràng giang mênh mông kia. Cái tôi ấy gửi sóng lòng mình theo nỗi buồn điệp điệp, theo mối sầu trăm ngả, theo cành củi khô lạc mấy dòng, theo chiếc cồn nhỏ gió đìu hiu, theo cái bến cô liêu, theo những hàng bèo nối tiếp nhau… mà không đủ sức đối chọi với trời rộng, sông dài. Nỗi buồn cứ từ ấy lan tỏa mênh mông, bận tận đến khi mãi chẳng có điểm dừng. Trái tim thi nhân bỗng rung lên một nỗi niềm cô đơn, lạc lõng. Mọi thứ trôi nổi, bấp bênh, vô định, thiếu vắng sự thân mật của sự sống con người. Nên cái tôi mới dợn dợn trào dâng một nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương khi đang đứng ngay trên quê hương. Tâm sự ấy chính là dấu ấn của cái tôi đương thời, của nỗi niềm yêu quê hương, đất nước thầm kín. Cái tôi đó không lẫn vào đâu được trong tinh thần chung của thơ mới.

Không thể phủ nhận, một phần giá trị rất lớn của Tràng giang chính là ở bút pháp nghệ thuật vừa cổ điển vừa hiện đại. Phong cách nghệ thuật đặc trưng này của Huy Cận được thể hiện trong bài Tràng giang nói riêng và nhiều bài thơ khác của ông trước cách mạng nói chung, thực sự góp phần làm nên sự phong phú, sáng tạo và độc đáo của phong trào thơ mới. Huy Cận không chỉ khiến chúng ta nhớ là một “hồn thơ ảo não” mà còn là nhà thơ của phong cách nghệ thuật cổ điển và hiện đại này.

Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang – Mẫu 3

“Tràng Giang” là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất cho phong cách thơ của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám. Bài thơ được viết vào mùa thu năm 1939, in trong tập Lửa Thiêng. Cảm xúc thơ được khơi gợi chủ yếu từ cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước… Với bút pháp nghệ thuật đặc sắc, tác giả đã vẽ lên một bức tranh thơ mang vẻ đẹp hòa quyện giữ cổ điển và hiện đại, đồng thời bộc lộ cái tôi cô đơn, cái tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà tha thiết.

Tựa đề của bài “Tràng Giang” xuất phát từ nghĩa Hán-Việt. “Tràng” là dài, “Giang” là sông, kết hợp lại “Tràng Giang” mang nghĩa là “Sông Dài”. Nhưng tại sao nhà thơ lại không đặt nhan đề của bài là “Sông Dài” mà lại lấy là “Tràng Giang”. Bởi lẽ “Tràng Giang” mang một sắc thái cổ kính, trang nhã, vần “ang” gợi nên sự mênh mang, bát ngát của sóng nước, còn là nỗi niềm của nhà thơ cũng mênh mang, vô định. Hai từ “Tràng Giang” như cho ta một nét buồn man mác, mang màu sắc cổ điển. “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã toát lên không chỉ là cảnh mà còn là tình. Cảnh “trời rộng sông dài” còn tình người “bâng khuâng”. Bên cạnh đó, câu đề từ cũng gợi ra nét nhạc chủ âm cho bài thơ. Nét đẹp cổ điển của Tràng giang hiện lên qua những hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng lại mang nỗi buồn da diết: “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp”. Một hình ảnh đẹp đẽ của sóng gợn những từ ngữ “buồn điệp điệp” ở cuối câu thơ đã làm cho ta một cảm nhận về nỗi buồn dạt dào. Hình ảnh: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” vẽ lên vẻ đẹp thiên nhiên tráng lệ, hùng vĩ, nhưng cũng không làm trôi đi nỗi sầu. Câu thơ cuối bài: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” được gợi từ hai câu thơ trong bài Hoàng Hạc lâu của nhà thơ Thôi Hiệu thời Đường, được nhà thơ Tản Đà dịch: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Qua đó nói lên nỗi sầu xa xứ, nỗi buồn đau trăn trở và thêm da diết, ý thơ thêm sâu, tình thơ thêm lặng.

