Những đặc trưng của nền kinh tế thị trường

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng có những tính chất chung của nền kinh tế : nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường như quy luật gía trị, quy luật cung cầu, quy luât cạnh tranh ; có chủ thể kinh tế có tính độc lập, tự chủ để có quyền ra những quyết định phi tập trung hoá ; thị trường có vai trò quyết định trong việc phân phối các nguồn lực kinh tế ; gía cả do thị trường quyết định ; nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô để giảm bớt những “thất bại của thị trường”

Nhưng bất cứ nền kinh tế thị trường nào cũng hoạt động trong những điều kiện lịch sử–xã hội của một nước nhất định, nên nó bị chi phối bởi điều kiện lịch sử và đặc biệt là chế độ xã hội của nước đó, và do đó có những đặc điểm riêng phân biệt với nền kinh tế thị trường của các nước khác. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng sau đây :

1.Về chế độ sở hữu

Nền kinh tế dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu , trong đó sở hữu làm chủ đạo. Do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo

Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hưũ tập thể, sở hữu tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức kinh doanh. Do đó không chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế thuộc chế độ công hữu, mà còn phải khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nước, các hình thức đan xen và thâm nhập vào nhau giữa các thành phần kinh tế đều có thể tham gia thị trường với tư cách chủ thể thị trường bình đẳng;

Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.Việc xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường cuả các nước khác. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quy định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ, mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước, nói đúng ra kinh tế dựa trên chế độ công hữu bao gồm kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác, tạo cơ sở kinh tế cho chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa.

2.Về quan hệ phân phối

Nước ta thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo kết qủa lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực và sản xuất kinh doanh, và phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội,trong đó phân phối theo kết quả lao động giữ vai trò nòng cốt, đi đôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lí. Chúng ta không coi bất bình đẳng xã hội như là một trật tự tự nhiên, là điều kiện của sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tiến bộ và công bằng xã hội;

Như đã biết, mỗi chế độ xã hội có một chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định. Phân phối có liên quan đến chế độ chính trị, xã hội. Chủ nghĩa xã hội có đặc trưng riêng về sở hữu do đó chế độ phân phối cũng có đặc trưng riêng, phân phối theo lao động là đặc trưng riêng của chủ nghĩa xã hội. Mà thu nhập của người lao động không phải chỉ giới han ở giá trị sức lao động, mà nó phải vượt qua đại lượng đó, nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Việc đo lường trực tiếp lao động là một vấn đề quá phức tạp và kho khăn, nhưng trong nền kinh tế thị trường, có thể thông qua thị trường để đánh giá kết quả lao động, sự cống hiến thực tế và dựa vào đó để phân phối. Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội, kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc của kinh tế thị trường.

3. Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế.

Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa: Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế nhằm bảo đảm môi trường kinh tế – xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản.

Trong nền kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa, sự quản lý của nhà nước lại nhằm mục đích bảo vệ những quyền lợi chính đáng của tập thể nhân dân lao động.

Cơ chế vận hành kinh tế thị trường định hưóng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam. Cơ chế đó đó đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển hướng tới đích xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế theo phương châm: nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp.

Trong điều hành quản lý vĩ mô nền kinh tế. Nhà nước cần hạn chế tối đa những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường được diễn ra chue yếu theo sự hướng dẫn của quy luật giá trị, cung-cầu, cạnh tranh; đảm bảo nguyên tắc thị trường “tự điều chỉnh”. Mặt khác, do trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là thị trường tự điều tiết kinh tế – xã hội của đất nước trong từng thơì kỳ, do đó còn phải chịu sự điều chỉnh, quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do vậy, không thể xem các quan hệ thị trường hoạt động theo quy luật, biệp lập hoàn toàn với kế hoạch hoá định hướng và các chính sách kinh tế của nhà nước.

Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện rõ các mặt cơ bản : Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa – nhà nước của dân, do dân và vì dân – là nhân tố đóng vai trò “nhân vật trung tâm” và điều tiết nền kinh tế vĩ mô nhằm tạo dựng và đảm bảo môi trường pháp lý, kinh tế xã hội thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo công bằng xã hội; can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế để đạt được các mục tiêu đặt ra. Hai là, cơ chế thị trường là nhân tố “trung gian” của nền kinh tế, Đóng vai trò “trung gian” giữa nhà nước và doanh nghiệp.

Một vấn đề quan trọng nước ta quản lý nền kinh tế-xã hội theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo về lợi ích của người lao động và của toàn thể nhân dân.


