Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên tử tử có nghĩa là gì

Chào bạn Tác giả Lý Bạch

Với những hình ảnh tráng lệ, huyền ảo, bài thơ Xa ngắm thác núi Lư [Vọng Lư sơn bộc bố] đã miêu tả sinh động vẻ đẹp nhìn từ xa của thác nước chảy từ đỉnh Hương Lô thuộc dãy núi Lư.

Bài thơ Xa ngắm thác núi Lư

Download.vn sẽ cung cấp tài liệu hữu ích giới thiệu về tác giả Lý Bạch và bài thơ Xa ngắm thác núi Lư.

Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.

Dịch nghĩa:

Mặt trời chiếu xuống núi Hương Lô, sinh làn khói tía,
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước.
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước,
Ngỡ là sông Ngân Hà rơi tự chín tầng mây.

Một số bản dịch thơ:

Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác nước sông này.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân hà tuột khỏi mây.

[Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1987]

Hương Lô nắng dọi khói hồng xây
Xa trước dòng sông thác Bộc đầy
Bay thẳng xuống ba nghìn thước thẳm
Ngỡ sông Ngân tuột chín tầng mây.

[Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hóa, 1997]

I. Đôi nét về tác giả Lý Bạch

- Lý Bạch [701 - 762] là nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc vào thời nhà Đường. Tự là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ.

- Quê hương: Cam Túc [huyện Thiên Thủy - tức Lũng Tây ngày xưa].

- Khi cong nhỏ, ông cùng với gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu [Tứ Xuyên] nên nhà thờ vẫn thường coi Tứ Xuyên là quê hương của mình.

- Lý Bạch là một trong những nhà thơ nổi tiếng của Trung Hoa, ông được người đời gọi là “thi tiên” [tiên thơ].

- Thơ ông thường thể hiện một tâm hồn tự do, hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện.

- Đề tài: thường viết nhiều và viết hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn.

- Một số tác phẩm tiêu biểu:

  • Tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp: Cổ phong, Quan san nguyệt...
  • Cảm thông cho người chinh phụ: Trường can hành, Khuê tình, Tử dạ thu ca…
  • Tình bạn: Tống hữu nhân, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Văn Vương Xương Linh thiên Long Tiêu…
  • Tình yêu đôi lứa: Oán tình, Xuân tứ…
  • Tình cảm với quê hương: Tĩnh dạ tứ, Ức Đông Sơn…
  • Đặc biệt là thơ về tửu [rượu]: Đối tửu, Thương tiến tửu, Bả tửu vấn nguyệt…

II. Giới thiệu về Xa ngắm thác núi Lư

1. Hoàn cảnh sáng tác

Bài thơ là một trong những bài thơ tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên đất nước của Lý Bạch.

2. Thể thơ

Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.

3. Bố cục

Gồm 2 phần:

  • Phần 1. Câu đầu: Miêu tả khung cảnh núi Hương Lô
  • Phần 2. 3 câu tiếp: Miêu tả khung cảnh thác nước núi Lư.

4. Nội dung

Bài thơ đã miêu tả một cách sinh động vẻ đẹp của thác nước chảy từ đỉnh Hương Lô thuộc dãy núi Lư. Đồng thời thể hiện tình yêu thiên nhiên đằm thắm và phần nào bộc lộ tính cách mạnh mẽ, hào phóng của nhà thơ.

5. Nghệ thuật

Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, hình ảnh thiên nhiên tráng, cách sử dụng ngôn từ…

Cập nhật: 22/10/2021

  Câu thứ nhất: Nhật chiếu Hương Lô sinh tứ yên: Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía tả hình dáng ngọn núi Hương Lô, cái phông nền của dòng thác. Nhà thơ phác ra được cái hình lẫn cái thần của ngọn núi, những cái đã khiến dân gian đặt tên cho nó là Hương Lô [lò hương]. Trước Lí Bạch trên ba trăm năm, nhà sư Tuệ Viễn [334 – 417] đã từng tả: Khí bao trùm trên đỉnh Hương Lô mịt mù như hương khói. Cái mới mẻ đặc sắc mà Lí Bạch đem đến cho vẻ đẹp Hương Lô là chọn thời điểm để miêu tả: núi Hương Lô lộ ra dưới ánh sáng mặt trời khi mà cảnh vật tràn đầy sinh khí và biến ảo. Tuy hơi khói đã có từ trước, nói đúng hơn là luôn luôn có, là tồn tại thường xuyên, nhưng động từ “sinh” mà Lí Bạch dùng ở đây đã khiến ánh sáng mặt trời xuất hiện như một chủ thể khiến cho muôn loài mọi vật sinh sôi nảy nở và sông động hơn lên.