Cùng với nét đẹp cổ điển, vẻ đẹp hiện đại trong Tràng Giang cũng được nhà thơ thể hiện rất đặc sắc với bút pháp nghệ thuật điêu luyện. Những hình ảnh thơ rất bình dị, rất đời thường tưởng chừng như vô nghĩa nhưng lại rất có ý nghĩa: “ Con thuyền xuôi mái nước song song” đã tô đậm sự lẻ loi, đồng thời là sự chia li, là sự ám ảnh về những kiếp người lênh đênh, lạc loài: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Hình ảnh thơ: “Lơ thơ cồn nhỏ – Đâu tiếng làng xa – nắng xuống trời lên – Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”, là không gian được mở rộng và đẩy cao hơn, cảnh vật càng thêm vắng lặng, nhà thơ lắng nghe âm thanh cuộc sống nhưng chỉ cảm nhận được đây chính là tiếng dội hoang vắng của cõi lòng. Tác giả khẳng định sự có mặt của con người nhưng chỉ là để phủ nhận nó, chỉ còn thiên nhiên đẹp, cô quạnh. Hình ảnh: “bèo dạt về đâu – Mênh mông không một chuyến đò ngang” đã khắc sâu nỗi buồn về sự li tán, tan tác. “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa” biểu tượng cho cái tôi nhỏ nhoi, cô độc trước cuộc đời ảm đạm, không có niềm vui. Vẻ đẹp hiện đại của bài thơ với tất cả những hình ảnh dường như vô nghĩa lí ấy đã tạo cho “Tràng Giang” một cái tính không bao giờ tắt trong bức tranh thiên nhiên mịt mờ, ảm đạm, đẹp nhưng quá đỗi buồn tẻ.

Sự kết hợp của hai vẻ đẹp cổ điển và hiện đại đã tạo nên một “Tràng Giang” cao đẹp, rộng lớn, mênh mang, hùng vĩ. Qua đó, Huy Cận đã bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên hoang sơ nhưng thấm đượm tình người và lòng yêu nước thầm lặng, da diết..

Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang – Mẫu 4

Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào Thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Kinh cầu tự. Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời… vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ Tràng giang. Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập Lửa thiêng, được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, thương cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ Tràng giang là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai vầng ang đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ Tràng giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.

Tứ thơ Tràng giang mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hòa nhập, giao cảm, Huy Cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nỗi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.

Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Trước cảnh trời rộng, sông dài sa mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm bâng khuâng và nhớ. Từ láy bâng khuâng được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con sông dài, nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộc sống lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.

Xem Thêm:  Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận khổ cuối bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy

Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên điệp điệp, song song ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cử cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng điệp điệp, nước song song ấy là một con thuyền xuôi mái, lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng lờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng tràng giang dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.

Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách thuyền về nước lại, nghe sao đầy xót xa. Chính vì thể mà gợi nên trong lòng người nỗi sầu trăm ngả. Từ chỉ số nhiều trăm hô ứng cùng từ chỉ số mấy đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.

Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: ” Củi một cành khô lạc mấy dòng. Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nỗi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. Một gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, cành khô gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, Lạc mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên mấy dòng nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.

Nét đẹp cổ điển tả cảnh ngụ tình thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà Thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện tại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói củi một cành khô thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ Tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.

Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Hai từ láy lơ thơ và đìu hiu được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. Lơ thơ gợi sự ít ỏi, bé nhỏ đìu hiu lại gọi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh cồn nhỏ, gió thì đìu hiu, một khung cảnh lạnh lẽo tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngợp đến độ thốt lên đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều. Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi đâu đó, âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi đâu như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là đâu có, một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chồng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.

Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dõi trôi của sông:

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Nắng xuống, trời lên gợi sự chuyển động,mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. Sâu chót vót là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với sông dài, trời rộng, còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: bến cô liêu.

Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sống còn người thì buồn tẻ, chán chường với vãn chợ chiều, mọi thứ đã tan rã, chia lìa.

Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh và cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là hàng nối hàng. Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngợp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là bờ xanh tiếp bãi vàng như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường như không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hòa, nối kết:

Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định.. không…không để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông, cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

Bút pháp chấm phá với mây cao đùn núi bạc thành lớp lớp đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ đùn, khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.

Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kép bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không giang nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng cánh chim và bóng chiều, vốn là những hình tượng thẩm mĩ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Dợn dợn là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ vời con nước cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng cô đơn của lòng quê. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của các nhà Thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.

Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điển được gợi từ câu thơ: Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịnh vào sóng để mà buồn mà nhớ, Còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi tự nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.

Cả bài thơ mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại, vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như mây, sông, cánh chim, và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.

Vẻ đẹp hiện đại lan tỏa qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như sâu chót vót, dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tấm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.

Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất Huy Cận, với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.

Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang – Mẫu 5

Trong phong trào Thơ Mới ta không chỉ nhắc đến Xuân Diệu với những vần thơ tình đầy lãng mạn mà còn phải nhắc đến một Huy Cận, nhà thơ của vạn lí sầu. Nếu như phong trào Thơ Mới ai ai cũng hăng hái cách tân, đổi mới, Huy Cận lại tìm cho mình một hướng đi riêng, ông vẫn lặng lẽ kết hợp hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại trong các bài thơ của mình. Tràng giang chính là một bài thơ xuất sắc nhất thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa hai nét tưởng đối lập nhau ấy là cổ điển và hiện đại.

