Sáng kiến kinh nghiệm khám phá

Tóm tắt nội dung tài liệu

PHÒNG GIÁO GD­ĐT KRÔNG ANA
TRƯỜNG MẦM NON HOA CUC ́




TÊN SÁNG KIẾN:
MÔT SÔ BI
̣ ́ ỆN PHÁP GIÚP TRẺ 5­6 TUỔI HỌC TỐT 
MÔN KHÁM PHÁ KHOA HỌC

Thuộc lĩnh vực : Phát triển nhận thức




Họ và tên tác giả: Trần Thị Kim Loan
Chức danh :   Giáo viên 
Trình độ chuyên môn cao nhất:  Đại học sư phạm
Chuyên ngành đào tạo:  Sư phạm mầm non




1
MỤC LỤC 
I. Phần mở đầu:...............................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài :..........................................................................................3
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:.....................................................................4
3. Đối tượng nghiên cứu:...................................................................................4
4. Giới hạn của đề tài:.......................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu:...............................................................................4
II. Phần nội dung:............................................................................................5
1. Cơ sở lý luận:.................................................................................................5
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:.....................................................................6
3. Nội dung và hình thức của giải pháp:............................................................8
a. Mục tiêu của giải pháp...................................................................................8
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp:..................................................8
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:.................................................16
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi và 
hiệu quả ứng dụng:………………....................................................................17
III. Kết luận, kiến nghị:..................................................................................18
1. Kết luận:.........................................................................................................18
2. Kiến nghị:.......................................................................................................19




2
I. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. đó là một câu hát rất là quen thuộc 
với mọi người. Muốn ngày mai có những nhân tài, những con người có đầy  
đủ những trí thức, hiểu biết để cống hiến cho nhân loại thì ngay lúc này giáo  
dục lưa tuổi mầm non là điều thiết yếu và quan trọng. Trong mỗi chúng ta 
phải có trách nhiệm nặng nề đối với mầm non tương lai của đất nước. 
Mỗi đứa trẻ lớn lên muốn phát triển toàn diện thì phải có những yếu tố 
quan trọng giúp cho sự  phát triển nhân cách sau này cho trẻ. Vì vậy trẻ  cần 
được tiếp thu toàn bộ các môn học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của trẻ. 
Thông qua các môn học giúp trẻ làm quen và tiếp xúc với thế giới xung quanh, 
hình thành  ở  trẻ  những biểu tượng phong phú và đa dạng hơn. Trong tất cả 
các môn học của trẻ mầm non, môn khám phá khoa học là một bộ môn quan  
trọng đối với trẻ, đặc biệt là trẻ 5 tuổi, môn học này sẽ cung cấp những kiến 
thức, kĩ năng sống cho trẻ trước khi vào lớp một.
Đồng thời thông qua môn học này giúp trẻ phát triển và hình thành các kỹ 
năng quan sát, tư duy, phân tích, tổng hợp, khái quát. Khi nói đến trẻ mầm non 
không ai  không biết  trẻ   ở  lứa  tuổi này rất thích tìm hiểu, khám phá môi 
trường xung quanh bởi thế giới xung quanh thật bao la rộng lớn , có biết bao 
điều mới lạ hấp dẫn, và còn có biết bao điều mới lạ lạ lẫm khó hiểu mà trẻ 
tò mò muốn biết, muốn được khám phá. Khám phá khoa học mang lại nguồn  
biểu tượng vô cùng phong phú, đa dạng, sinh động, đầy hấp dẫn với trẻ thơ,  
từ  môi trường tự  nhiên[ cỏ  cây hoa lá, chiêm muông...] đến môi trường xã 
hội[ công việc của mỗi người trong xã hội, mối quan hệ giữa con người với  
nhau…] và trẻ hiểu biết về chính bản thân mình vì thế trẻ luôn có niềm khát 
khao khám phá tìm hiểu về  chúng. Khám phá khoa học   đòi hỏi trẻ  phải sử 
dụng tích cực các giác quan chính vì vậy sẽ phát triển ở trẻ năng lực quan sát, 
khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp… nhờ vậy khả năng cảm nhận của trẻ 
sẻ  nhanh nhạy, chính xác, những biểu tượng, kết quả trẻ thu nhận được trở 
nên cụ thể, sinh động và hấp dẫn hơn. Qua những thí nghiệm nhỏ  trẻ   được 
tự  mình thực hiện trong độ  tuổi mầm non   sẽ  hình thành  ở  trẻ  những biểu  
tượng về thiên nhiên chính là cơ sở khoa học sau này của trẻ.  Nếu giáo viên 
không quan tâm tạo điều kiện học tập cho trẻ, không sáng tạo trong việc tổ 
chức, tổ  chức tiết dạy nhằm làm cho trẻ  hứng thú, tập chung chú ý vào tiết 
học thì hiệu quả không cao. Tôi rất quan tâm và trăn trở về việc làm sao để có 
những phương pháp hay và hữu ích nhất giúp trẻ  thỏa mãn được nhu cầu  
khám phá và tìm hiểu thế giới xung quanh,  mai này biết đâu đó những “Mầm 

3
non” ấy sẽ tiếp tục là những nhà khoa học khám phá ra những điều kì vĩ hơn 
nữa. Chính vì thế tôi không những áp dụng những phương pháp vốn có trong  
trường, lớp, sách vở  mà thường xuyên học hỏi từ  đồng nghiệp, sách báo và  
đặc biệt là tôi rất quan tâm tới những sáng kiến kinh nghiệm về  khám phá 
khoa học của những giáo viên trong huyện và tỉnh, tôi cũng nghiên cứu và áp 
dụng vào các tiết dạy của mình. Khi áp dụng sáng kiến vào trẻ  tôi thật sự 
cảm nhận rõ vai trò riêng của từng sáng kiến. Mỗi sáng kiến lại như  phần  
nào góp phần thêm vào sự  hoàn thiện cho buổi học. Với mong muốn được 
góp một phần nhỏ  vào sự  nghiệp giáo dục đặc biệt lĩnh vực khám phá khoa 
học nên bản thân tôi đã đề cập tới đề tài “ Một số biện pháp giúp trẻ 5­6 tuổi  
học tốt môn khám phá khoa học ”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Mục tiêu của đề tài:
Tìm ra một số  biện pháp nhằm giúp trẻ  lớp lá 2 trường mầm non Hoa  
Cúc học tốt môn khám phá khoa học, nâng cao chất lượng giờ dạy khám phá 
khoa học.
Tìm hiểu khả  năng tiếp thu kiến thức về  thế  giới xung quanh của trẻ 
mẫu giáo 5 ­ 6 tuổi, từ đó đề  ra một số  giải pháp nhằm nâng cao chất lượng  
cho trẻ khám phá môi trường xung quanh một cách tốt nhất.
             Hình thành và rèn luyện kĩ năng  ở  trẻ  làm quen với môi trương xung  
quanh thông qua các hoạt động: Vui chơi, học tập, lao động và sinh hoạt
Nhiệm vụ của đề tài:
Rèn luyện khả năng tri giác các sự vật, hiện tượng xung quanh chính xác  
và nhanh nhậy. Đối với trẻ Mẫu giáo 5­ 6 tuổi rèn luyện cho trẻ tri giác nhiều  
đối tượng một lúc đặc biệt phân biệt chính xác những đặc điểm rõ nét của 
từng đối tượng, củng cố những biểu tượng cũ, hình thành những biểu tượng  
mới đồng thời phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Kích thích trẻ rèn luyện khả năng  
tập trung có hứng thú với việc tìm hiểu khám phá môi trường xung quanh. 
Qua đó hình thành các năng lực cần thiết tốt cho thao tác tư duy.
3. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp sư phạm nhằm giúp trẻ học tốt môn khám phá khoa học
4. Giới hạn của đề tài:
Khuôn khổ  nghiên cứu : Một số  biện pháp giúp trẻ  học tốt môn khám 
phá khoa học.
Đối tượng khảo sát :  Trẻ  5 – 6 tuổi,  lớp lá 2 ­ Trường mầm non Hoa  
Cúc.
Thời gian : Bắt đầu từ tháng 09 năm 2016 đến tháng 02 năm 2017.
4
5. Phương pháp nghiên cứu:  
a] Nhóm Phương pháp nghiên cứu lý luận:

Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Để  đề  tài này có hiệu quả  đạt được kết quả  cao trong môn khám phá 
khoa học tôi đã không ngừng tìm tòi tài liệu trong sách báo, tivi, tranh anh, trên
̉  
mạng … có những hình ảnh liên quan đến tiết học nhằm  gây sự chú ý từ trẻ.
b] Nhóm Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:

Phương pháp quan sát:
        Trong các giờ học khám phá khoa học tôi luôn quan sát chú ý từng trẻ 
để uốn nắn, củng cố, rèn luyện thêm các kỹ năng cho trẻ.
Phương pháp trò chuyện:
        Trao đổi với phụ huynh về tình hình học tập của trẻ  ở lớp cũng như ở 
nhà, qua đó có điều kiện theo dõi, uốn nắn trẻ. Bên cạnh đó tôi cũng thường  
xuyên trò chuyện cùng trẻ  để  nắm bắt được các nguyên nhân làm cho trẻ 
̣
không thích hoc môn khám phá khoa h ọc và tìm ra hướng khắc phục.
c] Phương pháp thống kê toán học :
Vào đầu năm học, tôi đã chủ  động kiểm tra, khảo sát, thống kê về  hoạt  
động khám phá khoa học  để  nắm bắt khả năng nhận thức của từng cá nhân 
trẻ. Cụ thể:    

Số  Kết quả
Nội dung lượn Tố Yế Tỷ 
g trẻ Tỷ lệ Khá Tỷ lệ TB Tỷ lệ
t u lệ

Kỹ   năng   quan 
sát,   so   sánh,  37 11 29,7% 12 32,4% 13 35,1% 1 2,8%
phân loại

Phát   hiện   cái 
mới   lạ   và   có 
37 12 32,4% 14 37,9% 11 29,7% 0
thái   độ   hành 
động phù hợp

Biết   dùng   câu  37 11 29,7% 11 29,7% 15 40,6%
có   nghĩa   đầy 
đủ,   rõ   ràng 
mạch lạc, diễn 

5
đạt sáng tạo

Có   kỹ   năng 
sống   và   khả 
37 13 35,1% 12 32,4% 12 32,4%
năng   giao   tiếp 
tố t

 II. Phần nội dung:
1. Cơ sở lí luận :
Cho trẻ  làm quen với môi trường xung quanh sẽ  cung cấp cho trẻ  vốn 
hiểu 
biết về môi trường tự nhiên [ cỏ cây, hoa lá, chim muôn...] đến môi trường xã 
hội [ công việc của mỗi người trong xã hội, mối quan hệ giữa con người với  
nhau...]. Từ đó, trẻ  có hiểu biết về  chính bản thân và cuộc sống xung quanh 
mình 
Dạy trẻ hoạt động khám phá khoa học có một tầm quan trọng trong quá  
trình giáo dục trẻ  mầm non. Đặc biệt là trẻ  mẫu giáo 5­6 tuổi. Vì thông qua  
việc dạy trẻ  khám phá môi trường xung quanh đã rèn khả  năng quan sát, so  
sánh, phân loại, khả  năng chú ý tư  duy tưởng tượng. Khám phá môi trường  
xung quanh nhằm củng cố hoá kiến thức. Mở rộng vốn hiểu biết từ thế giới  
xung quanh và qua đó làm giàu vốn từ  cho trẻ. Trẻ  nhận biết phân biệt âm 
đúng chuẩn, đồng thời phát triển ngôn ngữ, diễn đạt rõ ràng mạch lạc. 
    Đối với giáo dục mầm non, phương pháp giáo dục phải tạo điều kiện 
cho trẻ  được trải nghiệm, tìm tòi, khám phá môi trường xung quanh dưới 
nhiều hình thức, đáp  ứng nhu cầu, hứng thú của trẻ. Chú trọng đổi mới tổ 
chức môi trường giáo dục nhằm kích thích và tạo cơ  hội cho trẻ  khám phá, 
trải nghiệm. Kết hợp hài hòa giữa giáo dục trẻ  trong nhóm bạn với giáo dục 
cá nhân. Tổ  chức hợp lý các hình thức hoạt động cá nhân, theo nhóm nhỏ  và 
cả  lớp, phù hợp độ  tuổi của nhóm/lớp, với khả  năng của từng trẻ, với nhu  
cầu và hứng thú của trẻ và với điều kiện thực tế. Chương trình giáo dục mẫu  
giáo nhằm giúp trẻ  phát triển hài hòa về  các mặt thể  chất, nhận thức, ngôn  
ngữ, tình cảm, kỹ năng xã hội, thẩm mỹ, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1.
 Hướng dẫn trẻ khám phá khoa học là phương thức hoạt động gắn bó 
giữa giáo viên và trẻ  nhằm tạo điều kiện cho trẻ  tiếp xúc với môi trường  
xung quanh để  trẻ  thích  ứng với môi trường, nhận thức về  môi trương, tích 
cực tham gia cải tạo môi trương thỏa mãn nhu cầu khám phá và phát triển  
bản thân trẻ
      Để  giúp trẻ  làm tốt vai trò chủ  thể  của quá trình khám phá thế  giới 
xung quanh giáo viên cần quan tâm đến nhu cầu, hứng thú của trẻ  tận dụng 