  Chính vì vậy, từ động từ sinh, người dịch đã chuyển đổi ra động từ bay làm cho mối quan hệ nhân quả giữa hai vế: Nhật chiếu Hương Lô/tử yên bị xóa đi, và sự biến hóa vì vậy đã bị xua tan.

 

Câu 3. Nêu lên những vẻ đẹp khác nhau của thác đã được Lí Bạch phát hiện và miêu tả trong ba câu tiếp theo.

[Gợi ý:

– Phân tích sự thành công của tác giả trong việc dùng từ quải [câu thứ hai], từ đó chỉ ra chỗ hạn chế của bản dịch thơ.

– Chứng minh rằng qua câu thơ thứ ba, ta không chỉ thấy hình ảnh của dòng thác mà còn hình dung được đặc điểm của dãy núi Lư và đỉnh núi Hương Lô.

– Giải thích vì sao lối nói phóng đại ở câu thứ tư vẫn tạo nên được một hình ảnh chân thực].

 

  Câu thứ hai: Dao khan bộc bố quải tiền xuyên [Xa trông dòng thác trước sông này]. Từ quải [treo] là từ quan trọng nhất trong câu không được dịch thơ khiến câu thơ dịch đã kém sinh động. Câu này không chỉ làm rõ ý của đề mà còn cho thấy ấn tượng ban sơ của tac giả đối với thác nước. Từ quải biến động thành tĩnh. Vì ngắm từ xa, thác nước trên cao đổ ầm ầm xuống trông như một dải lụa trắng rủ xuống yên ắng và bất động treo lên giữa khoảng vách núi và dòng sông. Hai câu thơ 1 và 2 đẹp như một bức tranh tráng lệ kì vĩ: đỉnh núi mịt mù một màu khói tía, dưới chân núi là đòng sông tuôn chảy và khoảng giữa là thác treo cao như một dải lụa trắng.

Đến câu thứ ba: Phi lưu trực há tam thiên xích [Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước]. Câu thơ từ tĩnh chuyển sang động: phi lưa [chảy như bay] gợi người đọc mường tượng một thế núi cao. Trực há [thẳng xuống] mường tượng ra một sườn núi dốc đứng. Tam thiên xích [ba nghìn thước] con số ước lệ, khoa trương nhưng đọc lên vẫn thấy chân thực lạ thường.

Cuối cùng là câu: Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên [Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây] là sự kết hợp tài tình giữa thực và ảo làm nên cảm giác bay bổng diệu kì của nhà thơ. Nghi thị [Ngỡ là] ở đây biết rõ sự vật không phải là như vậy nhưng nhà thơ vẫn tin và thuyết phục người đọc tin là như vậy. Đó chính là sức mạnh kì lạ của thơ ca.

 

Câu 4. Qua đặc điểm cảnh vật được miêu tả, ta có thể thấy những nét gì trong tâm hồn và tính cách của nhà thơ?

 

  Qua việc sử dụng từ ngữ cũng như qua đặc điểm các hình ảnh trong bài thơ, chúng ta có thể thấy ở tâm hồn và tính cách của nhà thơ Lí Bạch: một tình cảm bao la, cảm xúc sâu lắng phát xuất từ tình yêu thiên nhiên say đắm mãnh liệt của nhà thơ. Dưới ngòi bút của thi tiên, hình ảnh thác núi Lư đẹp đẽ kì vĩ và tráng lệ sinh động lạ thường. Hình ảnh thác núi Lưu như “dải Ngân Hà tuột khỏi mây” làm cho người đọc liên tưởng đến các hình ảnh “sông Hoàng chảy vỡ núi Côn Lôn” [bài Công Vô Độ hà], “sông Hoàng sợi tơ từ trời xuống” [bài Tây Nhạc Vân Đài ca tống Đan Khâu]… đủ thấy tâm hồn Lí Bạch lãng mạn và bay bổng đến dường nào, biểu lộ ước vọng khao khát mạnh mẽ về lẽ sống của ông.

