Nội dịch ở ốc tai không được bao quanh bởi loại màng nào dưới đây ?

Màng nhĩ là lớp đường phân chia giữa tai ngoài và tai giữa. Màng nhĩ có hình bầu dục, hơi lồi, giống như một hình nón với các phần rỗng của nón quay ra phía ngoài, và nghiêng một góc 30 độ so với đáy ống tai. Màng nhĩ bình thường có màu trong mờ, trắng sáng hay hơi xám hồng. Thường, chúng ta có thể nhìn xuyên qua màng nhĩ.

Màng nhĩ

Màng nhĩ có chiều cao khoảng 9mm [1/4 inch], và rộng khoảng 8 mm [3/8 inch]. Màng nhĩ mỏng như giấy nhưng rất chắc. Màng nhĩ có ba lớp. Lớp đầu tiên là lớp da của ống tai, nằm phía ngoài màng nhĩ. Tiếp theo, là một lớp sợi cứng. Các sợi ngoài cùng giống như các nan hoa của bánh xe. Các sợi bên trong là đồng tâm, xòe ra trong vòng tròn mở rộng. Kết hợp với nhau, chúng tạo thành một lớp màng đặc biệt chắc không bị rách theo thời gian dưới tác động áp lực của nước, không khí, và nhiễm trùng. Cuối cùng là lớp bên trong được gọi là màng nhầy, nằm ở khoang tai giữa

.Ở trẻ em, màng nhĩ mỏng và có độ đàn hồi, trở nên dày hơn và cứng hơn khi trưởng thành. Vòng hình khuyên giữ màng nhĩ cố định tạo thành một lớp màng không thấm nước và kín giữa tai giữa và tai ngoài.

Sự rung động của âm thanh, năng lượng âm thanh, được tăng dần bởi vành tai và sự cộng hưởng của ống tai, làm cho màng nhĩ dễ di chuyển ra sau và ra trước đáp ứng với những rung động. Màng nhĩ được gắn với xương búa ở tai giữa.

Ở tai bình thường, xương búa treo từ đầu màng nhĩ tới điểm khoảng 2/3 màng nhĩ hướng xuống. Tại điểm đầu xương búa gắn với màng nhĩ, màng nhĩ được kéo về phía tai giữa, tạo thành chóp phía trong của hình nón.

Ánh sáng của đèn soi tai phản chiếu từ đầu xương búa đến đáy màng nhĩ gọi là tam giác sáng. Tam giác sáng này hiện diện ở hầu hết các tai bình thường.

Mô của 4/5 dưới của màng nhĩ chắc và được gọi là màng căng [pars tensa]. 1/5 trên mềm vì bị thiếu lớp xơ được gọi là màng chùng.

Các góc tư của màng nhĩ

Màng nhĩ được chia làm 4 phần để giúp chúng ta dễ dàng mô tả vị trí liên quan các phần giải phẫu hay các vị trí được quan tâm.

Cho màng nhĩ là một vòng ở bên đầu, trục dọc sẽ theo cán búa bắt đầu ở 1h cho chúng ta phần trước và sau màng nhĩ. Trục ngang bắt đầu tại 4h chia màng nhĩ phần trên và dưới. Màng nhĩ được chia thành 4 phần. Ví dụ màng nhĩ thủng, lỗ thủng nằm ở phần trên sau màng nhĩ.

Rối loạn chức năng tai

Bốn lý do cơ bản vì sao bạn cần biết về rối loạn chức năng tai:

- Bổ sung kiến thức của bạn về hoạt động của cơ chế nghe.

- Giúp bạn hiểu rõ các vấn đề của các khách hàng có liên quan tới y học.

- Giúp bạn biết khi nào nên khuyên khách hàng của bạn tới gặp bác sĩ.

- Giúp bạn lựa chọn tốt hơn độ khuếch đại thích hợp với từng mức độ khiếm thính của khách hàng.

Các dạng điếc

1. Điếc dẫn truyền: Do sự không hoạt động hoặc tắc nghẽn phần nào đó ở tai ngoài hoặc tai giữa, làm ngăn cản đường truyền của âm thanh. Hầu hết các nguyên nhân ngăn cản đường truyền âm thanh này có thể giải quyết bằng điều trị y khoa.