Chất cổ điển ở đây có thể hiểu là sự tiếp nối những phẩm chất, những nét vốn có của văn học trung đại. Còn chất hiện đại được hiểu là sự tiếp thu những nét mới mẻ trong văn học phương Tây. Dung hòa hai yếu tố này trong một tác phẩm không phải là điều dễ dàng.

Trước hết về chất cổ điển trong bài thơ Tràng giang, tinh thần trung của tập thơ Lửa thiêng không phải là sự chối bỏ quá khứ, với tập thơ này Huy Cận chủ trương có sự kết hợp, vận dụng những tinh hoa của văn học truyền thống vào các bài thơ của mình. Bởi vậy, không chỉ Tràng giang mà tất cả các bài thơ trong tập thơ này của ông đều có màu sắc của văn học cổ điển. Với tác phẩm này, nét cổ điển đầu tiên chính là ở đề tài, cảm hứng mà bài thơ đề cập đến. Đề tài đứng trước sông rộng, trời cao nhận thấy sự nhỏ bé, hữu hạn của con người là đề tài thường thấy trong văn học trung đại. Chất cổ điển đó thể hiện ở ngay nhan đề bài thơ, tuy là tác phẩm được sáng tác trong phong trào thơ mới nhưng lại có một cái tên rất cổ điển: Tràng giang. Tràng vốn là một âm đọc khác của trường – dài, còn giang là từ để chỉ chung tên của các dòng sông. Ngay từ nhan đề người đọc đã nhận thấy không gian cổ kính của bài thơ, với không gian mênh mông, bát ngát có phần rợn ngợp trải dài ra trước mắt. Kết hợp với nhan đề, đề từ của tác phẩm cũng đậm dấu ấn cổ điển:

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài

“Trời rộng sông dài” gợi lên cái mênh mông, vô tận của vũ trụ. Trong không gian đó con người trở nên cô đơn, bé nhỏ, đầy ám ảnh. Đây là tâm trạng của rất nhiều thi nhân trước đây, có thể kể đến như Trần Tử Ngang:

“Tiền bất kiến cổ nhânHậu bất kiến lai giảNiệm thiên địa chi du du

Đọc thương nhiên nhi thế hạ”

.

Dường như trước sự mênh mông, vô cùng của vũ trụ con người đều chợt thấy mình thật đơn độc, nhỏ bé bởi vậy mà nỗi sầu muộn càng thể hiện rõ nét hơn. Huy Cận cũng không thoát khỏi tâm trạng chung đó, từ láy “bâng khuâng” đã nói lên tâm trạng u buồn, lạc lõng của nhân vật trữ tình trước mênh mông sóng nước.

Chất cổ điển trong Tràng giang còn được biểu hiện qua hệ thống thi liệu mà Huy Cận sử dụng. Hàng loạt thi liệu cổ được sử dụng trong bài thơ: bến cô liêu, thuyền, dòng sông, cánh bèo, cánh chim là những hình ảnh thường thấy trong thơ cổ như: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” [Bà Huyện Thanh Quan], “Cô chu thôi lạp ông/ Độc điếu hàng giang tuyết” [Liễu Tông Nguyên]… Mọi sự vật trong thơ ông đều trong trạng thái tàn lụi, héo úa, tan tác chia lìa: bèo hàng nối hàng không có một chút liên hệ với nhau, những cảnh bèo phiêu dạt cũng như chính số phận lênh đênh của con người trong xã hội đó; đò qua sông không có lấy một chuyến, bến cô liêu, quạnh quẽ,… Không gian hoang vu, vắng lặng, dù đã cố gắng tìm kiếm hơi thở của sự sống nhưng có lẽ Huy Cận đã hoàn toàn thất bại, chỉ có “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Hình ảnh những đám mây trắng, cánh chim cuối bài thơ: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa, cũng là một hình ảnh phổ biến của văn học cổ như trong câu thơ của Vương Bột: “Chiếc cò bay với ráng pha/ Sông xanh cùng với trời xa một màu”. Ở đây Huy Cận đã vận dụng linh hoạt bút pháp chấm phá, chỉ một nét chấm nhỏ đã vẽ ra không gian mênh mông, rộng lớn với “lớp lớp” núi chồng lên nhau, chẳng khác nào những đám mây trong thơ Đỗ Phủ: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Không gian được mở rộng thêm ở chiều cao, và trong không gian ấy cánh chim hay cũng chính con người trở nên bé nhỏ đến đáng thương. Bóng chiều phải chăng quá nặng đã làm cánh chim phải sa xuống, cánh chim bé nhỏ, đáng thương đến tội nghiệp. Đặc biệt trong câu thơ cuối: “Dòng sông dợn dợn vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, Huy Cận đã tiếp thu thi liệu của văn học Trung Quốc: Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu. Để nói lên nỗi cô đơn, nỗi nhớ quê hương tha thiết, khắc khoải của bản thân trong khoảnh khắc ngày tàn.