6
các biện pháp, các cơ hội trong cuộc sống cho trẻ được khám phá sự vật hiện  
tượng  xung  quanh  chúng cho trẻ  được trải nghiệm cảm xúc, tích lũy kinh  
nghiệm để  đi đến hiểu biết bản chất của sự  vật hiện tượng và có kỹ  năng 
sống phù hợp.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
* Ưu điểm
Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu trường mầm non Hoa Cúc  
về chuyên môn xây dựng phương pháp đổi mới hình thức tổ  chức hoạt động  
giáo dục mầm non, tạo mọi điều kiện giúp tôi thực hiện tốt chương trình 
mầm non mới, cơ sở vật chất của nhà trường được tăng cường kịp thời. 
Bản thân là giáo viên được phân công chủ nhiệm lớp 5 tuổi, được sự tín 
nhiệm và tin cậy của phụ huynh, có trình độ đạt chuẩn về chuyên môn, nhiệt  
tình trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ, yêu nghề mến trẻ. Hơn nữa tôi luôn  
luôn tìm tòi tham khảo tài liệu, không ngừng học hỏi, dự giờ dạy mẫu để rút  
kinh nghiệm cho mình 
Ngôi trường nơi tôi đang công tác là một đơn vị nhiều năm liền đạt danh  
hiệu đơn vị  xuất sắc, đội ngũ quản lý giỏi với tập thể  giáo viên giàu lòng 
nhiệt huyết và yêu nghề mến trẻ, nên thuân l
̣ ợi tham gia dự giờ, đúc rút kinh 
nghiệm trong công tác giảng dạy và công tác xây dựng môi trương giao duc
̀ ́ ̣  
̣ ̣ ̉
sach đep, an toan cho tre.
̀
Đa số trẻ ở gần trường nên đi học rất chuyên cần.
Lãnh đạo địa phương và các đoàn thể quan tâm tạo điều kiện cho việc  
dạy và học.
Phụ huynh quan tâm đến con em mình, nhiệt tình phối hợp cùng tôi trong 
việc dạy dỗ các cháu và thường xuyên ủng hộ những nguyên vật liệu để làm 
đồ dùng dạy học và vui chơi cho các cháu.
*Hạn chế:
Bên cạnh những thuận lợi khi chưa thực hiện đề  tài còn có những hạn 
chế sau đây:
Giáo viên chưa chủ  động và chưa linh hoạt trong việc tổ  chức giờ  học  
môn khám phá khoa học
          Môi trường cho trẻ hoạt động ở lớp cũng chưa phong phú [chưa có nơi  
nuôi một số  con vật cho trẻ  được làm quen]. Khám phá khoa học đòi hỏi độ 
chính xác cao nên trẻ cần được tham quan, trải nghiệm thực tế nhiều, trẻ cần  
được tri giác những con vật thật, đồ vật thật, cây cối, danh lam thắng cảnh…
nhưng nhà trường lại chưa có điều kiện để tổ chức cho trẻ đi tham quan, trải  
nghiệm thực tế còn ít.

7
Các cháu phần đông gia đình làm nông nên việc nhận thức để giáo dục 
con cái một cách khoa học là chưa cao. 
* Nguyên nhân chủ quan
Trình độ  nhận thức của các cháu không đồng đều. Các cháu chưa có các 
kỹ năng cơ bản như kỹ năng quan sát, kỹ năng so sánh, phân tích, tổng hợp…
Một số  trẻ  chưa qua lớp mầm, lớp chồi nên vẫn còn tự  do trong học tập và 
chơi, chưa mạnh dạn, tích cực trong các hoạt động. Trong lớp có một số  trẻ 
cá biệt, cháu không chú ý, mặt nhận thức của cháu hạn chế hơn nhiều so với  
trẻ khác. Dẫn đến thời gian hoạt động dành cho những cháu yếu hơi nhiều
Góc thiên nhiên còn nghèo, số  cây ít, loại cây chưa phong phú, đồ  chơi,  
đồ dùng còn ít, thiếu những hình ảnh đẹp, sinh động để trẻ quan sát
Cơ  sở  vật chất chưa thật sự đầy đủ, đồ  dùng phục vụ  tiết dạy còn rất 
nghèo nàn như những vật mẫu, những con vật thật, đồ  vật... Đồ  dùng để  trẻ 
thử nghiệm thực tế còn ít. Đồ  dùng, đồ  chơi, vật thật chưa đầy đủ, lớp học  
chưa có thiết bị để kết nối mạng phục vụ công tác giảng dạy trên máy tính. 
Bên cạnh đó việc sử dụng đồ dùng dạy học chưa khoa học, dẫn đến giờ 
học trẻ  ít tập trung chú ý nên hiệu quả  trên tiết học chưa cao. Vì vậy việc  
giúp trẻ  khám phá khoa học rất quan trọng vì môn học này giúp trẻ  tích luỹ 
một số vốn kiến thức sơ đẳng vận dụng trực tiếp vào cuộc sống hàng ngày  
của trẻ có cái nhìn về thế giới quan tươi đẹp và sinh động hơn cho tương lai 
trẻ sau này. 
* Nguyên nhân khách quan
Khuông viên sân trường chật hẹp, chưa có nhiều khu vực để  trẻ  quan  
sát, trải nghiệm. Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của  
con mình, chiều chuộng con thái quá, luôn bao bọc không để  con có cơ  hội  
trải nghiệm. Dẫn đến một số cháu thụ động, ỉ lại vào người khác không biết  
cách tự mày mò, tìm tòi khám phá,  giải quyết vấn đề.  
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
a. Mục tiêu của giải pháp 
Giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách sâu sắc và chính xác, không mang  
tính trừu tượng và khô khan. Phát triển cả  về  thể  chất lẫn tinh thần. Trẻ 
được hòa mình vào với thiên nhiên,   trẻ  được hít thở  không khí trong lành, 
vận động thoải mái giúp phát triển khả năng quan sát, ghi nhớ, chú ý.
Quá   trình đó giúp trẻ  tri giác, tiếp cận, khám phá, cô giáo có thể  vận 
dụng phối hợp nhiều phương pháp, biện pháp tùy theo mục đích sư phạm của 
những hoạt động dạy học. Phải thay đổi hình thức tổ chức hoạt động của trẻ 
để tránh tâm lí mệt mỏi thụ động và gây được ấn tượng mới hợp lí.
Giáo viên phải nắm  được phương pháp, biết lựa chọn phương pháp, 
8
biện pháp phù hợp với chủ đề, lứa tuổi. Dùng biện pháp mới giúp phát triển 
tư duy, ngôn ngữ củng cố các kỹ năng nhận thức của trẻ. Từ đó rèn khả năng 
tri giác, phân tích, so sánh tổng hợp ở trẻ
Tìm ra các giải pháp, biện pháp giúp trẻ  ham mê khám phá khoa học, từ 
đó nhằm phát triển tính sáng tạo và mở rộng vốn kiến thức cho trẻ, kích thích  
tính tò mò ham hiểu biết muốn khám phá và tìm hiểu thế giới xung quanh trẻ.
  Các biện pháp này sẽ  hình thành xúc cảm, tình cảm tích cực và kinh 
nghiệm cũng như kỹ năng sống cho trẻ và trẻ mong muốn bảo về gìn giữ môi 
trường xung quanh trẻ.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
Qua một thời gian tìm tòi, nghiên cứu tôi thấy rằng muốn gây được sự 
tập trung chú ý, sự  hứng thú tham gia tích cực vào các hoạt động khám phá, 
khơi dậy được trí tò mò, ham hiểu biết của trẻ thì phải dựa vào đặc điểm tâm 
sinh lý của trẻ để tìm ra những biện pháp phù hợp giúp trẻ học tốt môn khám  
phá khoa học và tôi đã đưa ra những biện pháp sau:
Biện pháp 1: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan
Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan để cho trẻ khám phá khoa học 
là một phương pháp rất phổ biến. Tuy nhiên nó cũng là phương pháp rất quan 
trọng trong việc giúp trẻ tiếp thu những kiến thức khoa học một cách dễ dàng 
nhất
     Nhận thức rõ tầm quan trọng của đồ dùng trực quan đối với tiết khám phá 
khoa học cho nên ngay từ  đầu năm học tôi mạnh dạn đề  xuất với ban giám  
hiệu nhà trường trang bị thêm cho các lớp các thiết bị đồ dùng dạy học như ti 
vi, bảng, tranh  ảnh lô tô, và một số  các mô hình mô phỏng để  phục vụ  dạy  
học. Thông qua những bộ phim hoạt hình ngắn sinh động và đẹp mắt, các bé 
sẽ  được tìm tòi, khám phá và trải nghiệm với những điều bé muốn biết về 
thế giới xung quanh kỳ thú.
       Khi lập kế  hoạch cho mỗi tiết học tôi đã rất chú ý tới cách thức truyền 
tải kiến thức với trẻ  đặc biệt đồ  dùng trực quan vừa phải mang tính thẩm 
mỹ, tính chính xác và sự sáng tạo từ đó kich thích được sự hứng thú, ham hiểu  
biết ở trẻ
Tôi luôn lưu ý tới việc sử dụng đồ đùng trực quan phải phù hợp với nội 
dung từng tiết dạy ngay từ khi lập kế hoạch cho mỗi tiết khám phá khoa học  
tôi luôn suy nghĩ và lựa chọn những đồ dùng trực quan sao cho trẻ dễ hiểu và 
thích thú đối với những tiết chủ  đề  về  môi trường xã hội thì tôi lựa chọn 
tranh, ảnh để dạy trẻ. Đối với những tiết về đồ dùng, đồ vật tôi sử dụng vật  
thật và đồ dùng đồ chơi bằng nhựa hoặc đồ chơi tự tạo


