Lý đạo thành là ai

Hình tượng Thái sư Lý Đạo Thành trên sân khấu cải lương

Năm 1072, triều đình Nhà Lý Đại Việt đầy những rối ren. Vua Lý Thánh Tông băng hà, thái tử Càn Đức [Vua Lý Nhân Tông] còn nhỏ tuổi, cần một người nhiếp chính. Thái hậu Thượng Dương là người đứng đầu cung cấm, trước đến nay là người triều thần đều ngưỡng mộ. Nhưng nguyên phi Ỷ Lan [1044 – 1117] là nhân tài trị nước, năm xưa Thái Tông chinh chiến phương Nam, một mình người quán xuyến hết mọi việc, nên quân dân ai cũng tôn kính.


Bài liên quan

>>> Lý Thái Tông - Vị hoàng đế mang trái tim Phật giáo trên lưng ngựa

>>> Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến - Phố Hiến [Hưng Yên] một nước Việt mở của trăm năm trước.

>>> Hoàng đế Lê Nhân Tông - Người minh quân mang số kiếp đoản mệnh

Thái úy Lý Thường Kiệt muốn Nguyên phi nhiếp chính vì đó là hiền tài trị nước, nhưng Thái sư Lý Đạo Thành lại muốn Hoàng hậu để hợp lễ quy. Cuối cùng, năm 1073, Hoàng thái hậu Thượng Dương bị bức cùng 76 cung nữ phải sang bên kia thế giới chầu Vua. Thái sư Lý Đạo Thành bị bãi chức, biếm vào tận Nghệ An. Nguyên phi Ỷ Lan buông màn nhiếp chính, thay Vua quản trị việc quốc gia, làm cho quốc thái dân an, nhà nhà no ấm cho đến khi Vua trưởng thành.

Năm 1075, thám mã hồi báo, giặc Tống quyết xâm lược nước ta lần thứ hai. Thái úy Thường Kiệt tuy đã phòng bị trước, nhưng giặc đông ta ít, ngặt nỗi nước nhà còn vướng chuyện tranh chấp quyền lực năm xưa. Lý Thái sư vì chữ nghĩa, Ngài cũng vì chữ trung, tất cả đều vì hưng vong của Đại Việt. Nay giặc đến, kế sách đánh giặc ngay khi chúng còn ở Trung Hoa đã có, nhưng việc đoàn kết một lòng trong nước phải tính như thế nào?

Vì việc lớn, Thái úy cùng Nguyên phi quyết định mời Thái sư về triều để chăm lo việc nước, chuẩn bị đánh bại giặc Tống sang.

Hoàng hậu đã mất, kéo theo 72 cũng nữ bị bức phải chết theo, bản thân bị biếm vào tận vùng xa xôi, nhưng nay trước tình cảnh đất nước gặp họa ngoại xâm, giặc phương Bắc đã sẵn sàng giày xéo giang san. Hơn nữa nguyên phi Ỷ Lan cũng là người tài trị nước. Lý Thái sư phụng mạng, quay lại triều đình, cùng điều hành đất nước, đưa Đại Việt qua cuộc binh lửa. Đó là năm 1077, dân tộc ta lần thứ hai đánh tan quân Tống sang xâm lược đất nước, giữ vững bờ cõi thịnh trị đến muôn đời.


Thảo luận bài viết tại Fanpage YÊU SỬ VIỆT - //www.facebook.com/yeusuviet/photos/a.399500773432770.87498.398545340194980/693647107351467/?type=3

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bước tới điều hướng
Bước tới tìm kiếm

Thái sư Lý Đạo Thành [chữ Hán: 李道成? – 1081] là quan Tể tướng, đại thần phụ chính dưới hai triều vua nhà Lý là Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Lý Đạo Thành quê làng Cổ Pháp huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh, dòng dõi tôn thất nhà Lý, là một đại thần phụ chính tài năng, liêm khiết và chính trực của nhà Lý. Cha ông là Huyền Trung vương Lý Đạo Hoàn [964-1037] trưởng làng Đông Hồ, em ruột Ngô Liễu [Ngô Liễu tên thật là Lý Thuần Liễu, em trai của Sứ quân Lý Khuê].