Nghệ thuật đối cũng là bút pháp phổ biến trong văn học cổ. Trong văn bản Huy Cận sử dụng hàng loạt hình ảnh đối với sự kết hợp hết sức linh hoạt, uyển chuyển: sóng gợn đối với thuyền, nắng xuống đối với trời lên, sông dài đối với trời rộng,… tất cả hình ảnh đối lập tương phản đó đã thể hiện được cái mênh mông, bao la của vũ trụ và sự nhỏ bé, hữu hạn của con người. Ngoài ra, hệ thống từ láy cũng góp phần tạo nên âm hưởng cổ điển cho văn bản. Từ láy được Huy Cận sử dụng từ đầu đến cuối bài thơ: lặng lẽ, mênh mông, chót vót, lớp lớp,… đã làm rõ nét hơn dấu ấn đường thi cho tác phẩm.

Mặc dù, tiếp thu tinh hoa của văn học cổ điển nhưng Tràng giang vẫn là bài thơ mang đậm dấu ấn hiện đại. Tính hiện đại đó được đan xen, thể hiện ngay trong cái cổ điển của bài thơ. Dù đề tài cảm hứng là nỗi sầu nhân thế khi đứng trước thiên nhiên mênh mông, rộng lớn, nhưng không chỉ dừng lại ở nỗi buồn chung mà đối với Huy Cận đó còn là nỗi buồn rất riêng, nỗi buồn cá nhân khi phải sống trong thời điểm đất nước bị mất chủ quyền, nhân dân sống trong cảnh nô lệ, xiềng xích.

Chất liệu trong bài thơ cũng có sự vận dụng tài tình bút pháp hiện đại với những hình ảnh sáng tạo hết sức chân thực, đời thường:

“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Hình ảnh củi khô, chợ chiều, bờ xanh bãi vàng là hiện thực đời sống hết sức đời thường, ở đây không hề có bút pháp ước lệ, không hề có nét chấm phá mẫu mực của đường thi mà tất cả là “hiện thực sống sít” của cuộc sống. Có lẽ lần đầu tiên trong văn học, hình ảnh “củi” xuất hiện trong thơ ca, nó là một điểm rất mới, rất hiện thực trong thơ Huy Cận. Từ “củi” được đảo lên đầu cầu nhấn mạnh vào sự vô giá trị của nó, không chỉ vậy nó còn là một cành củi khô không còn sự sống. “Lạc mấy dòng” gợi nên cái chơ vơ, bất định, vô phương hướng không biết đi đâu về đâu. Nó vừa là số phận của con người Việt Nam, vừa là thân phận bơ vơ của cái tôi Thơ Mới lạc lõng trước cuộc đời. Một bức tranh xơ xác, tiêu điều, là hiện thực cuộc sống u ám, ảm đạm của chính người dân Việt Nam lúc bấy giờ. Đồng thời hình ảnh đó cũng gợi lên một quê hương thật gần gũi và quen thuộc đối với mỗi con người Việt Nam.

Trong sự cô đơn đến tột cùng, Huy Cận tìm kiếm một hơi thở, một âm thanh của sự sống, nhưng chỉ nhận lại: “Đâu tiếng là xa vãn chợ chiều”. Là âm thanh nhỏ, vẳng lại khiến người nghe không thể xác định được rõ âm thanh đến từ đâu, âm thanh tưởng làm cho bức tranh tâm trạng đỡ quạnh hiu buồn bã, thì nay lại càng sầu muộn hơn vị sự quạnh quẽ, vắng lặng đến khôn cùng của không gian. Trong hai câu thơ cuối mặc dù ảnh hưởng từ câu thơ của Thôi Hiệu, nhưng cảm xúc của nhân vật không bị ẩn đi, mà được bộc lộ một cách trực tiếp: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Ngoài ra, những kết hợp từ mới lạ như: buồn điệp điệp, sâu chót vót đã tăng tính chất hiện đại cho bài thơ. Từ “buồn” kết hợp với từ láy “điệp điệp” khiến cho nỗi buồn mênh mông, dàn trải và kéo dài ra mãi. Từ sâu chót vót cũng là một sáng tạo từ đặc biệt, chót vót vốn chỉ dùng để chỉ độ cao, nhưng lại được Huy Cận kết hợp với từ sâu, khiến cho câu thơ mở rộng ra các chiều kích khác nhau, nhấn mạnh hơn nữa sự mênh mông của vũ trụ.