2. Điếc tiếp nhận hay còn gọi là điếc thần kinh giác quan: Do sự tổn thương tai trong làm âm thanh truyền đến tai không biến đổi được thành các xung điện.

3. Điếc hỗn hợp: Do sự tổn thương kết hợp cả tai ngoài hoặc tai giữa với tai trong. Loại điếc này có cả đặc điểm của điếc dẫn truyền và điếc tiếp nhận.

4. Điếc thần kinh trung ương: Não không thể xử lý, nhận và hiểu âm thanh hoặc câu nói một cách chính xác.

5. Điếc vô cơ [non-organic hearing loss]: thường gọi là điếc chức năng. Bệnh chủ yếu do một vài nguyên nhân tâm lý. Không có tổn thương các cơ quan liên quan tới cơ chế nghe.

Các tình trạng nêu bên dưới chỉ ra các sự rối loạn chức năng dẫn truyền:

Các dị tật tai bao gồm chít hẹp hay không có ống tai ngoài và bị dị dạng hay không có vành tai, vành tai dạng súp lơ [bông cải]. Những dị tật này có thể gây nghe kém.

Nút ráy tai là nguyên nhân phổ biến dẫn đến điếc dẫn truyền. Thông thường, ráy tai di chuyển ra cửa ống tai ngoài. Đôi khi, ráy tai tích tụ trong ống tai, tạo thành nút bịt kín một phần hay toàn ống tai. Ráy tai chất màu vàng, nâu hoặc đỏ đậm nếu ráy tai bị ướt hoặc màu đen nếu ráy tai cứng và khô [phổ biến ở những người lớn tuổi]. Nếu ống tai chỉ bị tắc nghẽn một phần, bệnh nhân sẽ nghe bình thường hoặc chỉ bị nghe kém nhẹ. Nếu ống tai bị tắc nghẽn hoàn toàn, bệnh nhân chắc chắn sẽ không nghe được. Không được kiểm tra sức nghe hoặc gắn thiết bị trợ thính khi bác sĩ chưa lấy ráy tai ra khỏi tai bệnh nhân.

Ráy tai phủ màng nhĩ rất khó di chuyển ra phía ngoài và dễ gây ra nghe kém trước khi chúng được các bác sĩ lấy ra khỏi tai.

Dị ứng da hoặc viêm da làm cho tai ngoài ngứa và đau. Da của ống tai ngoài trở nên đỏ và sưng nề. Tình trạng này sẽ không gây nghe kém trừ khi bị sưng nhiều bịt kín ống tai. Có thể thực hiện các test đo chức năng tai nếu chỗ sưng không bịt kín ống tai.

Viêm tai ngoài là sự nhiễm trùng làm sưng nề các thành của ống tai ngoài. Viêm tai ngoài sẽ không gây nghe kém nếu chỗ sưng không bịt kín ống tai.

Polyps [khối u] là các mô phát triển ra khỏi một bề mặt. Khi bệnh nhân có bất kỳ khối u hoặc xương phát triển bất thường thì bệnh nhân nên tới gặp bác sĩ.

Xẹp ống tai ngoài liên quan tới quá trình lão hóa, là các mô xung quanh ống tai bị suy nhược và sa xuống làm cho thành ống tai bị sụp. Phần vạt mô có thể bịt kín một phần ống tai hoặc bịt kín hoàn toàn ống tai. Để quan sát ống tai trong trường hợp này có thể nhấc vành tai lên xuống.

Thủng hoặc rách màng nhĩ: do nhiễm trùng tai, dị vật tai, gãy xương tai, gần tiếng nổ lớn hoặc do bị đánh vào tai. Các lỗ thủng nhỏ làm giảm độ nhậy nghe khoảng 10-15 dB. Các lỗ nhỏ thường lành trong khoảng một vài tuần. Các lỗ lớn hơn đòi hỏi phải phẫu thuật vá màng nhĩ, để bịt lỗ thủng.

Tai bị chảy nước, máu, mủ… dù có mùi hay không có mùi cũng phải yêu cầu bệnh nhân tới găp bác sĩ.

