Người sáng lập ra giải nobel là ai

Alfred Nobel sinh ngày 12/10/1833 tại Stockholm. Cha của ông, Immanuel Nobel, là một kỹ sư kiêm nhà sáng chế, người đã tham gia xây dựng nhiều cầu và cao ốc tại Stockholm. Mẹ của Alfred, Andrietta Ahlsell, xuất thân từ một gia đình giầu có. Do những rủi ro trong công trình xây dựng, Immanuel Nobel bị phá sản, đúng vào năm cậu nhỏ Alfred Nobel chào đời.

Năm 1837, Immanuel Nobel rời Stockholm, đưa gia đình tới lập nghiệp ở Phần Lan và Nga. Để có thêm tiền, Andrietta Nobel mở một cửa hàng tạp hoá, cửa hàng đã đem lại cho bà và gia đình một khoản thu nhập khiêm tốn. Cùng thời gian đó, Immanuel Nobel bắt đầu thành công với một xưởng cung cấp trang thiết bị cho quân đội Nga ở St. Petersburg. Ông cũng thuyết phục được Nga hoàng và các tướng lĩnh rằng nên dùng thuỷ lôi để ngăn chặn hải quân của kẻ thù xâm nhập vào thành phố. Thuỷ lôi do Immanuel Nobel thiết kế rất đơn giản. Chúng chỉ là những thùng gỗ chứa đầy thuốc súng có thể đặt ngầm dưới biển. Immanuel Nobel còn là người tiên phong trong chế tạo vũ khí và thiết kế các động cơ hơi nước.

Thành công trong kinh doanh và công nghiệp, năm 1842 Immanuel Nobel đưa cả gia đình tới St. Petersburg. Tại đây, các con trai ông bắt đầu được học với các giáo viên tư thục những môn cơ bản như khoa học tự nhiên, ngôn ngữ và văn học. Alfred Nobel, năm 17 tuổi, đã thành thạo tiếng Thuỵ Điển, Nga, Pháp, Anh và Đức. Sở thích chính của cậu là thơ và văn học Anh, cũng như vật lý và hoá học. Cha của Alfred, trong khi đó lại chỉ mong con trai mình trở thành kỹ sư để nối nghiệp kinh doanh của ông.

Quảng cáo

Để mở rộng tầm hiểu biết của con, Immanuel Nobel gửi Alfred ra nước ngoài học tập thêm trong lĩnh vực hoá học. Tại Paris, thành phố mà anh ưa thích nhất, Alfred gặp gỡ với nhà hoá học trẻ người Italia, Ascanio Sobrero, người ba năm trước đó đã phát minh ra nitroglycerine, một chất lỏng dễ nổ. Rất quan tâm đến nitroglycerine và phương pháp ứng dụng nó vào các công trình xây dựng, Alfred đồng thời cũng nhận ra rằng phải giải quyết vấn đề an toàn và tìm ra cách kiểm soát hiệu quả quá trình nổ của nó.

Năm 1852, vì công việc kinh doanh của gia đình phất lên rất nhanh do bán hàng cho quân đội Nga, Alfred Nobel được triệu về nhà. Cùng với cha, Alfred tiến hành các thí nghiệm để phát triển nitroglycerine thành các chất nổ có ích trong kỹ thuật và thương mại.

Chiến tranh ở Nga [1853-1856] kết thúc và tình hình biến đổi, Immanuel Nobel một lần nữa có nguy cơ phá sản. Cùng với hai con trai là Alfred và Emil, ông trở về Stockholm. Hai người con trai khác là Robert và Ludvig ở lại St.Peterburg. Vật lộn với nhiều khó khăn, họ đã cố gắng xoay xở để cứu lấy doanh nghiệp của gia đình và sau đó tiếp tục phát triển hãng dầu mỏ tại vùng phía của bắc đế chế Nga. Thành công trong lĩnh vực này đã đưa họ trở thành những người giàu có nhất thời kỳ đó.

Về Thuỵ Điển năm 1863, Alfred Nobel tập trung phát triển chất nổ nitroglycerine. Một vài tai nạn xảy ra, trong đó có vụ nổ năm 1864 đã giết chết người anh trai Emil và một vài người khác, khiến các quan chức thành phố Stockholm cho rằng chế tạo chất này là quá nguy hiểm. Các thí nghiệm về nitroglycerine bị cấm ngặt và Alfred phải đưa phòng thí nghiệm xuống một chiếc xuồng trên hồ Malaren.