Xem Thêm:  13 Trò chơi chuyển tiết, giữa tiết cho học sinh Tiểu học

Cuối cùng tính hiện đại được thể hiện trong thể thơ. Huy Cận sử dụng thể thất ngôn trường thiên, nhưng ở đây được chia khổ rõ ràng, khác với thơ cổ, thơ thất ngôn trường thiên không chia khổ. Và con người xuất hiện trong tác phẩm không bị chìm khuất trước thiên nhiên mà vẫn mạnh mẽ thể hiện, bộc lộ trực tiếp cái tôi, tâm tư tình cảm của chính mình.

Tràng giang là bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa chất đường thi cổ điển và chất hiện đại của phong trào Thơ Mới. Đây không phải “kiểu bình cũ rượu mới” mà là sự kế thừa và tiếp thu hết sức tinh tế của ông. Với bài thơ này ta thấy được một Huy Cận với vốn hiểu biết uyên thâm, nội lực dồi dào. Đằng sau những vần thơ ấy còn là lòng yêu nước thâm trầm mà sâu sắc.

Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang – Mẫu 6

“Thơ mới” xuất hiện trên thi đàn văn học Việt Nam như một dàn đồng ca đa sầu, đa cảm với những cái “tôi” cá nhân riêng. Và trong bức tranh nhiều cung bậc cảm xúc đó, Huy Cận được biết đến với hồn thơ buồn đến độ “ảo não”. Tác giả Hoài Thanh cũng đã từng viết về điều này: “… Ta ngẩn ngơ buồn trở về cùng Huy Cận” [“Thi nhân Việt Nam]. “Tràng giang” là một trong những bài thơ hay nhất và thể hiện rõ nhất nỗi buồn của Huy Cận. Trong bài thơ, chất cổ điển và hiện đại cùng quyện hòa qua từng câu chữ, thi liệu, hình ảnh, ý thơ để làm nổi bật một tâm hồn giao hòa cùng vũ trụ, mang trong mình nỗi sầu nhân thế hòa quyện cùng tình yêu đất nước thầm kín.

Phong vị cổ điển của bài thơ trước hết được thể hiện rõ qua nhan đề “Tràng giang”. Tác giả đã sử dụng từ Hán Việt để tạo nên sắc thái cổ kính, trang trọng khiến cho dòng sông như chảy từ một thuở xa xưa nào đó của lịch sử và thấm nhuần bao áng cổ thi. Đặc biệt, tác giả nói “Tràng giang” thay cho cách nói “Trường giang” thông thường đem đến cảm giác dòng sông như dài hơn, rộng hơn, mênh mang đến vô tận, bởi sự lặp lại của âm “ang” – một âm tiết mở có độ vang.

Xuyên suốt bài thơ, vẻ đẹp cổ điển và hiện đại cùng quyện hòa một cách tinh tế trong từng khổ thơ, thể hiện rõ qua từng câu chữ, từng hình ảnh, thi liệu. Ở khổ thơ thứ nhất, tác giả đã sử dụng ý thơ của tao nhân xưa cùng những hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ để chấm phá lên bức tranh của “Tràng giang” gam màu cổ điển:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Ngay từ câu thơ đầu tiên, chúng ta đã thấy được phong vị cổ điển thông qua hình ảnh “sóng gợn”, gợi nhắc đến những vần thơ của Đỗ Phủ- bậc “thi thánh” trong nền văn học Trung Hoa ở bài “Đăng cao”:

“Vô biên mộc lạc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai”

[“Rào rào lá trúc rừng cây thẳm
Cuồn cuộn sông về sóng nước tuôn”]

[Trích “Đăng cao”- Đỗ Phủ]