Các từ khóa trọng tâm hoặc các thuật ngữ liên quan đến bài viết trên:
  • đặc trưng nền kinh tế thị trường việt nam
  • đặc trưng của cơ chế thị trường
  • đặc trưng môi trường kinh doanh ở việt nam
  • ,

    Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra cho mô hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nó được mô tả là một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, trong đó nhà nước giữ vai trò chủ đạo và có trách nhiệm định hướng nề kinh tế, với mục tiêu dài hạn là xây dựng chủ nghĩa xã hội.[1]

    Các hệ thống kinh tế

    Kinh tế tư bản chủ nghĩa
    Kinh tế xã hội chủ nghĩa
    Kinh tế thị trường
    Kinh tế kế hoạch
    Kinh tế hỗn hợp
    Chủ nghĩa xã hội thị trường
    Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
    Kinh tế thị trường xã hội
    Kinh tế chuyển đổi
    Kinh tế mở
    Kinh tế khép kín
    Kinh tế tự cung tự cấp
    Kinh tế hàng hóa
    Kinh tế tiền tệ

    Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời kỳ Đổi Mới, thay thế nền kinh tế kế hoạch bằng nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ chế thị trường. Những thay đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Cụm từ "định hướng xã hội chủ nghĩa" mang ý nghĩa là Việt Nam chưa đạt đến chủ nghĩa xã hội mà đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho một hệ thống xã hội chủ nghĩa trong tương lai. Mô hình kinh tế này khá tương đồng với mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa [socialist market economy] của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong đó các mô hình kinh tế tập thể, nhà nước, tư nhân cùng tồn tại, và khu vực nhà nước giữ vai trò chủ đạo.[2]

    Mục lục

    • 1 Cải cách dẫn đến thành lập
    • 2 Cơ sở lý luận
    • 3 Đặc trưng
    • 4 Nhược điểm
    • 5 Nhận xét
    • 6 Thăm dò ý kiến
    • 7 Xem thêm
    • 8 Tham khảo
    • 9 Liên kết ngoài

    Cải cách dẫn đến thành lậpSửa đổi

    Những cải cách kinh tế đổi mới được Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ năm 1986 trong Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Những cải cách này đã tạo ra một vai trò lớn hơn cho các lực lượng thị trường trong việc phối hợp hoạt động kinh tế giữa các doanh nghiệp và các cơ quan chính phủ, và cho phép sở hữu tư nhân của các doanh nghiệp nhỏ và tạo ra một sàn giao dịch chứng khoán cho cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh.[3]

    Các cải cách kinh tế nhằm tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam nền kinh tế kế hoạch kiểu Liên Xô và hướng tới một nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ chế thị trường với mục đích trở thành một giai đoạn chuyển tiếp trong sự phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.[4] Mục tiêu của hệ thống kinh tế này là cải thiện lực lượng sản xuất của nền kinh tế, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc cho nền tảng của chủ nghĩa xã hội và cho phép Việt Nam hội nhập tốt hơn với nền kinh tế thế giới.

    Đầu những năm 1990, Việt Nam đã chấp nhận một số lời khuyên cải cách của Ngân hàng Thế giới về tự do hóa thị trường, nhưng từ chối các chương trình điều chỉnh cơ cấu và các điều kiện viện trợ đòi hỏi tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước.[5]

    Cơ sở lý luậnSửa đổi

    Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Marx cổ điển về phát triển kinh tế và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cho rằng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xuất hiện khi điều kiện vật chất đã được phát triển đến khi đủ để các mối quan hệ xã hội chủ nghĩa phát triển. Mô hình thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được coi là một bước quan trọng để đạt được sự tăng trưởng và hiện đại hóa kinh tế cần thiết trong khi cùng tồn tại trong nền kinh tế thị trường toàn cầu và hưởng lợi từ thương mại toàn cầu.[6] Đảng Cộng sản Việt Nam đã tái khẳng định cam kết của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với những cải cách của thời kỳ Đổi Mới.[7]

