Rough endoplasmic reticulum là gì

Mục lục

  • 1 Cấu trúc
  • 2 Chức năng
  • 3 Hình tương tác
  • 4 Chú thích
  • 5 Tham khảo

Cấu trúcSửa đổi

Hình 1: Hình ảnh về nhân tế bào, mạng lưới nội chất và thể Golgi: [1] Nhân, [2] Lỗ nhân, [3] Mạng lưới nội chất hạt [RER], [4] Mạng lưới nội chất trơn [SER], [5] Ribosome trên RER, [6] Các phân tử protein được vận chuyển, [7] Túi tiết vận chuyển protein, [8] Thể Golgi, [9] Đầu Cis của thể Golgi, [10] Đầu trans của thể Golgi, [11] Phần thân của thể Golgi.

Mạng lưới nội chất có cấu trúc như là một hệ thống ống dẫn chằng chịt và phát triển rộng khắp tế bào chất, được nâng đỡ bởi hệ thống khung xương của tế bào. Các ống dẫn, nhánh rẽ và các túi của mạng lưới nội chất đều được nối thông với nhau và bản thân mạng lưới nối kết trực tiếp với lớp màng ngoài của nhân tế bào, như hệ thống màng này hình thành một lớp vỏ bọc kín bao lấy một khoảng không gian chiếm chừng 10 phần trăm dung tích tế bào gọi là khoang lưới nội chất [ER lumen]. Mặc dù khoang lưới nội chất chỉ chiếm 10 phần trăm dung tích tế bào, diện tích bề mặt màng sinh chất của mạng lưới chiếm gần một nửa tổng diện tích màng sinh chất của tế bào.[1] Ở các tế bào gan và tụy, diện tích bề mặt màng sinh chất của mạng lưới lần lượt gấp 25 lần và 12 lần so với diện tích bề mặt màng tế bào.[2] Mạng lưới nội chất lại được chia thành 2 dạng: lưới nội chất có hạt [hay còn gọi là lưới nội chất nhám] và lưới nội chất trơn. Lưới nội chất nhám có cấu tạo gồm nhiều túi dẹt thông với nhau. Các ống thông với khoảng quanh nhân và màng sinh chất. Lưới nội chất hạt có các hạt ribosome đính trên bề mặt, phần không có hạt gọi là đoạn chuyển tiếp. Lưới nội chất trơn có hệ thống ống chia nhánh với nhiều kích thước khác nhau và không có ribosome trên bề mặt. Lưới nội chất trơn thông với lưới nội chất hạt, không thông với khoảng quanh nhân và có liên kết mật thiết với bộ máy Golgi.

Endoplasmic Reticulum Là Gì

-

Các ự khác hoàn toàn chính giữa máy bộ Golgi với lưới nội chất là Sở thứ Golgi không link thẳng cùng với nhân trong những lúc một ố phần của lưới nội hóa học li&#

Kí;ch thước tế bào được giới hạn bởi tỷ lệ bề mặt và thể tí;ch

Hầu hết tế bào rất nhỏ, thể tí;ch tế bào trong khoảng từ 1-1000m3. Ngoại trừ trứng 1 vài loài chim rất to lớn, 1 vài tế bào đặc biệt của vài loài tảo và vi khuẩn đủ lớn để có thể thấy bằng mắt thường. Và mặc dù những nơron [tế bào thần kinh] có thể tí;ch nằm trong khoảng của tế bào bình thường,nhưng mà những phần phát xuất từ chúng có thể dài hàng mét, mang tí;n hiệu từ 1 phần đến phần khác trong động vật lớn. Nhưng nhìn chung, tế bào rất nhỏ. Sự gia tăng kí;ch thước tế bào là nguyên nhân của sự thay đổi tỉ lệ giữa diện tí;ch bề mặt và thể tí;ch [S/V]của bất cứ vật thể nào. Khi tế bào tăng thể tí;ch, diện tí;ch bề mặt của nó cũng tăng nhưng quy mô của nó không thay đổi.