Các chấm đơn trông giống như một lỗ, nhưng chúng phản chiếu ánh sáng từ ống soi tai, giống như gương. Những chấm đơn này là các lỗ thủng đã lành và chỉ là một lớp dày. Chúng cũng được gọi là”màng gương”.

Một khối u hay cholesteatoma xảy ra ở tai giữa, đôi khi phá vỡ phần trên của màng nhĩ, xâm lấn vào ống tai ngoài. Nếu bệnh nhân có những triệu chứng này nên tới gặp bác sĩ ngay.

Ống tai ngoài rộng sau phẫu thuật tai. Những người này thường không còn màng nhĩ hoặc chuỗi xương con trong tai giữa. Da của ống tai có thể rất nhạy cảm. Nếu bệnh nhân không có màng nhĩ thì cần có sự tư vấn và đồng ý của bác sĩ trước khi gắn máy trợ thính.

Thông thường, khi lỗ thủng của tai lành lại, hoặc tai bị nhiễm trùng tái đi tái lại màng nhĩ sẽ bị sẹo. Điều này hạn chế sự chuyển động của màng nhĩ và có thể gây nghe kém dẫn truyền nhẹ.

Xơ nhĩ [Tympanosclerosis]: Mô nhĩ bị thoái hóa do tích tụ calcium có màu trắng đục như phấn

Dị vật trong ống tai bao gồm từ bông ráy tai, cục gôm, côn trùng, hạt lúa mầm đến những thứ không rõ tên loại.

Phần giải phẫu mô tả cấu trúc của tai. Phần sinh lý mô tả các bộ phận của tai hoạt động như thế nào để truyền và biến đổi âm thanh. Các bệnh liên quan tới tai và sự rối loạn chức năng các bộ phận của tai có thể ảnh hưởng trực tiếp tới cơ chế nghe hoặc ảnh hưởng tới toàn bộ cơ thể, bao gồm cả khả năng nghe.

Tai người có hai chức năng quan trọng. Chức năng đầu tiên và được biết nhiều nhất là nghe. Khả năng nghe hoạt động nhờ vào hệ thống thính giác. Hệ thống thính giác bao gồm 3 phần: Tai ngoài, tai giữa và tai trong. Chức năng thứ 2 của tai là giữ thăng bằng cho cơ thể. Khi chúng ta thay đổi chuyển động trong không gian, hệ thống tiền đình ảnh hưởng tới sự chuyển động của mắt và vị trí cơ thể [vì chúng ta chuyển động trong không gian]. Ngoại trừ tai ngoài, cấu trúc của tai nằm hoàn toàn trong xương thái dương của sọ.

Hầu hết mọi người khi nghĩ về tai, họ thường hình dung tai như một phần thịt nhìn thấy nhô ra 2 bên đầu người. Đây chỉ là một phần của tai và chúng ta thường gọi là vành tai hoặc loa tai. Bộ phận phức tạp và tinh vi nhất của tai nằm ẩn sâu trong các khoang sọ. Tai ngoài là bộ phận ít quan trọng nhất trong cơ chế nghe nhưng nó là bộ phận quan trọng không thể thiếu để gắn một thiết bị trợ thính phù hợp. Hầu hết các thiết bị trợ thính được gắn trong tai hoặc gắn phía sau tai. 

Các đường cong và xoắn của loa tai nhận và hứng âm thanh [năng lượng âm] vào ống tai.

Thông thường, cả hai tai [loa tai] hoạt động đồng thời để định vị nguồn gốc âm thanh, hướng âm thanh và tách âm thanh này với âm thanh khác.

Vành tai bao gồm sụn và có lớp da phủ bên ngoài. Cấu tạo sụn ở mỗi người rất khác nhau, vì thế có người vành tai rất cứng nhưng cũng có người vành tai rất mềm.

Vành tai có rất ít mạch máu và lớp mỡ bảo vệ. Vì vậy vành tai rất dễ bị tê buốt khi trời lạnh.