    Mô hình kinh tế này được bảo vệ từ quan điểm của chủ nghĩa Marx, trong đó tuyên bố rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chỉ có thể xuất hiện sau khi phát triển nền tảng chủ nghĩa xã hội thông qua việc thiết lập nền kinh tế thị trường và kinh tế trao đổi hàng hóa, và chủ nghĩa xã hội sẽ chỉ xuất hiện sau khi giai đoạn này hoàn thành vai trò lịch sử của nó, và sẽ biến đổi theo xu hướng dần tự chuyển hóa.[8] Những người ủng hộ mô hình này cho rằng hệ thống kinh tế của Liên Xô và các quốc gia vệ tinh đã cố gắng đi từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế kế hoạch bằng các mệnh lệnh hành chính mà không trải qua giai đoạn cần thiết để phát triển nền kinh tế thị trường.[9]

    Đặc trưngSửa đổi

    Các đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thể hiện ở những điểm sau:

    • Là nền kinh tế hỗn hợp, vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước.
    • Là nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu và đa dạng các thành phần kinh tế, trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
    • Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
    • Là nền kinh tế thị trường do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, điều tiết vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
    • Là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.

    Nhược điểmSửa đổi

    Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, trong quá trình thực hiện, chính phủ Việt Nam chưa tạo được môi trường kinh doanh thật sự lành mạnh, bình đẳng. Hiến pháp đã quy định kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, nhưng cũng quy định các thành phần kinh tế là bình đẳng, cùng hợp tác và cùng cạnh tranh. Tuy nhiên, trong thực tiễn, khu vực kinh tế tư nhân không có nhiều cơ hội tiếp cận vốn, đất đai, thông tin, mất nhiều cơ hội trong đấu thầu cũng như tiếp cận thị trường như khu vực kinh tế nhà nước. Trong khi đó, doanh nghiệp nhà nước vẫn được "ưu ái" về mọi phương diện, chiếm nguồn lực lớn nhưng lại sử dụng không hiệu quả, nhiều dự án thất thoát, làm ăn thua lỗ, gây tổn hại lớn cho nhà nước và xã hội.[10] Điển hình là 12 đại dự án thua lỗ của ngành Công Thương đã để thiệt hại hàng chục nghìn tỷ đồng, mất rất nhiều năm không thể giải quyết dứt điểm.[11] Ngoài ra, cơ chế "xin - cho" trong khu vực nhà nước đã thúc đẩy hình thành khu vực hưởng lợi trên lưng người khác [rent-seeking] thu lợi nhờ các đặc quyền hoặc độc quyền kinh doanh.[12]

    Hệ thống pháp luật của Việt Nam còn thiếu đồng bộ, chồng chéo, nhiều Bộ Luật ban hành một thời gian chưa thi hành đã phải sửa, không ít Luật đã ban hành nhưng không đi vào thực tiễn. Việc lấy ý kiến của người dân, doanh nghiệp, các chuyên gia khi xây dựng pháp luật vẫn mang tính chung chung, chưa thực sự đảm bảo công khai minh bạch, đôi khi vẫn có tính áp đặt, đẩy cái khó cho doanh nghiệp. Trong khi đó, những người làm luật, bộ máy quản lý gần như không phải chịu trách nhiệm khi xây dựng pháp luật thiếu tính thực tiễn, thiếu đồng bộ, gây tổn hại cho nền kinh tế.[10]

    Việc quản lý kém hiệu quả các nguồn tài nguyên kinh tế khiến tình trạng tham nhũng xảy ra thường xuyên trong bộ máy quan liêu cồng kềnh dẫn đến đầu tư nhà nước vào nền kinh tế đạt hiệu quả thấp. Chi phí đầu tư công mà Việt Nam phải bỏ ra để tạo ra giá trị gia tăng cao hơn nhiều quốc gia khác trong khu vực. Hệ số ICOR của Việt Nam trong các năm 2001-2006 là 5,1, nghĩa là cần 5,1 đồng vốn đầu tư để tăng được một đồng GDP, cao gấp 1,5-2 lần nhiều nước trong khu vực trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá. Đặc biệt, trong giai đoạn 2006-2010, chỉ số này đã tăng lên 10,52, tức là gấp khoảng 3,5 lần Hàn Quốc và Đài Loan giai đoạn 1961-1980, gấp 2,5 lần Thái Lan giai đoạn 1981-1995 và Trung quốc giai đoạn 2001-2006.[13] Theo Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh [PCI] năm 2016 của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ công bố, có khoảng 66% doanh nghiệp tại các tỉnh có chỉ số cạnh tranh mức trung bình đã phải "móc hầu bao" cho các khoản không chính thức. Việc các doanh nghiệp phải mất nhiều chi phí để "bôi trơn" đã ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh, nản lòng các nhà đầu tư.[10]