Năm 1069 khi vua Lý Thánh Tông cùng các tướng như Thái úy Lý Thường Kiệt đem quân đi đánh Chiêm Thành, thì ông giữ chức Thái sư [Tể tướng] cùng Nguyên phi Ỷ Lan [nhiếp chính] điều hành triều chính.

Năm 1072 Lý Thánh Tông băng hà, Thái tử Càn Đức mới 7 tuổi đã nối ngôi tức Lý Nhân Tông, Thái sư Lý Đạo Thành cùng các Hoàng thái hậu là Thượng Dương Hoàng hậu và Linh Nhân Hoàng hậu Ỷ Lan giúp vua điều hành chính sự. Năm 1073, vào lúc Ỷ Lan khôi phục quyền nhiếp chính [với sự giúp đỡ của Thái úy Lý Thường Kiệt], ông đã bị giáng xuống làm Tả gián nghị Đại phu và chuyển đi Nghệ An – vì năm trước, ông đã lầm lỗi hậu thuẫn cho Thượng Dương Hoàng hậu dám chống lại Ỷ Lan.

Có thể bạn quan tâm Dream [nhóm nhạc Nhật Bản] là gì? Chi tiết về Dream [nhóm nhạc Nhật Bản] mới nhất 2021

Năm 1074 Hoàng thái hậu Ỷ Lan đã dẹp bỏ hiềm khích, mời ông về triều giữ chức Thái phó bình chương quân quốc trọng sự, cùng Thái úy Lý Thường Kiệt điều hành việc nước. Khi quân nhà Tống sang xâm lược Việt Nam, Lý Thường Kiệt lo chống giặc tại phòng tuyến Như Nguyệt [sông Cầu] năm 1075, thì ông là quan đầu triều lo việc triều chính.

Ông mất vào tháng 10 năm Tân Dậu [1081].

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Bài viết về chính khách Việt Nam này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s


Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Lý_Đạo_Thành&oldid=60662612”

Thể loại:

  • Sơ khai chính khách Việt Nam
  • Mất 1081
  • Quan lại nhà Lý
  • Người Bắc Ninh
  • Tể tướng Việt Nam
  • Mất năm 1081
  • Hoàng tộc nhà Lý

Thể loại ẩn:

  • Tất cả bài viết sơ khai
  • Năm sinh thiếu
  • Năm sinh không rõ

Từ khóa: Lý Đạo Thành, Lý Đạo Thành, Lý Đạo Thành

LADIGI – Công ty dịch vụ SEO TOP giá rẻ, SEO từ khóa, SEO tổng thể cam kết lên Top Google uy tín chuyên nghiệp, an toàn, hiệu quả.

Nguồn: Wikipedia

☆ ☆ ☆ ☆ ☆

Scores: 5 [120 votes]

Thank for your voting!

Lý Đạo Thành không chỉ là “người phò tá có công lao tài đức”, mà còn là bậc thức giả khoan dung, có tinh thần tự nhiệm rất cao, luôn có khát vọng cống hiến nước, vì dân. Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông đã hiểu thấu, tin tưởng và trọng dụng ông. Đó là gặp gỡ may mắn của lịch sử, là duyên phận của nhà Lý, của dân tộc.

Hình tượng Thái sư Lý Đạo Thành trên sân khấu.

Tài năng và cống hiến

Theo [LTHCLC], Lý Đạo Thành quê ở làng Cổ Pháp, Bắc Ninh, có gốc gác họ hàng với các vua Lý. Chính sử không ghi rõ gia thế, ngày sinh của ông nhưng theo thần tích thôn Thụy Lân, xã Đông Xá, tổng Tử Dương, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên còn lưu lại ở Viện Hán Nôm thì ông có cha họ Lý tên Kính, mẹ họ Tạ tên Cẩn, đều là người hiền lành, lương thiện, gia tiên đều được thụ phong, ấm phong, hai nhà đều là môn đăng hộ đối. Thần phả ghi ông sinh năm Quý Tị [1053?] nhưng chính sử thì không sách nào chép. Ông sinh ra thông minh, dĩnh dị, tướng mạo khác thường, 3 tuổi đã biết lễ nghĩa, tính hay kính nhường, 7 tuổi nhập học, 13 tuổi đã thông kinh sử tử tập, lại giỏi cả võ nghệ, được khen là thần đồng. Theo Đại Việt sử ký toàn thư [ĐVSKTT], ông mất vào năm Tân Dậu [1081]. Nếu thần phả chép đúng, cuộc đời ông rất ngắn ngủi, vỏn vẹn 28 tuổi. Chỉ 28 năm ở trên đời, nhưng công tích và danh tiếng của ông để lại thì lớn lao vô cùng khiến người đời phải ngưỡng mộ.