Gờ ngoài hay nếp ngoài của vành tai là gờ luân nhĩ [Helix]. Vùng phía trong hay vành trong gọi là gờ đối luân [Anti helix]. Phần cuống của gờ luân nhĩ nằm chồng lên gờ đối luân ở mép trước trên. Gần đỉnh vành tai, giữa gờ luân nhĩ và gờ đối luân là hố tam giác.Phần rộng phía sau đường cong của tai là hố thuyền. Phía dưới cùng của vành tai là thùy tai. Gờ Bình tai [tragus] là phần nhô lên trước tai nối liền phía trên ống tai. Phần nhô lên phía sau đường viền cửa tai là gờ đối bình [antitragus]. Giữa gờ bình tai và gờ đối bình [antitragus] là hõm giữa bình. Hõm này tạo thành đáy trong vành tai. Lõm nhỏ nối trực tiếp vào ống tai gọi là concha. Cửa tai là lối vào ống tai. Ống tai là lỗ thính giác bên ngoài. Nó kéo dài từ concha tới màng nhĩ.

Ống Tai

Ống tai thường không thẳng. Nó cong giống như hình chữ S. Ở người lớn, ống tai hơi hướng lên, sau đó hơi nghiêng về phía trước và càng hướng xuống khi tới gần màng nhĩ.

Phần phía ngoài của ống tai có chứa các sợi lông nhỏ, các tuyến nhờn tạo ráy tai. Ở đây, có một lớp da dày bao quanh sụn, trong khi phần bên trong có một lớp da mỏng bao xương thái dương.

Ống tai có cơ chế tự làm sạch. Da phát triển ra từ màng nhĩ tới ống tai ngoài. Các sợi lông mềm chuyển động nhẹ nhàng liên tục đẩy ráy tai khô và da bong ra cửa tai.

Chiều dài, chiều rộng và hướng của ống tai ngoài mỗi người rất khác nhau. Ở người lớn, chiều dài ống tai khoảng 2,3 cm [1 inch] tới 2,9 cm [3/8 inch], đường kính khoảng 0,7 cm [gần 1/4 inch], bằng đường kính của một cây bút chì thông thường. Nửa đường từ cửa tai đến màng nhĩ, ống tai trở nên hẹp vì nó đi vào xương thái dương. Vùng hẹp này là eo tai. Càng xa eo tai, đường kính ống tai lại lớn như kích thước ban đầu. Eo này chỉ vừa qua đường cong thứ 2 khi lấy khuôn tai.

Ống tai thường ấm và ẩm, nhiệt độ và độ ẩm tương đối ổn định. Nhiều bệnh viện sử dụng nhiệt kế đo đường tai, tương tự như ống soi tai để xác định nhiệt độ cơ thể chỉ trong vài giây.

Cộng hưởng ống tai

Cộng hưởng ống tai là chức năng rất quan trọng của ống tai. Ống tai kết thúc tại màng nhĩ, có hình dạng ống đóng lại ở cuối ống. Mỗi ống đóng hay mở đều có tần số cộng hưởng tự nhiên. Ống tai cũng không ngoại lệ.

Ống tai khác nhau ở chiều dài và bán kính. Âm thanh vào tới tai sẽ tăng lên bởi chức năng cộng hưởng của ống tai. Sự cộng hưởngâm thanh ở tai mỗi người khác nhau 1 ít vì kích thước và hình dáng ống tai khác nhau.

Hầu hết cộng hưởng ống tai có tần số dao động từ 2000 tới 3000 Hz. Tần số cộng hưởng trung bình khoảng 2700 Hz. Tần số trung bình này bao gồm sự kết hợp của cộng hưởng vành tai [2000 - 5000Hz].

Một nhánh của dây thần kinh sọ số X nằm dọc theo đáy của ống tai, giữa cửa tai và eo tai. Các dây thần kinh này dễ bị chạm phải khi sử dụng tăm bông để ngoáy tai, khi lấy ráy tai, khi sử dụng ni tai hoặc thiết bị trợ thính, gây ra phản ứng ho tự nhiên - phản xạ Arnold. Tỷ lệ 1/7 người có phản xạ này và không nhất thiết phải có ở cả 2 tai.

Phonak Việt Nam

Video liên quan

Chủ Đề