    Nhận xétSửa đổi

    Cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận rằng chưa có nhận thức rõ ràng, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một trong những nguyên nhân mà Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra là do mô hình này hoàn toàn mới, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử.[14][15]

    • Về câu hỏi thế nào là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh trong một buổi nói chuyện về các vấn đề kinh tế ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh vào cuối năm 2013 đã trả lời rằng, "Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình đó, mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm".[14]
    • Theo luật sư Nguyễn Tiến Lập, "định hướng xã hội chủ nghĩa" là phải bảo đảm sự công bằng tương đối về xã hội và chế độ an sinh xã hội phổ cập đối với người dân.[16] Điều này giống với mục tiêu của nền kinh tế thị trường xã hội của nước Đức và khác với nền kinh tế thị trường tự do của nước Mỹ [ở Mỹ, nhà nước không quản lý tập trung quỹ bảo hiểm xã hội và có tới trên 40 triệu người dân không có bảo hiểm y tế].[16] Tuy nhiên, có những thực tiễn vừa qua lại đi ngược lại, ví dụ như việc tăng phí bệnh viện và phí học đường đang trở thành gánh nặng cho người nghèo. Ông Lập đặt vấn đề: "Câu hỏi tại sao sau hơn hai mươi năm chuyển sang kinh tế thị trường mà cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam vẫn èo uột như vậy và chủ yếu lấy cơ chế xin-cho làm tôn chỉ hành động, không tăng được năng lực cạnh tranh,... phải chăng đã tìm được câu trả lời từ chính sự mập mờ của khái niệm "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" này?" Hậu quả của việc không xác định mô hình kinh tế và duy trì các mối quan hệ không rõ ràng giữa nhà nước và thị trường sẽ biến các doanh nghiệp thành các chủ thể phụ thuộc ngày càng lớn hơn vào nhà nước.[17]
    • Tại hội thảo "Cải cách thể chế kinh tế Việt Nam để hội nhập và phát triển giai đoạn 2015- 2035", ông Bùi Tất Thắng, Viện trưởng Viện chiến lược phát triển, đánh giá rằng: "Quá trình đổi mới tư duy sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong vòng 15 năm vừa qua là hành trình "dò đá qua sông". Quá trình này rất dò dẫm về lý thuyết, lý luận, nhận thức về mô hình mới vẫn chưa rõ ràng nên gây khó cho việc hoạch định chính sách".[15]

    Thăm dò ý kiếnSửa đổi

    Theo một khảo sát của Trung tâm nghiên cứu Pew vào năm 2015, 95% số người Việt Nam được hỏi ủng hộ thị trường tự do, trong khi ở Mỹ, có tới 25% số người được hỏi nghi ngờ về tính hiệu quả của thị trường tự do.[18]

    Khảo sát thay đổi cảm nhận về Nhà nước và thị trường của người Việt Nam" - CAMS 2014 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam [VCCI] cho thấy: trong 1.600 phản hồi, có 89% ủng hộ mô hình kinh tế thị trường; 71% ủng hộ sở hữu tư nhân trong khi chỉ có khoảng 4% lựa chọn sở hữu nhà nước, 94% yêu cầu minh bạch trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách tại Việt Nam, 99% ủng hộ chủ trương tư nhân hóa một số dịch vụ công. Nhưng mặt khác, tỷ lệ "ủng hộ song còn quan ngại" việc tư nhân hóa dịch vụ công vẫn còn cao hơn tỷ lệ "hoàn toàn ủng hộ" chủ trương này [57% so với 42%]. Đặc biệt, 75% vẫn mong muốn Nhà nước có chính sách can thiệp, bình ổn giá cả do lo ngại sẽ bị ảnh hưởng bởi những khiếm khuyết của thị trường.

    Kết quả khảo sát cho thấy một thực tế khá nghịch lý: đa số người Việt Nam vừa ủng hộ kinh tế tư nhân cạnh tranh nhưng lại cũng muốn bàn tay can thiệp của Nhà nước đối với những mặt hàng quan trọng [bình ổn giá, trợ cấp,...] để đảm bảo quyền lợi cho họ, tức là vừa muốn có cạnh tranh tư nhân lại vừa muốn được Nhà nước bảo trợ. Nguyên nhân là do những bất ổn trong nền kinh tế thị trường khiến người dân cảm thấy không an toàn. Mặt khác tại Việt Nam, những vấn đề về thiếu minh bạch thông tin, tình trạng không tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, lách luật, móc nối để ép giá người tiêu dùng,... diễn ra phổ biến khiến ưu điểm của kinh tế thị trường ít được phát huy; trong khi những khiếm khuyết của kinh tế thị trường lại thường xuyên phát sinh. Điều này khiến người dân cảm thấy sợ bị mất quyền lợi và quay sang trông chờ ở sự trợ giúp của Nhà nước.[19][20]