 

Câu 5*. Về hai cách hiểu câu thứ hai [cách hiểu ở bản dịch nghĩa và cách hiểu trong chú thích [2]], em thích cách hiểu nào hơn? Vì sao?

 

Về hai cách hiểu câu thứ hai:

– Ở bản dịch nghĩa: Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước.

– Ở chú thích: “Đứng trông dòng thác giống như một dòng sông treo trước mặt”.

Nghĩa là dòng sông phía trước phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa.

Cách hiểu thứ hai bay bổng hơn, lãng mạn hơn nên được nhiều người thích hơn.

5. Đọc câu thơ thứ nhất của văn bản:

Phiên âm: Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên

Dịch nghĩa: Mặt Trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía

Dịch thơ: Nắng rọi Hương Lô khói tía bay.

Căn cứ vào phần giải nghĩa[trang 109, 110], hãy trả lời câu hỏi sau:

a. Từ sinh trong câu thứ nhất được giải thích là gì?

b. Trong văn bản dịch thơ, từ Sinh không được dịch, việc bản dịch thơ bỏ từ sinh của nguyên tác có ảnh hưởng tới nội dung câu thơ không? Nếu có, chỉ rõ sự ảnh hưởng đó.


a. Từ sinh có nghĩa là: làm nảy sinh, sinh ra.

b. Trong văn bản dịch thơ, từ Sinh không được dịch, việc bản dịch thơ bỏ từ sinh của nguyên tác có ảnh hưởng tới nội dung câu thơ.

Nhật là chủ ngữ với hai vị ngữ chiếu Hương Lộ và sinh tử yên [hai động từ chiếu và sinh]. Như vậy, quan hệ về ý nghĩa giữa hai vế trong câu thơ là quan hệ nhân quả, chủ thể xuyên suốt là mặt trời: mặt trời chiếu núi Hương Lộ [vế 1] cho nên sinh làn khói tía [vế 2]. Với động từ sinh, ánh sáng mặt trời xuất hiện như chủ thể làm cho mọi vật sinh sôi nảy nở, trở nên sống động. Chỉ tiếc trong câu thơ dịch, vế sau lại chuyển thành cụm chủ vị ["khói tía bay"], chủ thế là khói tía khiến cho mối quan hệ nhân quả nói trên đã bị xóa bỏ, không khí huyền ảo đã bị xua tan.

Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Lý Bạch

Xếp theo: Ngày gửi Mới cập nhật

Trang 1234 trong tổng số 4 trang [33 bài trả lời]
[1] [2] [3] [4] ›Trang sau »Trang cuối

Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,Xa trông dòng thác trước sông này:Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,

Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.


Nguồn: Thơ Đường [tập II], NXB Văn học, 1987

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.

Hương Lô nắng dọi khói hồng xây Xa trước dòng sông thác Bộc đầy Bay thẳng xuống ba nghìn thước thẳm

Ngỡ sông Ngân tuột chín tầng mây


Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1997

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.

Khói tía Hương Lô, nắng hồng pha,Thác lững lờ treo phía sông xa.Ba nghìn thước cao nước tuôn xuống,

Ngỡ chín cung làm rớt Ngân Hà.

Nắng Hương Lô, khói vẽ vòngXa nhìn dòng thác trước sông phơi bàyThác ba nghìn thước khói bay

Ngỡ sông Ngân tuột khỏi mây chín tầng.

Nắng chiếu Hương Lô khói tía xông,Xa trông Bộc Bố mắc đầu sông.Chảy bay thẳng xuống ba nghìn trượng,

Ngỡ đó Ngân Hà tuột đỉnh không.

Nắng chiếu Lò Hương khói tía bay,Thác treo xa ngắm tưởng sông bày.Từ ba ngàn thước dòng lao xuống,

Ngỡ Ngân Hà rớt chín tầng mây!

Nắng chiếu Hương Lô sinh khói tíaXa trông thác bạc trước miền sôngThẳng xuống dường kia ba nghìn thước

Tưởng chín tầng trời lạc sông Ngân

Theo ban khi nao tác giả li bach nho que trong bai tho nay

Khói núi Hương Lô tím nắng mai,Xa nhìn thác cuộn trước sông dài.Cao ba nghìn thước tuôn bay xuống,

Ngỡ dải Ngân Hà rớt khỏi mây!!

Trang 1234 trong tổng số 4 trang [33 bài trả lời]
[1] [2] [3] [4] ›Trang sau »Trang cuối

Video liên quan

Chủ Đề