Tại sao các tế bào luôn nhỏ

Hiện tượng này có ý nghĩa sinh học to lớn vì 2 lý do sau:

– Thể tí;ch tế bào xác định khoảng hoạt động hóa học mà nó có thể hoạt động trên một đơn vị thời gian. – Diện tí;ch bề mặt của tế bào xác định lượng chất tế bào lấy từ môi trường ngoài và lượng sản phẩm thải ra môi trường. vì thế khi một tế bào tăng trưởng lớn hơn thì tỉ lệ giữa chất thải tạo ra và nguồn vật chất cần hấp thụ tăng nhanh hơn nhiều so với sự gia tăng của diện tí;ch bề mặt, do đó điều này giải thí;ch tại sao những sinh vật lớn thì có nhiều tế bào nhỏ, vì khi thể tí;ch nhỏ thì diện tí;ch bề mặt trao đổi của chúng lớn, ở những cơ thể đa bào thì do được cấu tạo nhiều tế bào nhỏ khác nhau dẫn đến diện tí;ch trao đổi lớn do đó chúng có thể thực hiện các chức năng cần thiết cho sự sống đặc biệt là vận chyển thức ăn, oxy, thải bả đi và đến từng tế bào bên trong cơ thể sinh vật và với môi trường bên ngoài.

Sự cần thiết của kí;nh hiển vi trong quan sát tế bào

Hầu hết các tế bào không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Một vật thể nhỏ nhất mà mắt một người bình thường có thể nhìn thấy được là khoảng 0.2 mm [200 um]. Chúng ta gọi đó là độ phân giải [resolution], tức giới hạn nhỏ nhất mà người ta phân biệt được 2 điểm kề sát nhau, không chập lại thành một. Rất nhiều tế bào có kí;ch thước nhỏ hơn 200 um. Kí;nh hiển vi là dụng cụ thường được sử dụng để cải thiện độ phân giải giúp cho việc quan sát được tế bào và các cấu trúc bên trong của nó. Có 2 lại kí;nh hiển vi cơ bản: kí;nh hiển vi quang học và kí;nh hiển vi điện tử. Kí;nh hiển vi quang học [light microscope – LM] sử dụng thấu kí;nh thủy tinh và ánh sáng nhìn thấy được để phóng đại vật thể. Nó có thể phân giải một điểm khoảng 0.2 um gấp 1000 lần độ phân giải của mắt người. Nó cho phép chúng ta có thể hình dung được hình dáng, kí;ch cỡ và một số cấu trúc bên trong tế bào. Các tế bào dưới ánh sáng bình thường sẽ khó phân biệt các chi tiết cấu trúc nên tế bào thường bị làm chết và nhuộm với các chất nhuộm màu khác nhau để các cấu trúc nổi bật lên dễ cho việc quan sát kỹ. Kí;nh hiển vi điện tử [electron microscope – EM] sử dụng nam châm để tập trung chùm eletron, giống như kí;nh hiển vi quang học sử dụng thấu kí;nh thủy tinh để tập trung chùm ánh sáng. Bởi vì chúng ta không thể nhìn thấy điện tử, kí;nh hiển vi điện tử sẽ hướng chúng đến một màn huỳnh quang hoặc chụp ảnh để tạo nên hình ảnh có thể nhìn thấy được. Độ phân giải một điểm của kí;nh hiển vi điện tử là khoảng 0.5 nm, gấp 400.000 lần so với mắt người. Độ phân giải này cho phép phân biệt đến chi tiết các cấu trúc dưới mức tế bào [subcellular]. Ngoài kí;nh hiển vi quang học và kí;nh hiển vi điện tử, rất nhiều kỹ thuật đã và đang được nghiên cứu, phát triển nhằm tăng cường khả năng quan sát tế bào hơn nữa.

Màng sinh chất [plasma membrane] bao quanh tế bào

Như chúng ta đã biết, màng sinh chất phân cách mỗi tế bào với môi trường của nó [tạo một ngăn riêng [nhưng không bị cô lập]. Màng sinh chất cấu tạo từ lớp đôi phospholipid với một đầu kị nước có lipid quay vào và các nhóm ưa nước quay ra ngoài [như hình 3.2]. Protein được gắn vào lipid. Trong nhiều trường hợp, các protein này nhô ra tế bào chất hoặc vào môi trường ngoại bào. Vấn đề về cấu trúc và chức năng của màng sinh chất sẽ được tập trung làm rõ chi tiết ở Chương 5. Ở chương này chỉ tóm tắt vai trò của màng sinh chất:

Màng tế bào cho phép duy trì môi trường không đổi bên trong tế bào [constant internal environment], một sự tự duy trì, việc duy trì môi trường không đổi bên trong tế bào là một đặc tí;nh của sự sống sẽ được thảo luận chi tiết ở Chương 41. Màng tế bào hoạt động như một hàng rào thấm chọn lọc, ngăn cản một số cơ chất thấm qua trong khi cho phép một số cơ chất khác tự do vào và ra khỏi tế bào. Được xem như ranh giới giữa tế bào với môi trường bên ngoài. Màng sinh chất quan trọng trong việc trao đổi với các tế bào lân cận và nhận các tí;n hiệu ngoại bào. Chúng ta sẽ mô tả chức năng này trong Chương 15. Màng sinh chất thường mang các phân tử thò ra khỏi tế bào chịu trách nhiệm cho việc nối và bám chặt với các tế bào lân cận.

Tổng quan

Mạng lưới nội chất [ER ] là một loại cơ quan được tìm thấy trong các tế bào nhân chuẩn hình thành một mạng lưới liên kết của các túi được làm phẳng, bao bọc màng hoặc các cấu trúc giống như ống được gọi là cisternae. Các màng của ER liên tục với màng nhân bên ngoài. Mạng lưới nội chất xảy ra ở hầu hết các loại tế bào nhân chuẩn, nhưng không có trong các tế bào hồng cầu và tinh trùng. Có hai loại lưới nội chất: thô [dạng hạt] và mịn [nông]. Mặt ngoài [tế bào học] của mạng lưới nội chất thô được gắn với các ribosome là nơi tổng hợp protein. Mạng lưới nội chất thô đặc biệt nổi bật trong các tế bào như tế bào gan. Mạng lưới nội chất trơn tru thiếu các ribosome và chức năng trong sản xuất và chuyển hóa lipid, sản xuất hormone steroid và giải độc. ER trơn tru đặc biệt có nhiều trong các tế bào gan và tuyến sinh dục của động vật có vú.

Một cấu trúc vi mô giống như túi phẳng nhìn thấy trong tế bào chất của động vật và thực vật bằng kính hiển vi điện tử. Trong tiếng Anh, nó được gọi là mạng lưới nội chất, viết tắt là ER. Có một mạng lưới nội chất thô ráp với các ribosome được gắn trên bề mặt, và một mạng lưới nội chất dạng vảy mịn không dính vào nhau. Cấu trúc màng của mạng lưới nội chất bao gồm protein và lipit, protein được tạo ra từ các ribosome trên mạng lưới nội chất thô vào mạng lưới nội chất trơn và được giải phóng ra ngoài tế bào thông qua mạng lưới nội chất.

Nguồn Encyclopedia Mypedia

Endoplasmic Reticulum Là Gì, Thuật Ngữ Anh Văn Sinh Học

Là Gì 12 Tháng Tám, 2021 Là Gì

Endoplasmic Reticulum Là Gì, Thuật Ngữ Anh Văn Sinh Học

Diễn ra:

Charles Darwin đã đương đầu với trường hợp rất là phức tạp. Trong cuốn “Nền tảng những loài”, đc xuất bản năm 1859, ông hiện ra giả thuyết về chọn lọc bỗng nhiên để giải thí;ch sự có mặt từ từ and biến mất của các dạng động and thực vật trong thời hạn dài. Nhưng ông nhận biết rằng các giả thuyết của ông dựa trên các ghi nhận từ hóa thạch, là không hoàn chỉnh, đặc biệt là vào lúc sự sống khởi đầu. Những hóa thạch cổ nhất trong thời của Darwin đã đc tìm cảm thấy là các sinh vật nan giải cách thức đây khoảng 550 tỉ năm [kỷ Cambri]. Vậy các hóa thạch trước kỷ Cambri nơi nào? Chúng chắc chắc sẽ đưa đến mối contact với điểm khởi đầu của sự sống.

Như đã học ở chương 3, trường hợp toàn cầu có thể thí;ch hợp cho cuộc sống cách thức đây 4 tỷ năm, khoảng 600 triệu năm sau khi toàn cầu hình thành. Nhưng cho đến gần đây, không có minh chứng nào về cuộc sống trước thời kỷ Cambri. Quay lại thế kỷ 20, có minh chứng về khối tảo [sinh vật dễ chơi có khả năng quang hợp sống nội địa] hóa thạch bằng đá tại vùng Grand Canyon cách thức đây gần 1 tỷ năm.