9
 Vì trẻ  mẫu giáo thường tư duy trực quan hình  ảnh, kinh nghiệm sống  
của trẻ còn ít nên tôi thường xuyên tận dụng các vật thật để dạy trẻ. Khi cho 
trẻ được tiếp xúc với vật thật thì tôi nhận thấy trẻ hứng thú và nắm bắt kiến  
thức một cách rõ ràng nhất.
Ví dụ: Khi tìm hiểu về quả soài tôi dùng quả soài thật cho trẻ quan sát  
và trải nghiệm: nhìn, sờ, nếm, ngửi …
Đây là quả gì? nhìn xem quả soài có hình dạng gì? Màu gì?
Hãy sờ xem vỏ của chúng có đặc điểm gì? muốn biết soài có mùi gì hãy 
đưa lên mũi ngửi xem nào…
Cuối cùng tôi cho trẻ nếm thử vị của soài sau đó hỏi trẻ về vị của soài  
[có trẻ  nói chua, trẻ  nói ngọt] từ  đó tôi giải thích “Qủa soài chưa chín có vị 
chua, còn quả  soài chín có vị  ngọt” khi được trải nghiệm thực tế  thì trẻ  đã  
nắm vững những kiến thức tôi muốn truyền đạt. Qua bài về  quả  soài tôi  
không những đã cho trẻ tìm hiểu một cách tổng quát về quả soài mà còn dạy 
trẻ biết lợi ích của soài đối với sức khỏe con người.
Việc sử dụng màn hình, máy chiếu cũng là một hình thức sử dụng trực  
quan vì vậy tôi thường xuyên sử  dụng tạo điều kiện để  cho trẻ  nắm kiến 
thức. Thông qua những cảnh quay, đoạn băng được đưa lên màn hình sẽ  tạo 
ra sự  thay đổi, sự  mới lạ  cho trẻ  vì tất cả  những sự  vật hiện tượng đều có  
thể chụp lại, quay lại để đưa lên màn hình cơ hội để trẻ khám phá những sự 
vật­ hiện tượng, con vật… mà trẻ khó có cơ hội tiếp xúc như: tìm hiểu động 
vật sống trong rừng, động vật sống dưới biển…
Phương tiện trực quan trong các hoạt động dạy và học rất đa dạng  
như: Đồ  dùng trực quan bằng vật thật: các con vật, một số  loại rau, …Các  
loại mô hình: mô hình sân bay, nhà ga...Các loại tranh ảnh, lô tô.
       Việc sử  dụng đồ  dùng trực quan phải được sử  dụng một cách linh hoạt  
và sáng tạo. Trong tiết dạy tôi không sử  dụng một loại đồ  dùng từ  đầu đến 
cuối cũng không sử dụng quá nhiều loại ôm đồm để trẻ khó hiều mà tôi phối  
hợp các loại đồ dùng trực quan sao cho phù hợp, linh hoạt từng phần sao cho  
trẻ không nhàm chán.
   Ví dụ: Trong tiết dạy cho trẻ tìm hiểu về một số loại hoa tôi có thể sử 
dụng một số  loại đồ  dùng như: Tranh lô tô, hoa thật, đồ  chơi, màn hình, mô  
hình kết hợp với nhau sao cho linh hoạt và phù hợp như  phần đầu giới thiệu 
bài cho trẻ đi thăm mô hình vườn rau với nhiều loại hoa, phần cung cấp kiến  
thức cho trẻ  quan sát các loại hoa thật, phần mở rộng cho trẻ xem trên màn 
hình một số  loại hoa khác, phần luyện tập cho trẻ  đi chơi trò chơi với hoa  
thật, tranh lô tô.



10
Việc kết hợp sử dụng linh hoạt các loại đồ dùng trực quan trong tiết học  
tôi thấy trẻ  hứng thú hơn mỗi khi học khám phá khoa học, kiến thức tôi  
truyền đạt vì thế mà dễ dàng và trẻ ghi nhớ hơn.
Biện pháp 2: Sử dụng các trò chơi thực nghiệm :
Trẻ  mầm non rất thích tìm hiểu và khám phá môi trường xung quanh. 
Trẻ  rất vui sướng khi được trực tiếp nhìn thấy hoặc tự tay mình làm các thí  
nghiệm rồi tự rút ra kết luận. Thông qua việc cho trẻ làm thí nghiệm, đòi hỏi 
trẻ phải sử dụng tích cực các giác quan. Chính vì vậy sẽ phát triển ở trẻ năng 
lực quan sát, khả  năng phân tích, so sánh, tổng hợp, nhờ  vậy khả  năng cảm 
nhận của trẻ nhanh nhậy, chính xác, những biểu tượng kết quả trẻ thu nhận  
được trở nên cụ thể và sinh động hấp dẫn hơn.
Ví dụ 1: Thí nghiệm về sự nảy mầm của hạt
* Mục tiêu:
       Trẻ  biết được cây cũng cần thức ăn ,ánh sáng và nước mới sinh trưởng 
được.
* Chuẩn bị:
          Một vài hạt đậu tương, đậu đen…2 Khay nhỏ, một ít đất, bình nước 
tưới.
*Tiến hành:
Ngâm hạt vào trong nước ấm từ 1 đến 2 tiếng sau đó lấy ra đặt hạt vào 
khay có sẵn đất. Đặt 1 khay nơi có ánh sáng mặt trời và cho trẻ  tưới nước  
hàng ngày. Khay còn lại đặt trong bóng tối và không tưới nước. Quan sát sau 3 
đến 4 ngày cây trong khay được tưới nước hàng ngày sẽ nảy mầm và lớn dần  
còn khay không tưới sẽ không nảy mầm. Lúc này hãy cho trẻ giải thích hiện  
tượng nảy mầm và không nảy mầm trên .
Vì trẻ mẫu giáo lớn nên tôi cho trẻ tự làm và nêu kết quả thực nghiệm  
của bản thân .
* Giải thích và kết luận:
   Cây nảy mầm được nhờ  được gieo xuống đất, có ánh sáng và tưới  
nước đầy đủ  và ngược lại cây mà không được chăm sóc đầy đủ  sẽ  không 
nảy mầm được.
Ví dụ 2: 
  * Mục tiêu:
         Cho trẻ hiểu với cùng mọt đồ dùng nhưng chọn đơn vị đo khác nhau thì 
kết quả cũng khác nhau