Nếu như nhà thơ Đỗ Phủ miêu tả thiên nhiên thông qua sự đối lập giữa sóng nước tuôn trào trong không gian của rừng cây thăm thẳm thì tác giả Huy Cận lại sử dụng nghệ thuật đối xứng “buồn điệp điệp”- “nước song song”. Những từ láy như “điệp điệp”, “song song” vừa tả sóng nước trên sông, vừa gợi nỗi lòng người và được đặt cuối mỗi câu thơ một cách tinh tế làm cho âm hưởng ngân vang và lan tỏa hơn. “Tràng giang” với muôn vàn con sóng nhỏ, nỗi buồn vô hình của thi nhân đã mượn chuyển động của từng con sóng để trở nên hữu hình. “Thuyền” và “nước” vốn là hai khái niệm gần gũi mang tính chất ước lệ trong thơ ca cổ được nhà thơ sử dụng và miêu tả trong sự đối xứng: con thuyền “xuôi mái” trôi trên dòng sông, sóng không vỗ vào mạn thuyền mà là “nước song song”. Nghệ thuật đối của thơ Đường đã được tác giả vận dụng một cách linh hoạt, tạo nên sự cân đối, nhịp nhàng. Nhờ đó, cảnh vật hiện lên trong sự tĩnh lặng mang phong vị cổ điển. Còn ở hai câu thơ sau, bên cạnh vẻ đẹp cổ điển, bài thơ lại nét hiện đại của thơ mới qua hình ảnh: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Nếu thơ ca cổ đề cao vẻ đẹp sơn thủy hữu tình của “phong, hoa, tuyết, nguyệt” thì Huy Cận lại thả trên dòng tràng giang một cành củi khô – một chi tiết vô cùng chân thực và thường thấy trong thơ hiện đại. Biện pháp đảo ngữ đã được tác giả vận dụng một cách tinh tế để tạo nên cách diễn đạt độc đáo: “Củi một cành khô lạc mấy dòng” thay cho cách nói thông thường: “Một cành củi khô lạc mấy dòng” vừa nhấn mạnh trạng thái khô khan, héo hon và không còn sức sống của cành củi, đồng thời nhấn mạnh sự ít ỏi qua việc sử dụng số từ “một”, từ đó độc giả có thể thấy được tâm trạng cô đơn của thi nhân giữa dòng “Tràng giang” trong không gian ba chiều vô cùng rộng lớn, bao la.

Và khi rời dòng sông, đôi mắt của thi nhân lại đưa cái nhìn quan sát toàn cảnh của tràng giang:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

Gam màu cổ điển tiếp tục xuất hiện trong bức tranh thiên nhiên qua thi liệu, hình ảnh và ngôn từ. Trên những cồn cát nhỏ xuất hiện những làn gió “đìu hiu” mang nặng tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tác giả đã vận dụng khéo léo từ ngữ “đìu hiu”vốn xuất hiện trong bản dịch “Chinh phụ ngâm” khi miêu tả không gian chiến trường thê lương và ảm đạm: “Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo/ Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”. Việc nhà thơ Huy Cận chịu ảnh hưởng từ thơ văn cổ không chỉ đem đến phong vị cổ điển mà còn có tác dụng khắc họa cảnh nhưng vẫn chất chứa và mang nặng tâm trạng của nhân vật trữ tình.

Chất cổ điển và hiện đại cùng quyện hòa được thể hiện rõ nhất ở khổ thơ cuối của bài thơ. Cảnh được gợi lên với bút pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca cổ khi miêu tả cánh chim trong hoàng hôn

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”

Trong thơ ca xưa, cánh chim là thi liệu được dùng để điểm xuyết bức tranh thiên nhiên vào buổi chiều tà. Chúng ta từng bắt gặp hình ảnh cánh chim qua những ca dao hay rất nhiều tác phẩm văn học trung đại nổi tiếng:

“Chim bay về núi tối rồi”

[Ca dao]

“Chim hôm thoi thót về rừng”

[Truyện Kiều]

Trong thơ cổ, nỗi buồn hiu quạnh đã được gợi lên thông qua việc lấy không gian để miêu tả thời gian. Còn trong thơ Huy Cận, chúng ta cũng bắt gặp không gian trời chiều cùng cánh chinh đem đến phong vị cổ điển và gợi nhắc đến câu thơ của Vương Bột đời Đường: “Lạc hà cô lộ dữ tề phi” [Nắng chiều cùng cánh cò đơn chiếc đang bay]. Cánh chim như một giọt nắng chiều đang rớt xuống và mang theo tâm trạng của người thi nhân.

Như vậy, bài thơ “Tràng giang” đã khắc họa bức tranh thiên nhiên về dòng sông gần gũi và quen thuộc, ẩn chứa bức tranh tâm trạng với nỗi sầu thiên cổ, sầu vũ trụ và sầu nhân thế. Tất cả đã được thể hiện qua sự quyện hòa của phong vị cổ điển và những nét hiện đại và mới mẻ.

Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang – Mẫu 7

Trong phong trào thơ mới 1932-1945, ta đã biết đến một Xuân Diệu luôn mang theo mình nỗi ám ảnh thời gian, thì Huy Cận lại được mệnh danh là nhà thơ luôn luôn mang nỗi ám ảnh không gian. Và cái nỗi ám ảnh ảnh ấy được thể hiện thông qua một bài thơ rất nổi tiếng của Huy Cận và cũng là bài thơ rất nổi tiếng của phong trào thơ mới giai đoạn 1932-1945, đó là Tràng Giang.