Quảng cáo

Năm 1864, Alfred Nobel bắt đầu sản xuất nitroglycerin trên quy mô lớn. Để làm cho chất này an toàn hơn, ông đã thí nghiệm với nhiều chất phụ gia khác nhau, và nhanh chóng nhận ra rằng, nitroglycerine trộn với silic dioxide sẽ biến thành một dạng bột nhão, có thể nặn thành thỏi và các dạng khác dễ nhồi vào các lỗ khoét sẵn. Năm 1867, Alfred Nobel đăng ký bản quyền sáng chế cho vật liệu này dưới tên dynamite. Để có thể kích hoạt các thỏi thuốc nổ, ông cũng tìm cách tạo ra ngòi cho chúng.

Thị trường dynamite và ngòi nổ tăng rất nhanh. Alfred Nobel cũng tự học hỏi không ngừng, trở thành nhà kinh doanh tài ba. Năm 1865, nhà máy của ông tại Krummel, gần Hamburg, Đức đã xuất khẩu chất nổ tới các quốc gia châu Âu, châu Mỹ và châu Á. Trong những năm sau đó, Alfred Nobel thành lập các nhà máy và phòng thí nghiệm ở hơn 90 điểm tại hơn 20 quốc gia. Ông tập trung phát triển công nghệ chất nổ cũng như phát minh ra nhiều vật liệu hoá học khác, trong đó cao su và da tổng hợp, tơ nhân tạo… Cho đến khi qua đời vào năm 1896, Nobel có 355 bằng sáng chế.

Đời tư không may mắn

Công việc và du lịch triền miên khiến Alfred Nobel hầu như không còn thời gian cho cuộc sống riêng. Ở tuổi 43 ông mới cảm thấy cần một người phụ nữ. Trong quảng cáo đăng trên một tờ báo, Nobel ghi: “Một người đàn ông trung niên, giàu có, học vấn cao, tìm một phụ nữ trưởng thành, giỏi ngôn ngữ, làm thư ký và quản gia”. Lọt vào mắt xanh của Alfred Nobel là một phụ nữ người Áo - cô Countess Bertha Kinsky. Tuy nhiên, sau một thời gian ngắn ngủi bên Nobel, Bertha Kinsky quay về Áo, kết hôn với Count Arthur von Suttner. Mặc dù vậy, Alfred Nobel và Bertha von Suttner vẫn giữ tình bạn và thư từ cho nhau.

Nhiều năm sau, Bertha von Suttner trở nên căm ghét chiến tranh. Bà viết cuốn sách nổi tiếng Lay Down Your Arms [Đả đảo vũ khí] và trở thành nhân vật kiệt xuất trong các phong trào vì hoà bình thời đó. Chính điều này đã ảnh hưởng đến Alfred Nobel khi ông viết di chúc cuối cùng, trong đó dành hẳn một giải thưởng cho các cá nhân và tổ chức có công thúc đẩy hoà bình. Vài năm sau khi ông qua đời, Quốc hội Nauy đã tặng giải Nobel Hoà bình cho Bertha von Suttner, năm 1905.

Nhiều công ty do Nobel sáng lập đã phát triển thành các doanh nghiệp công nghiệp lớn và hiện vẫn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới, như Tập đoàn Hoá chất Hoàng gia Anh, Hiệp hội Thuốc nổ Pháp, và một tập đoàn thuốc nổ ở Nauy.

Alfred Nobel mất tại San Remo, Italia, vào ngày 10/12/1896. Trong di chúc của ông, người ta ngạc nhiên khi thấy phần lớn số tài sản kếch xù được Alfred Nobel dùng làm giải thưởng cho những người có đóng góp lớn lao cho nhân loại, trong lĩnh vực Vật lý, Hoá học, Sinh lý học và Y học, Văn học và Hoà Bình.

Bích Hạnh [theo Nobel.se]

Alfred Bernhard Nobel [1833 - 1896] là một nhà hóa học tài ba người Thụy Điển. Ông được biết đến là người phát minh ra thuốc nổ và tạo ra cuộc cách mạng trong thế kỷ 19.

Alfred là con trai thứ ba của nhà khoa học Imanuel Nobel. Từ nhỏ, Alfred đặc biệt yêu thích văn học, tuy nhiên, bố cậu lại muốn cậu học khoa học kỹ thuật. Ông cũng nhận thấy rằng con trai của mình rất có năng khiếu trong lĩnh vực này. 

Nghe lời bố, Alfred trở thành một nhà khoa học cần mẫn trong lĩnh vực của mình.

Điều bất ngờ là năng khiếu về ngôn ngữ và văn học đã giúp đỡ Nobel rất nhiều trong nghiên cứu. Năm 17 tuổi, Alfred Nobel đã thông thạo tiếng Thụy Điển, Nga, Pháp, Anh và Đức.