    Xem thêmSửa đổi

    • Kinh tế thị trường
    • Chủ nghĩa tự do
    • Chủ nghĩa xã hội
    • Phê phán Chủ nghĩa Xã hội
    • Phê phán chủ nghĩa tư bản
    • Kinh tế hỗn hợp

    Tham khảoSửa đổi

    1. ^ Karadjis, Michael. "Socialism and the market: China and Vietnam compared". Links International Journal for Socialist Renewal. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2013.
    2. ^ "Socialist-oriented market economy: concept and development". Embassy of the Socialist Republic of Vietnam. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2013.
    3. ^ "Consistently pursuing the socialist orientation in developing the market economy in Vietnam". Communist Review. Archived from the original on ngày 10 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2013.
    4. ^ Napier, Nancy K.; Vuong, Quan Hoang [2013]. What We See, Why We Worry, Why We Hope: Vietnam Going Forward. Boise, Idaho: Boise State University CCI Press. ISBN 978-0985530587.
    5. ^ Cling, Jean-Pierre; Razafindrakoto, Mireille; Roubaud, Francois [Mùa xuân 2013]. "Ngân hàng Thế giới có tương thích với" nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa "không?". Revue de la régulation: Chủ nghĩa tư bản, thể chế, pouvoirs [13]. doi: 10,4000 / quy định.10081. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2019.
    6. ^ "The awareness of the socialist-oriented market economy in Vietnam". Archived ngày 14 tháng 7 năm 2012 at Archive.today
    7. ^ "Firmly holding to the socialist orientation". Archived from the original on ngày 29 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2010.
    8. ^ Zhongqiao, Duan. Market Economy and Socialist Road [PDF].
    9. ^ Vuong, Quan-Hoang [2010]. Financial Markets in Vietnam's Transition Economy: Facts, Insights, Implications. Saarbrücken, Germany: VDM Verlag. ISBN 978-3-639-23383-4.
    10. ^ a b c “Nhiều hạn chế của thể chế kinh tế cản trở sự phát triển”. VOV.
    11. ^ “Toàn cảnh 12 đại dự án thua lỗ ngàn tỷ của ngành Công Thương”. Tuổi Trẻ Online. ngày 17 tháng 4 năm 2019.
    12. ^ "Cải cách thể chế từ câu hỏi chưa có lời giải". Thời báo Kinh tế Sài Gòn. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 5 năm 2014.
    13. ^ “Hiệu quả đầu tư của Việt Nam so với các nước”. Đại học Duy Tân. ngày 18 tháng 12 năm 2014.
    14. ^ a b “Cải cách thể chế từ câu hỏi chưa có lời giải”. Thời báo Kinh tế Sài Gòn. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 5 năm 2014.
    15. ^ a b “Kinh tế Việt Nam: Mất 15 năm chỉ để 'dò đá qua sông'”. Báo điện tử VTC News. ngày 29 tháng 8 năm 2015.
    16. ^ a b “Băn khoăn thể chế kinh tế trong dự thảo Hiến pháp”. VnEconomy. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2013.
    17. ^ Băn khoăn thể chế kinh tế trong dự thảo Hiến pháp thuvienphapluat, 23.03.2013
    18. ^ Báo Mỹ: Người Việt ‘chuộng’ thị trường tự do hơn người Mỹ Infonet, 05/05/2015
    19. ^ “Vừa thích thị trường, vừa muốn nhà nước... can thiệp giá”. canhtranhquocgia.vn. Truy cập 8 tháng 2 năm 2018.
    20. ^ “Người dân kỳ vọng vào cải cách của Chính phủ”. Cổng Thông tin Điện tử Chính phủ. Truy cập 8 tháng 2 năm 2018.

    Liên kết ngoàiSửa đổi

    • Embassy of Vietnam in United States: Socialist-oriented market economy: concept and development soluti
    • Tran Quang Nhiep [2007], "Fundamental Features of the Socialist-Oriented Market Economy in Viet Nam," paper presented at the Congrès Marx International V – Section Socialisme – Paris-Sorbonne et Nanterre – 3/6 octobr.[liên kết hỏng]

    Video liên quan

    Chủ Đề