Lý Đạo Thành làm quan dưới hai triều vua Lý, Thánh Tông [1054 – 1072] và Nhân Tông [1072 - 1128].

Dưới thời Lý Thánh Tông, Lý Đạo Thành được phong là Thái sư, rất được nhà vua tin dùng. Với cương vị này, ông được phát huy mọi sở trường, tài năng về chính trị, đặc biệt là nội trị. Ông được giao cho chủ trì việc nước mỗi khi nhà vua thân chinh đem quân đánh dẹp ngoài biên cương.

ĐVSKTT chép: Kỷ Dậu, 1069, mùa Xuân, tháng 2, vua thân đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua nước ấy là Chế Củ và dân chúng 5 vạn người. Trận này vua đánh Chiêm Thành mãi không được, đem quân về đến châu Cư Liên, nghe tin Nguyên phi giúp việc nội trị, lòng dân cảm hóa hòa hợp. Trong cõi vững vàng, tôn sùng Phật giáo, dân gọi là bà Quan Âm, vua nói: "Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì hay sao?". Bèn quay lại đánh nữa, thắng được. Tháng 7, vua từ Chiêm Thành về đến nơi, dâng tù ở Thái Miếu, đổi niên hiệu là Thần Vũ năm thứ 1. Chế Củ xin dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính nay để chuộc tội. Vua bằng lòng, tha cho Chế Củ về nước.

Sách Khâm định việt sử thông giám cương mục [KĐVSTGCM] bình về việc này như sau: “Bấy giờ há lại không có đại thần để cho ở lại giữ nước hay sao? Mà phải đến đàn bà can dự chính sự, để chuốc lấy tiếng khen! Sử nói không đúng sự thực, đại loại như thế đấy!”.

Qua các ghi chép này ta có thể hình dung việc triều chính, nội trị, hậu phương của nhà Lý đã được củng cố, nền nếp và rất ổn định trong thời gian nhà vua thân chinh ở chiến trường. Dẫu là do sử của thời trước nghiêng về chép hành trạng của nhà vua và triều đình nhưng qua đó ta vẫn có thể thấy được bối cảnh chung của đất nước. Lần theo khúc xạ của các sự kiện, hoàn toàn có thể khẳng định công cuộc bình Chiêm của Lý Thánh Tông là có công rất lớn của Thái sư Lý Đạo Thành giữ vững triều chính, cung cấp quân lương cho tướng sĩ nơi sa trường.

Dưới triều vua Lý Nhân Tông, là Thái sư nhiếp chính, rồi phải trải qua những bất công oan trái nhưng Lý Đạo Thành vẫn bỏ qua hiềm khích, vì nghĩa lớn, một lần nữa đứng ra gánh vác việc nước và đã thể hiện tài năng xuất chúng của mình. Ông lại là người trông coi việc triều chính, việc hậu phương để Vua Lý Nhân Tông và Thái úy Lý Thường Kiệt yên tâm chỉ huy cuộc kháng chiến chống Tống thắng lợi. Sách KĐVSTGCM chép: “Giáp Dần, [1074]… lại dung Lý Đạo Thành làm Thái phó bình chương quân quốc trọng sự. Đạo Thành là người thẳng thắn, mỗi khi dâng tấu sớ thì thể nào cũng nói đến sự lợi hay hại ở dân gian. Đối với quan lại nào là người hiền tài, ông đều cất dung. Đời bấy giờ rất kính trọng ông”.