11
* Chuẩn bị: Một chai nhựa trong 1 lít, ba cốc nhựa to, nhỡ, nhỏ, thẻ số 
4, 5, 6
Lần lượt cho trẻ  đong nước bằng các cốc khác nhau rồi đổ  vào chai 
nhựa[ cốc to, nhỡ, nhỏ]
Sau mỗi lần đong ghi kết quả  lại, quan sát kết quả  các chai bằng các 
thẻ số
* Giải thích và kết luận:
          Sử  dụng cốc to đổ  nước vào chai sẽ  nhanh đầy hơn[ 4 cốc], sử  dụng 
cốc nhỡ phải đong 6 cốc, sử dụng cốc nhỏ sẽ lâu đầy hơn[ 8 cốc].
Ví dụ 3: Thí nghiệm về nước và các lớp chất lỏng
* Chuẩn bị: dầu ăn, nước lọc, si rô, cốc thủy tinh
Tiến hành: Cho trẻ  chọn một chất đổ  vào ly, tiếp theo chọn chất thứ 
hai, cuối cùng cho chất thứ ba vào
Cho trẻ  quan sát rút ra kết luận, lớp si rô nặng nhất nên  ở  dưới cùng, 
lớp dầu ăn nhẹ nhất nên ở trên cùng, và lớp nước ở giữa
Khi quan sát trẻ  hoạt động tôi thấy những biểu hiện trên trẻ  rất tích 
cực, trẻ  rất thích thú khi được quan sát hoặc thử  nghiệm những hoạt động 
khám phá. Trong quá trình quan sát trẻ tỏ ra nhanh nhẹn linh hoạt và phát triển 
nhiều vốn kinh nghiệm, vốn từ của trẻ trở nên phong phú hơn khả năng diễn 
đạt tổt hơn. Vì vậy chúng ta những giáo viên mầm non có nhiệm vụ  khuyến  
khích, tạo điều kiện giúp trẻ được khám phá, trải nghiệm
Tuy nhiên, nội dung và đối tượng cho trẻ  làm quen cần được chọn lọc,  
nội dung cho trẻ khám phá thử nghiệm đảm bảo cung cấp cho trẻ những kiến  
thức đơn giản, gần gũi và đặc biệt là phải an toàn về quy trình thực hiện 
Biện pháp 3: Tạo môi trường cho trẻ hoạt động
Hoạt động khám phá khoa học cho trẻ  được tổ  chức theo chủ  đề, nội 
dung của hoạt động xuất phát từ nhu cầu và hứng thú của trẻ. Để  tạo cơ hội  
cho trẻ được trải nghiệm tối đa trong hoạt động khám phá khoa học, giáo viên  
cần xây dựng môi trường cho trẻ hoạt động, đặc biệt môi trường ở góc thiên 
nhiên. Một môi trường hiệu quả  cho trẻ  khám phá khoa học không chỉ  giúp  
trẻ  củng cố  kiến thức mà còn phải giúp trẻ  phát triển năng lực khám phá và 
thái độ đối với hoạt động khám phá khoa học. 
Tôi xây dựng góc thiên nhiên có các cây xanh như trồng các loại hoa, cây 
cảnh... Góc thiên nhiên là nơi dành cho các hoạt động chăm sóc cây cối: Nhặt  
cỏ, bắt sâu, tưới nước, ngoài ra còn là nơi tìm đọc các loại sách về  thiên 
nhiên, các tranh ảnh về thế giới tự nhiên tạo cho trẻ có góc chơi rộng rãi với  
các nguyên vật liệu khác nhau để trẻ được trải nghiệm .
12
Tôi bố trí giá sách chủ yếu là sách về con vật, cây cối, hoa lá, quả hạt … 
để cho trẻ tìm hiểu. Tranh ảnh vừa tầm với của trẻ để trẻ có thể xem và đọc 
sách [có que chỉ  cho việc đọc sách]. Đọc sách theo từng chữ, từng dòng, tôi  
sắp xếp các hộp đựng vỏ cây khô hoa lá ép khô, các loại hạt… Có ngắn nhãn  
mác và hình  ảnh rõ ràng để  trẻ  rễ  nhận thấy, trẻ  được chơi và làm được 
những sản phẩm từ  những dồ  chơi  ấy. Ngoài ra tôi cũng dùng vỏ  hến,  ốc  
trai ,sò … vỏ trứng vệ sinh sạch sẽ  vừa làm đồ dùng, đồ chơi phong phú vừa  
rẻ tiền vừa dễ kiếm .
Biện pháp  4: Phương pháp lồng ghép khám phá khoa học vào các tiết  
học.
Trong dạy học không có môn nào học nào, không có phương pháp nào là  
duy nhất , bao quát các môn học, các phương pháp khác, mà để đạt được hiệu  
quả  giáo dục cần phải phối hợp lồng ghép giữa các lĩnh vực, các phương 
pháp mới có được hiệu quả  tốt nhất với người học. Hiểu được vấn đề   ấy 
trong các tiết dạy tôi thường xuyên lồng ghép khám phá khoa học vào trong 
các môn học khác như toán, âm nhạc, văn học, …
Ví dụ: trong hoạt động làm quen văn học trẻ  học bài thơ  “Hoa đào hoa  
mai”
Tôi cho trẻ quan sát hoa đào hoa mai thật đó hỏi trẻ:
      + Đây hoa gì? Nêu các đặc điểm của hoa đào, hoa mai?
      + Hoa đào, hoa mai nở vào mùa nào ?
      + Nêu cảm nhận của các con về những hoa đào và hoa mai?
      Sau khi trò chuyện, tìm hiểu về hoa đào hoa mai xong tôi giới thiệu với  
trẻ bài thơ nói về hai loại hoa này. Bài thơ “ Hoa đào, hoa mai”.
Qua tiết học làm quen văn học tôi đã giúp trẻ có thêm những hiểu biết 
về  đặc điểm và cảm nhận của trẻ  về  hoa đào hoa mai từ  đó trẻ  cảm thấy  
thích đọc thơ hơn, hứng thú hơn.
Các hoạt động tô màu, cắt dán, nối hình, … cũng có thể  tạo hứng thú 
giúp trẻ khám phá khoa học. Nếu cho trẻ tự khám phá trẻ  sẽ  tăng thêm phần  
hứng thú, kiến thức đến với trẻ  nhẹ  nhàng mà khắc sâu phù hợp với đặc 
điểm tâm sinh lý của trẻ.
Những tiết khám phá khoa học thường được quan niệm khô khan thì tôi 
luôn khéo léo lồng ghép tích hợp các môn khác như : Toán, âm nnhạc, tạo hình 
,văn học… để  trẻ  thêm hứng thú, ghi nhớ  tốt hơn, hiểu vấn đề  sâu và rộng 
hơn.
Câu đố  cũng là một hình thức được tôi sử  dụng để  lôi cuốn trẻ  vào  
hoạt động khám phá khoa học. Trẻ  sẽ  lắng nghe câu đố  suy nghĩ và trả  lời  
thật nhanh về câu đố đó 
13
Ví dụ  : Trong tiết dạy làm quen với động vật sống trong gia đình.
Tôi cho trẻ thi “ đố vui ” hai đội ra câu đố cho nhau và giải câu đố  đội 
bạn.
“ Đôi mắt long lanh
Màu xanh trong vắt
Chân có móng vuốt
Vồ chuột rất tài”
Là con gì ?
                               [ con mèo ]
“Thường nằm đầu hè
Giữ nhà cho chủ
Người lạ nó sủa
Người quen nó mừng”
                                [ con chó]
Như  vậy trẻ  được đố  những câu đố  rất vui vẻ  hào hứng, kích thích tư 
duy, làm phong phú vốn từ  và ngôn ngữ  mạch lạc... Trong tiết dạy tôi cũng  
lồng ghép toán sơ đẳng như khi làm quen với con cua, cô và trẻ cùng đếm số 
chân cua sau đó đọc câu đồng dao, bài hát về con cua, sự kết hợp ấy giúp tiết 
học không nhàm chán, khô khan mà còn giúp trẻ tìm hiểu được một cách tổng  
quát nhất về con cua .
  Biện pháp 5: Ứng dụng công nghệ thông tin vào các tiết dạy khám phá 
khoa học:
Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, sự phát triển của hệ thống 
mạng cùng với những tiện ích, ứng dụng phong phú đã tạo nên một cuộc cách  
mạng trong mọi người, mọi ngành và đặc biệt là giáo dục. Chính vì vậy ngay  
từ cấp học mầm non trẻ đã được làm quen với công nghệ  thông tin như một 
phần của hoạt động giáo dục không thể  thiếu. Không chỉ  với người lớn mà 
đối với trẻ em mầm non thì công nghệ thông tin luôn mang lại nhiều điều kì 
thú và hữu ích trong việc tiếp thu kinh nghiệm sống.
Hơn nữa trong việc giáo dục, truyền đạt kiết thức cho trẻ  không phải  
sự vật hiện tượng nào cũng có sẵn để trẻ  được trực tiếp tri giác, nhất là với  
hoạt động khám phá khoa học như  tìm hiểu động vật sống dưới biển, quan 
sát máy bay, các hiện tượng tự nhiên, …. , hay chúng ta không thể có thời gian  
để chứng kiến những hiện tượng trong tự nhiên xảy ra như tìm hiểu về cách  
sinh sản của một số loại vật nuôi, quá trình phát triển của cây…chính vì vậy 