Huy Cận [1909-2005], tên thật là Cù Huy Cận, quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, ông là một trong những tác giả có nền học vấn vững chắc và bài bản nhất trong phong trào thơ mới, 20 tuổi đỗ tú tài, 24 tuổi là một kỹ sư canh nông. Ông tham gia vào cách mạng khá sớm vào năm 23 tuổi, ông là người hiếm hoi có cả sự nghiệp chính trị và văn chương đầy vẻ vang. Sự nghiệp sáng tác của ông được chia làm hai giai đoạn, trước cách mạng ông được biết đến là một trong những tác giả tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới với tập Lửa thiêng, tập thơ đầu tay vinh danh ông trong phong trào thơ mới, sau cách mạng Huy Cận đã có một thời gian dài dừng lại, sau đó vào năm 1958 ông đã sáng tác lại với tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá. Phong cách nghệ thuật của Huy Cận là sự giao hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại, ở nội dung đó là sự đan xen giữa nỗi sầu của vũ trụ, của thế nhân với nỗi cô đơn của cá nhân, về nghệ thuật đó là sự hòa trộn giữa hệ thống thi pháp thơ Đường và những nét thi pháp của thơ tượng trưng Pháp.

Tràng giang nằm trong tập thơ Lửa thiêng, xuất bản vào năm 1940, tác phẩm là sự hợp nhất của một nỗi sầu mênh mang và vẻ đẹp của dòng sông mênh mông sóng nước vừa cổ điển, vừa hiện đại, trên trời rộng, dưới sông dài.

Đọc toàn bài thơ, ta đã nhận ra ngay vẻ đẹp cổ điển và hiện đại hiện lên thật sắc nét trong cả nhan đề và lời đề từ. Với nhan đề Tràng giang, rõ ràng đây là một từ Hán Việt với hai âm mở “ang”, âm thanh khi phát ra gợi nên những cái cảm giác về một không gian vừa cao, vừa xa lại vừa rộng, dài của một con sông hun hút chảy đến cuối trời, mang đến cho độc giả sự tĩnh lặng, cùng nỗi buồn mênh mang mờ mịt, đậm chất cổ điển. Lời đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” vừa thâu tóm cả tình thơ vừa thâu tóm cả cảnh thơ một cách tinh tế, thể hiện được cái nỗi buồn thời đại của tác giả trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, mang tầm vóc vũ trụ, đồng thời là nỗi buồn cô đơn trước khung cảnh quá mức mênh mang, vô định. Có thể nói nỗi sầu của tác giả là một nỗi sầu vừa cổ điển lại vừa hiện đại, hiện đại ở chỗ Huy Cận sầu cho bản thân, sầu cho cái “tôi” đầy cô đơn của mình, cổ điển ở chỗ nhà thơ lấy cái hoàn cảnh gây nên cái sầu đó chính là thiên nhiên trầm lặng, rộng lớn, giống với nhiều nhà thơ cổ thường đem nỗi buồn gửi gắm vào thiên nhiên, “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Ta lần lượt phân tích rõ cái vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại ấy qua từng khổ của bài. Ở khổ thơ đầu tiên đó là bức tranh sông nước buồn vắng.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Câu đầu tiên ta thấy là một bức tranh mà ở đó có hai đối tượng được tác giả tái hiện, đó là thiên nhiên “sóng gợn tràng giang”, giữa một dòng sông vừa rộng lại vừa dài lại chỉ có những gợn sóng lăn tăn do gió thổi nhẹ mà nên, gợi cho ta cảm giác thật tĩnh lặng và khoáng đạt của dòng sông. Cụm “buồn điệp điệp” vừa tái hiện tâm trạng của thiên nhiên, lại cũng vừa tái hiện tâm trạng của lòng người. Hình ảnh “Con thuyền xuôi mái nước song song” thật lặng lẽ, êm đềm và có chút xót xa vương vấn, bởi ở ngay câu sau đó là hình ảnh xuôi ngược, chia lìa của hai sự vật vốn dĩ chung đôi “thuyền về nước lại”, điều đó đã gợi lên một mối “sầu trăm ngả”, dường như nỗi sầu đã lan rộng cả lòng sông. Câu thơ cuối đoạn, có lẽ là câu thơ nhấn mạnh nhất nỗi buồn của tác giả “Củi một cành khô lạc mấy dòng”, rõ ràng câu thơ chỉ tả một cành củi khô, lênh đênh trên sóng nước, nhưng nghĩ kỹ ta sẽ mường tượng ra tâm hồn khô héo và cô đơn, vô định của tác giả. Đây là hình ảnh thơ mang nét hiện đại, ở chỗ so với những hình ảnh ước lệ khác như thuyền, nước hay sóng, thì hình ảnh củi khô gần như lạc quẻ, tuy nhiên chính nó đã đem lại nét phá cách cho cả bài. Chung quy lại nỗi buồn của tác giả là một nỗi buồn nhuốm màu cổ điển lại cũng có nét hiện đại, buồn mênh mang bao trùm lên cả cảnh vật, bởi rõ trong mắt người buồn chẳng có cảnh nào vui là thế. Đồng thời nhịp điệu của đoạn thơ cũng mang đậm màu sắc cổ điển ở những từ láy “điệp điệp”, “song song”, một bút pháp thường thấy trong Đường thi.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Ở khổ thơ tiếp tác giả quay sang miêu tả những thứ khác, rất nhiều từ láy được sử dụng như “lơ thơ”, “đìu hiu”, “chót vót”, kết hợp với những hình ảnh mang tính đối lập như “Nắng xuống, trời lên”, “Sông dài, trời rộng”, đã mang đến cho từng vần thơ một nét đẹp cổ điển đậm đà. Thêm vào đó những cảnh vật và hoạt động diễn ra đều mang một nét buồn sâu lắng, cồn lơ thơ, gió đìu hiu, làng xa vãn chợ chiều, sông dài, trời rộng, bến cô liêu, tất cả đều gợi tả cảm giác cô đơn trong cái sắc tĩnh lặng cổ điển. Nét hiện đại ở trong khổ thơ là sự chuyển dịch cảm giác đầy thú vị và độc đáo “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”, có hợp lý không khi cho cảm giác “sâu” đi với một tính từ chỉ độ cao “chót vót”, nhưng chỉ có thế mới thể hiện hết được cái khoảng cách giữa sông với trời, giữa con người với vũ trụ bao la. Đây là một nét phá cách rất hiện đại mà những vần thơ cổ không làm được, bởi sự quy định chặt chẽ và an toàn.