Một lòng trung giữa dòng quyền lực

Khởi đầu sự nghiệp làm quan của Lý Đạo Thành là vào đời vua Lý Thánh Tông. Khi tuổi còn rất trẻ ông đã được nhà vua tin dùng, phong đến chức Thái sư [tể tướng]. Mối quan hệ của ông với nhà vua có thể nói là rất tốt, là sự tin cậy lẫn nhau giữa hai người cùng chí hướng, giữa vua hiền và tôi trung. Năm 1072, trước khi băng hà, vua Lý Thánh Tông đã ủy thác cho Lý Đạo Thành giúp rập, phò tá Hoàng Thái tử Càn Đức. Sách ĐVSKTT chép: “Hoàng thái tử Càn Đức lên ngôi trước linh cữu, đổi niên hiệu là Thái Ninh năm thứ 1. Bấy giờ vua mới 7 tuổi, tôn mẹ đẻ là Lan nguyên phi làm Hoàng thái phi, tôn mẹ đích là Thượng Dương thái hậu họ Dương làm Hoàng thái hậu, buông rèm cùng nghe chính sự, Thái sư Lý Đạo Thành giúp đỡ công việc”. Bi kịch của Lý Đạo Thành bắt đầu từ đây.

Lý Nhân Tông lên ngôi khi còn quá nhỏ, chưa thể quyết định được việc triều chính. Khoảng trống quyền lực do vua Lý Thánh Tông để lại tạo nên hình thái tranh giành giữa các phe phái. Lý Đạo Thành “giúp đỡ công việc” cho vua nhưng bên cạnh đó còn có Thượng Dương Thái hậu là bậc đích chính thất của Thái tông và mẹ đẻ của Nhân Tông là Hoàng Thái phi Ỷ lan, sau được phong Thái hậu. Ỷ Lan là một phụ nữ kỳ tài, trong tình thế vua con còn nhỏ, bà đã liên kết với Thái úy Lý Thường Kiệt để tranh chấp quyền lực với Thượng Dương Thái hậu, và cả thái sư/ tể tướng Lý Đạo Thành. Đây là một nước cờ cao tay của Thái hậu Ỷ Lan. Bà đã biết khai thác quyền lực và tài năng của Lý Thường Kiệt cho mục đích tranh giành của mình. Và bà đã giành phần thắng mặc dù không hề vẻ vang gì khi dùng mưu khép tội chết cho Thượng Dương Thái hậu cùng 76 thị nữ. Lý Đạo Thành cũng bị giáng chức xuống làm Tả Gián Nghị Đại phu, phải ra khỏi thành để vào “coi châu Nghệ An”.

Nhưng, Lý Đạo Thành không buồn chán. Ông vẫn bình thản, vẫn tận trung với vua, với nước bằng cốt cách của con người có tu tập và hiểu biết lẽ đời.

ĐVSKTT chép: “Thái sư Lý Đạo Thành lấy chức Tả gián nghị đại phu ra coi châu Nghệ An. Đạo Thành lập viện Địa Tạng ở trong miếu Vương Thánh châu ấy, ở giữa viện đặt tượng Phật và vị hiệu của Thánh Tông, sớm hôm thờ phụng”.

Bị thất sủng, Lý Đạo Thành chắc hẳn hiểu sâu sắc về sự gian dối trong chính trường, sự tham lam và độc ác của lòng người, nhưng ông chấp nhận bỏ qua thù hận để cống hiến cho những điều lớn lao, cao cả.

Năm 1074, trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống và sự quấy nhiễu của Chiêm Thành, không còn cách nào khác, vượt qua sự mặc cảm tội lỗi và danh dự của mình, Thái hậu Ỷ Lan đã giao Thường Kiệt vào Nghệ An phong chức Thái phó Bình chương quân quốc trọng sự cho Lý Đạo Thành và mời ông về kinh tham dự triều chính giúp vua, giúp nước. Không đam mê quyền lực, không buồn chuyện cũ, ông chấp nhận hồi triều để hết sức hết lòng giúp nước, giúp vua.

Trong cuộc kháng chiến chống Tống [1077 - 1078], vua Lý Nhân Tông và Thái úy Lý Thường Kiệt cùng các tướng lĩnh có công rất lớn, nhưng khó có thể hình dung nổi nếu không có công của thái sư Lý Đạo Thành chăm lo triều chính, giữ kỉ cương phép nước thời chiến, lo đủ binh sĩ, lương thảo cho quân đội thì cuộc kháng chiến sẽ kết thúc thế nào?!

Giữa dòng quyền lực ngổn ngang, Lý Đạo Thành đã bình tĩnh, ung dung tự tại, kiên giữ lòng trung chăm lo việc nước, việc dân.

Video liên quan

Chủ Đề