Những nhà khoa học đã mất thêm 1 thế kỷ để cam kết chí;nh xác hơn khởi điểm của sự sống. Năm 1993, nhà địa chất học, William Schopf tìm cảm thấy hóa thạch gồm 1 chuổi hình trụ bằng đá, có kí;ch thước and diện mạo khá giống với cyanobacteria đương thời [“tảo lục “], ở Tây Úc cách thức đây 3.5 tỷ năm. Sau đó, ông sử dụng phương thức phân tí;ch hóa học là laser quang phổ học Raman and cho cảm thấy vật này dường như có chứa C – biểu hiện hóa học của sự sống.

Hóa thạch tảo phát ngày này Tây Úc

Các vật thể tròn hay hình trụ bằng đá trên Cộng đồng hay hóa thạch từ sao Hỏa [chương 3] đã quyến rũ nhà khoa học bởi lẽ vì học nhận cảm thấy rằng cuộc sống không chỉ là 1 cụm đại phân tử. Đúng hơn, sự sống là những đại phân tử có thể biểu lộ những chuyển động chức năng riêng biệt bởi lẽ vì chúng được bao trùm trong 1 kết cấu tách biệt với bên phía ngoài môi trường xung quanh. Sự tách biệt này được phép sinh vật sống bảo trì môi trường xung quanh phía bên trong không đổi [tí;nh nội thăng bằng]. Cấu tạo sống đó dược gọi là tế bào, này là phần nghiên giúp chí;nh trong chương này.

Bài Viết: Endoplasmic reticulum là gì

Tế bào: Đơn vị cơ bản của sự sống

Như nguyên tử là đơn vị của hóa học, tế bào là các khối dựng lên sự sống. 3 công bố sau hình thành nên thuyết tế bào:

Tế bào là đơn vị cơ bản của sự sống toàn bộ mọi sinh vật đều kết cấu từ tế bào toàn bộ tế bào đều hình thành từ tế bào

Tế bào đc kết cấu từ các phân tử nước and các phân tử to, bé dại mà các bạn đã học trong 2 chương trước. Mỗi tế bào chứa í;t nhất 10,000 loại phân tử khác nhau, phần nhiều chúng tồn tại ở nhiều bản sao. Tế bào sử dụng các phân tử này để vận chuyển vật chất and năng lượng, để tán thành với môi trường xung quanh, and để coppy chí;nh chúng.

Thuyết tế bào có 3 ý quan trọng:

Nghiên giúp sinh học tế bào y như nghiên giúp về sự sống. Nguyên lý căn bản là chức năng của tế bào đơn như vi khuẩn y như 60 nghìn tỉ tế bào trong cơ thể bạn. Sự sống luôn tiếp diễn.Cục bộ các tế bào trong cơ thể bạn đều khởi đầu từ 1 tế bào đơn, trứng đc thụ tinh, từ sự giao hợp của 2 tế bào là tinh trùng từ bố and trứng từ mẹ. Nền tảng của sự sống trên Cộng đồng đc lưu lại bởi nền tảng của tế bào trước tiên.

Vào các năm 1920, nhà khoa học người Nga Alexander Oparin đã phối trộn 1 lượng to protein and polysaccharide vào dung dịch. Khi ông lắc mạnh hỗn hợp, các bong bong hình thành. Ông ta có thể làm điều ấy với các polymer khác. Nồng độ những chất cao phân tử phía bên trong các bọt khí cao hơn ở môi trường xung quanh bao quanh. Hơn nữa, chúng còn xúc tác những phản xạ hóa học, and điều khiển đồ gì rời khỏi and vượt qua đường biên vào môi trường xung quanh. Nói cách thức khác, này là protobiont [là tập hợp những phân tử mà không có khả năng sinh sản nhưng môi trường xung quanh hóa học phía bên trong chúng khác với môi trường xung quanh bao quanh]. Sau đó, các nhà nghiên giúp khác cho cảm thấy nếu trộn lipid vào môi trường xung quanh nước, thì chúng sẽ tự bố trí thành các giọt bé dại đc xung quanh bởi lớp đôi. Xảy ra đồng thời với quy mô hóa học tiền sự sống and giả thuyết RNA đc biểu đạt trong chương 3, các thí; nghiệm này hiện ra giả thuyết ảo tưởng cho nền tảng tế bào.

Video liên quan

Chủ Đề