14
để  trẻ  được tìm hiểu thế  giới xung quanh một cách bao quát nhất thì  ứng  
dụng công nghệ thông tin vào tiết học là một việc cần thiết.
Được  ưu thế  là một giáo viên trẻ  và có khả  năng sử  dụng công nghệ 
thông tin khá thành thạo tôi rất quan tâm và thường xuyên sử dụng công nghệ 
thông tin như các bài powerpoint vào các tiết học. Tôi nhận thấy khi sử dụng 
công nghệ  thông tin vào các tiết khám phá khoa học trẻ  tỏ  ra rất hào hứng, 
thích thú và cũng giúp trẻ nhận biết sự vật­ hiện tượng một cách rõ ràng hơn.
Ví dụ 1: Tìm hiểu về “Mưa có từ đâu?”
Tôi sử dụng bài powerpoint trình chiếu các quá trình tạo thành mưa [ánh 
nắng chiếu xuống mặt nước – Nước bốc hơi­ Tạo thành mây ­ Gió thổi mây 
thành đám nặng rồi rơi xuống thành mưa]
Sau khi tìm hiểu xong về quá trình tạo thành mưa tôi cho trẻ xem phim 
hoạt hình “Đám mây đen xấu xí” vừa là phim vừa đám ứng việc củng cố kiến 
thức về quá trình tạo thành mưa cho trẻ.
Thông qua việc trình chiếu và xem phim hoạt hình trẻ  vừa như  được 
giải trí và cũng là khi lượng kiến thức cần cung cấp cho trẻ  đảm bảo trọn 
vẹn với hình thức này.
Việc triển khai chuyên đề  công nghệ  thông tin trong trường mầm non  
Hoa Cúc được Ban giám hiệu và giáo viên rất quan tâm đặc biệt là đối với trẻ 
5­6 tuổi, các trò chơi thông minh trong “Vui học kidsmart” luôn làm trẻ tò mò 
và hứng thú. Biết được điều đó tôi thường xuyên tìm hiểu những trò chơi  
thông minh có liên quan tới chủ  đề, chủ  điểm mà trẻ  đang học vừa giúp trẻ 
thỏa mãn tính tò mò cũng như củng cố, mở rộng hiểu biết về bào học với trẻ 
hơn.
Ví dụ 2: Trò chơi “Tìm lá cho hoa” chủ đề Thế giới thực vật.
Cách chơi: Trên màn hình xuất hiện những hình  ảnh về  1 số  cành hoa 
bất kì sau đó biến mất chỉ  xuất hiện hoa và lá riêng rẽ  nhiệm vụ  của trẻ  di  
chuột sắp xếp hoa và lá lại thành một bông hoa có cành lá chính xác.
Khi trẻ đã chơi thành thạo tôi nâng cao trí nhớ cũng như sự nhanh nhẹn  
của trẻ bằng cách chỉnh thời gian xuất hiện hoa ban đầu nhanh hơn hoặc cao  
hơn nữa là không có sự  xuất hiện của cành hoa ban đầu mà đòi hỏi trẻ  phải  
có trí nhớ, kĩ năng từ  những lần chơi trước tự xếp lá cho hoa đúng theo yêu 
cầu.
Qua công nghệ thông tin từ một trò chơi tôi đã giúp trẻ có thêm kĩ năng 
sử dụng máy tính, đồng thời giúp trẻ củng cố, ghi nhớ bài học cho trẻ
Biện pháp 6: Nâng cao kỹ năng quan sát, so sánh và phân loại ở trẻ.



15
  Một trong những phương pháp quan trọng và không thể  thiếu đối với 
khám phá khoa học là quan sát, so sánh và phân loại. Hầu như ở tiết học khám  
phá nào trẻ cũng được rèn luyện các kỹ năng này.
Với mỗi đối tượng làm quen đầu tiên tôi sẽ  làm cho trẻ  bất ngờ  khi  
nhìn thấy, bằng nhiều hình thức như  đọc câu đố, hát bài hát có liên quan, đi 
tham quan mô hình hay là mở những ô cửa bí mật, những điều này sẽ giúp tôi 
lôi cuốn trẻ  vào hoạt động khám phá. Sau đó trẻ  sẽ  được quan sát đối tượng 
thật kỹ  có thể  đối tượng bằng tranh  ảnh hoặc là vật thật tùy theo đề  tài và 
điều kiện thực tiễn để  cho trẻ  quan sát vật thật. Khi quan sát trẻ  vừa được 
nhìn vừa được sờ  được ngửi thoải mái lúc này trẻ  sẽ  tri giác đối tượng kỹ 
nhất làm tiền đề cho việc so sánh và phân loại đối tượng một cách chính xác.
Ngoài giờ học hoạt động chung về môn khám phá khoa học ở trong lớp  
tôi còn kết hợp cho trẻ tham gia đi dạo chơi, tham quan, hoạt động ngoài trời. 
Trẻ được quan sát đối tượng trực tiếp và tôi sẽ  đưa ra các câu hỏi đàm thoại  
để trẻ so sánh và phân loại đối tượng nhằm phát huy khả năng sáng tạo và tư 
duy cho trẻ. 
Ví dụ : Cô và trẻ  quan sát vườn rau của trường có nhiều loại rau khác  
nhau như rau muốn, rau cải, cà chua…tôi hướng cho trẻ nhận biết hình dạng 
lá của từng loại rau, xem đó là loại rau ăn gì? cho trẻ tìm ra điểm giống nhau 
và khác nhau của các loại rau. Lúc này trẻ đang được quan sát thực tế các loại  
rau trẻ sẽ dễ dàng nhìn thấy đặc điểm nổi bật của đối tượng nên trẻ so sánh 
và phân loại rất nhanh
Dạo chơi thăm quan hoạt động ngoài trời, không những để  trẻ  khám 
phá thế giới xung quanh mình mà tôi còn giáo dục tình yêu thiên nhiên, ý thức  
bảo vệ môi trường. Tôi cũng luôn chú ý giáo dục bảo vệ môi trường. Với trẻ 
mặc dù kiến thức rất đơn giản như tạo cho trẻ thói quen vứt rác đúng nơi quy 
định, chăm sóc vườn rau bắt sâu cho rau và ý thức bảo vệ  môi trường xanh  
sạch đẹp.
Biện pháp 7: Bồi dưỡng cho những cháu yếu.
Để  chất lượng Giáo dục nâng lên bản thân tôi luôn tìm ra những biện  
pháp tối ưu để bồi dưỡng giúp đỡ trẻ yếu, những trẻ cá biệt.
Đối với trẻ  yếu tôi có kế  hoạch bồi dưỡng, dạy mọi lúc, mọi nơi và  
thường xuyên trao đổi trực tiếp với phụ huynh với nhiều hình thức. Với các  
trẻ này tôi thường xuyên quan tâm, chú ý hơn thường xuyên động viên khuyến  
khích trẻ nhất là trong các giờ học.
VD: Với đề tài : “ Một số con vật sống trong rừng”
Tôi trò chuyện với trẻ về những con vật sống trong rừng.
Con vật đó có đặc điểm gì?[ Cô chỉ cho trẻ dễ trả lời].

16
Tôi thường dành những câu hỏi dễ cho trẻ.
Đối với những trẻ  cá biệt tôi thường xuyên trò chuyện, gần gủi để  tạo 
niềm tin cho trẻ, động viên trẻ  cùng làm với bạn. Những lời động viên kịp 
thời có tác dụng rất nhiều khuyến khích trẻ  hứng thú tham gia các giờ  học  
sau.
Biện pháp 8:  Kết hợp với với phụ huynh.
Sự  quan tâm con cái của phụ  huynh đóng vai trò hết sức quan trọng và 
chủ  đạo bên cạnh cô giáo. Sự  phối hợp giữa gia đình và nhà trường luôn là 
nền móng vững chắc, nhằm chăm sóc và giáo dục trẻ  có sự  đồng nhất liên  
kết hơn. Để làm tốt tôi lên kế hoạch giảng dạy theo từng chủ đề tôi phôtô lên  
giấy A3 dán ở bảng biểu, hàng ngày tôi đón và trả trẻ để phụ huynh dễ dàng 
nhìn thấy, nhìn vào đó phụ huynh sẽ biết con mình hôm nay học những gì.
Bản thân đã làm tốt công tác tuyên truyền tới các bậc phụ  huynh như 
thông qua bảng tuyên truyền của lớp, trang trí những hình  ảnh của chủ  đề 
đang học một cách sinh động. Thường xuyên trao đổi về  tình hình sức khoẻ 
của trẻ, tình hình học tập của trẻ đặc biệt qua các buổi đón trả trẻ tôi đã trao 
đổi với các bậc phụ huynh về tình hình học tập của trẻ ở lớp, về các chủ đề 
chủ điểm trẻ đang học giúp phụ huynh nắm rõ từ đó có thể tạo điều kiện cho  
trẻ được trải nghiệm ở nhà, củng cố thêm kiến thức .
      Ví dụ:  Trong chủ đề “Thế giới thực vật” Hôm nay tôi cho trẻ làm Tìm  
hiểu về  sự  nảy mầm của cây. Trẻ  được tham gia trải nghiệm và thực hiện 
công việc xong do thực nghiệm cần thời gian trẻ mới thu được kết quả và có  
thể một số  trẻ  nghỉ, thông qua trao đổi với phụ  huynh phụ huynh nắm được 
từ đó tạo điều kiện cho trẻ được thực hiện việc gieo hạt  ở nhà, khi được cô  
thường xuyên hỏi thăm về sản phẩm thì trẻ  tỏ ra rất   hứng thú, khi chính trẻ 
thực hiện và khám phá.
  Nhận được kết quả  giúp trẻ  nhớ  hơn, hiểu và kích thích trí ham học  
hỏi.
Khám phá khoa học cần rất nhiều đồ dùng đồ chơi, đặc biệt là đồ dùng  
tự  tạo sẽ  góp phần phong phú tiêt học. Từ  đó vận động các bậc phụ  huynh  
cùng tham gia đóng góp thêm các loại đồ dùng như có phụ huynh đã sưu tầm  
các loại tranh  ảnh về  các con vật hoa quả, một số  danh lam thắng cảnh để 
ủng hộ, có bậc phụ huynh đã ủng hộ các cây cảnh, cây hoa và một số loại cây  
ăn quả để trồng ở vườn trường và góc thiên nhiên, vì phần lớn là trẻ em nông  
thôn nên đặc biệt các sẩn phẩm của nông nghiêp được phụ huynh ủng hộ rất 
nhiệt tình. Qua tìm hiểu về  nghề  nghiệp của bố  mẹ  trẻ  tôi đã nắm được 
nghề  của bố  mẹ  trẻ  từ  đó tôi có kế  hoạch gặp gỡ  và trao đổi nhờ  các bậc  
phụ  huynh sưu tầm những vật liệu hỏng bỏ  đi để  gom lại mang về  làm đồ 
chơi. Hàng ngày trước khi dạy một bài tìm hiểu nào tôi thường xuyên trao đổi 

17
với các bậc phụ  huynh về  bài học ngày hôm nay về  nhà các bậc phụ  huynh  
cùng trò chuyện với trẻ về bài học hoặc có thể cung cấp cho trẻ một số kiến  
thức để cho trẻ học tập tốt hơn.
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
Từ  những biện pháp và những giải pháp trên cho thấy chúng có mối 
quan hệ  chặt chẽ với nhau, đều hỗ trợ  cho nhau, một trong những biện pháp 
hay giải pháp không thực hiện thì quá trình thực hiện rời rạc và dẫn đến  kết  
quả  trên trẻ  đạt không cao. Các biện pháp này đan xen nhau và được xuyên  
suốt trong quá trình khám phá khoa học của trẻ sẽ giúp trẻ phát hiện ra những 
điều kì diệu mới mẻ trong môi trường xung quanh. Trẻ sẽ tích lũy được vốn 
sống qua đó hình thành các kỹ  năng kỹ  xảo trong học tập, vui chơi và lao 
động.
Để thực hiện thành công một tiết dạy, chúng ta cần vận dụng phối hợp  
các giải pháp, biện pháp một cách hài hòa, phù hợp với mục tiêu bài dạy đảm 
bảo được tính chính xác khoa học và lôgic giữa các giải pháp, biện pháp. Dù 
trẻ  tiếp cận biện pháp nào trước, biện pháp nào sau thì việc được tiếp cận  
các biện pháp đó cũng hỗ  trợ  cho nhau, cũng mang đến hiệu quả  cao trong 
nhận thức về môi trường xung quanh của trẻ
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Tôi đã vận dụng các biện pháp mới hướng dẫn trẻ  khám phá khoa học 
trong năm và kết quả đạt là trẻ khám phá khoa học có tiến bộ hơn so với đầu  
năm cụ thể hất lượng được đánh giá như sau:

Số  Kết quả
Nội dung lượn Tố Tỷ  Yế Tỷ 
g trẻ Tỷ lệ Khá Tỷ lệ TB
t lệ u lệ

Kỹ   năng   quan 
sát, so sánh, phân  37 34 91,9% 3 8,1% 0 0
loại

Phát   hiện   cái 
mới lạ và có thái 
37 35 94,6% 2 5,4% 0 0
độ   hành   động 
phù hợp

Biết dùng câu có  37 32 86,5% 4 10,8% 1 2,7%
nghĩa đầy đủ, rõ 
ràng   mạch   lạc, 
diễn   đạt   sáng 
18
tạ o

Có kỹ  năng sống 
và khả  năng giao  37 37 100%
tiếp tốt

* Đối với cô.
Bản thân tôi đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm nhiều trong việc lựa  
chọn các trò chơi, các hình thức phong phú và đặc biệt tạo cho trẻ  các tình 
huống hấp, dẫn lôi cuốn trẻ  vào hoạt động tích cực, có hiệu quả  mà không  
thấy nhàm chán khi tham gia vào các hoạt động.
Giáo viên thực sự  yêu nghề  mến trẻ, có năng lực sư  phạm, nắm chắc 
chuyên môn. 
Có sự hiểu biết về kỹ năng dạy trẻ môn khám phá khoa học
Có sự sáng tạo trong mỗi tiết dạy, luôn có sự đổi mới trong phương pháp 
dạy trẻ. 
*Đối với trẻ.
Trẻ chủ động tham gia vào các hoạt động khám phá, điều đáng nói ở đây 
trẻ  thường xuyên thảo luận cùng nhau, đưa các câu hỏi đố  nhau khi bắt gặp  
một hiện tượng lạ và một đối tượng nào đó và đặc biệt hỏi cô vì sao lại như 
vậy hả cô...
Trẻ  hoàn toàn chủ  động trong các buổi thực hành và là một thành viên 
tuyên truyền đến gia đình trong việc ăn uống hợp vệ  sinh và thực hiện tốt 
luật an toàn giao thông. Trẻ  có thái độ  đúng đắn với môi trường sống xung  
quanh trẻ, có lòng mong muốn tạo ra cái đẹp và bảo vệ môi trường sống xung  
quanh trẻ.
*Đối với phụ huynh.
Đa số các bậc phụ huynh có sự nhìn nhận đúng đắn, tầm quan trọng của  
môn học.
Phụ huynh nhiệt tình trong việc cùng cô kiếm vật liệu, làm đồ  dùng đồ 
chơi...
Đặc biệt phụ huynh biết cách ôn luyện kiến thức, cùng trẻ  quan sát các  
đối tượng có hiệu quả.
       III. Phần kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
Việc dạy trẻ  môn “Khám phá khoa học” là một trọng tâm trong những 
nội dung lớn của chương trình giáo dục cho trẻ Mầm non. Nhằm phát triển trí  
19
tuệ và hình thành nhân cách góp phần toàn diện cho trẻ, đặc biệt trẻ 5 ­ 6 tuổi  
chuẩn bị kỹ năng sống cho cho trẻ ở phổ thông.
Việc làm này rất có ý nghĩa  đối với các trường Mầm non mà đồi hỏi các 
giáo viên Mầm non cần nắm vững những nội dung chương trình và thường 
xuyên mở rộng nội dung chương trình. 
Ngoài việc cung cấp cho trẻ  những kiến thức, kỹ  năng mới còn phải 
thường xuyên tổ chức cho trẻ luyện tập bằng các biện pháp phù hợp nhằm ôn 
luyện, củng cố và nâng cao  hiểu biết về thế giới xung quanh. 
Chính vì vậy việc nghiên cứu tìm tòi những biện pháp dạy học để  có 
hiệu quả  hỗ  trợ  phương pháp trong việc giúp giáo viên nâng cao chất lượng 
môn “Khám phá khoa học” là cần thiết đối với giáo viên mầm non.
Để  gây được hứng thú cho trẻ  và nâng cao chất lượng dạy và học của 
hoạt động “Khám phá khoa học”, trước hết đòi hỏi người giáo viên phải nắm 
được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ trong độ tuổi này.
Nắm được sự  đổi mới của chương trình giảng dạy, bên cạnh đó giáo  
viên cần phải học tập qua các l

Page 2

YOMEDIA

Sáng kiến kinh nghiệm "Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi học tốt môn khám phá khoa học" với mục tiêu nhằm tìm ra một số biện pháp nhằm giúp trẻ lớp lá 2 trường mầm non Hoa Cúc học tốt môn khám phá khoa học, nâng cao chất lượng giờ dạy khám phá khoa học. Tìm hiểu khả năng tiếp thu kiến thức về thế giới xung quanh của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, từ đó đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho trẻ khám phá môi trường xung quanh một cách tốt nhất.

02-05-2018 2405 49

Download

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Video liên quan

Chủ Đề