Nhờ khả năng đặc biệt về ngôn ngữ mà mặc dù không được đào tạo chính thức tại bất cứ trường đại học nào, Alfred Nobel vẫn tiếp thu những thành tựu nổi bật nhất trong nghiên cứu hóa học và vật lý học của châu Âu.

Đến năm 20 tuổi, Alfred bắt đầu nghiên cứu về thuốc nổ Nitroglycerin - loại thuốc nổ vốn được phát minh từ năm 1846 nhưng vì chưa thể khống chế và sử dụng nó một cách an toàn nên chưa có ứng dụng thực tế.

Sau 3 năm nghiên cứu, ông đã tìm ra cách khống chế nó và cho ra đời loại thuốc nổ an toàn có tên là "dynamite".

Những năm sau, Alfred thành lập một công ty thuốc nổ, chủ yếu phục vụ cho các ứng dụng hữu ích cho đời sống [đánh  cá, phá núi, đào kênh…]. Tuy nhiên do bối cảnh khi ấy là thời gian xảy ra chiến tranh, nên thuốc nổ ngay lập tức được ứng dụng làm một loại vũ khí để gây sát thương.

Nghiên cứu về thuốc nổ của Nobel khiến ông trở nên vĩ đại, nhưng cũng có nhiều tranh cãi vì sau đó thuốc nổ được áp dụng thành loại vũ khí quân sự hiệu quả.

Cuộc đời và sự nghiệp của Alfred Nobel là thế - đầy ắp những nghịch lý. Ông đã dành trọn một đời để nghiên cứu, mạo hiểm với tính mạng của mình rất nhiều lần trong phòng thí nghiệm để tạo ra thuốc nổ, nhưng cuối cùng, phát minh này lại được sử dụng sai mục đích.

Hệ quả là vào thế kỷ 19, khi thế giới chứng kiến những đau thương vì chiến tranh, thì Alfred Nobel trở thành nhà triệu phú với khối tài sản hơn 500 triệu USD. Rất nhiều người ca ngợi Nobel, nhưng cũng không ít người oán trách ông. Biệt danh "kẻ buôn bán tử thần" được đặt cho Alfred Nobel cũng vì lý do đó.

Alfred Nobel đã rất nhiều lần giải thích rằng, ông không muốn phát minh của mình được ứng dụng để làm súng và thuốc nổ như một thứ vũ khí giết người thuộc hạng nhanh và nguy hiểm nhất trong lịch sử. Ông cũng là người từng lên tiếng đấu tranh cho hòa bình, nhưng rốt cuộc phát minh lại được sử dụng nhiều nhất trong chiến tranh.

Bỏ qua những lời đàm tiếu, Alfred Nobel dùng tiền của mình để đến nhiều nơi trên thế giới, cũng như không ngừng nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, để rồi phát minh ra nhiều vật liệu tổng hợp và giành được tới 355 bằng sáng chế.

Những hệ lụy của chiến tranh khiến Alfred từng bị buộc tội phản bội nước Pháp vì đã bán Ballistite - một trong những loại thuốc súng Nitroglycerin cho Ý. Vì vậy ông đã chuyển nhà từ Paris đến Sanremo, Ý năm 1891. 

Tuy nhiên chỉ 5 năm sau, vào ngày 10/12/1896, ông bị đột quỵ và qua đời đầy bí ẩn.

 Nguyên tố hóa học Nobelium được đặt theo tên của Alfred Nobel để tưởng nhớ những đóng góp của ông.

Điều bất ngờ hơn nữa đó là bản di chúc của Alfred Nobel được công bố trong sự ngỡ ngàng của tất cả mọi người, nhất là những người thân của Nobel.

Cụ thể, Nobel muốn hầu hết của cải của - với 31 triệu kroner Thụy Điển [tương đương 265 triệu đô la], được tài trợ cho các giải thưởng thường niên về Vật lý, Hóa học, Y sinh, Văn học và Hòa bình. 

Trong số đó, giải Nobel Văn học cho thấy tình yêu cháy bỏng của ông từ khi còn là một đứa trẻ. Còn Giải Nobel hòa bình là lời giải thích không thể bác bỏ cho lương tâm và lòng yêu hòa bình của Alfred Nobel, dẫu ông không thể chứng minh cho nhân loại thấy điều này.

Ông được an táng tại quê nhà Stockholm [Thụy Điển], và đây cũng trở thành nơi tổ chức giải thưởng Nobel danh giá hằng năm.

Minh Khôi

Video liên quan

Chủ Đề