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Khổ thơ này có một hình ảnh rất cổ điển, ấy là bèo, bèo tượng trưng cho kiếp số lênh đênh và vô định của đời người, và có rất nhiều cánh bèo như thế “hàng nối hàng”, thể hiện cái nỗi buồn rợn ngợp của tác giả trước cảnh “Mênh mông không một chuyến đò ngang”. Câu thơ tiếp theo tác giả đã trực tiếp thể hiện cái cảm xúc thật của mình: “Không cầu gợi chút niềm thân mật”, đây lại là một nét hiện đại trong thơ, câu cuối “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” đó là phiếm chỉ sự cô đơn cùng cực, chỉ toàn bờ bãi nào có một tâm hồn khác.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Trong khổ thơ cuối ta nhìn thấy nhiều nét đẹp cổ điển hơn, mặc dù câu thơ đầu “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,” là một câu thơ được Huy Cận lấy ý từ một bài thơ cổ của Đỗ Phủ, trong câu “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”, nhưng nhà thơ đã có sự sáng tạo trong việc sử dụng từ láy “lớp lớp” khiến người ta liên tưởng đến độ dày đặc của mây vờn quanh núi, khiến màu núi gần như màu bạc. Trong đó, từ “đùn” lại mang đến một nét động cho bài thơ, một nét hiện đại, bởi giữa cái yên ắng, tĩnh lặng ta lại mới thấy được một cái động tĩnh là như thế. Đến câu “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”, hình ảnh chim nghiêng cánh vốn đã quá quen thuộc trong thơ ca cổ điển, nó mang lại một cái ý thức thời gian kín đáo, dợn buồn. Nhưng đến hai câu sau trái ngược với nét cổ điển của câu trước thì lại là tâm tư thật giản dị và rõ ràng của tác giả thông qua những câu chữ hết sức thẳng thắn, nhà thơ đang nhớ nhà, nhớ quê, đây là cái nét hiện đại của hồn thơ Huy Cận, không ước lệ trong những cảm xúc cốt yếu của mình.

Tràng giang một trong những bài thơ xuất sắc của Huy Cận, tiêu biểu cho phong trào thơ mới những năm 1932-1945. Trong bài, ta nhận thấy những vẻ đẹp trữ tình vừa cổ điển lại vừa hiện đại của khung cảnh thiên nhiên bao la rộng lớn, đồng thời cũng là tâm trạng của tác giả trong nỗi buồn xa quê, nhớ nhà. Những điều đó đã gián tiếp thể hiện cái tình đời, lòng yêu quê hương đất nước tha thiết của Huy Cận qua những vần thơ của Tràng giang.

………………..

Mời các bạn tải file về để xem thêm 2 bài văn mẫu 

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề