So sánh điều ước quốc tế và luật quốc gia

So sánh điều ước quốc tế và tập quán quốc tế: Điều ước quốc tế và tập quán quốc tế mặc dù là hai nguồn của Luật quốc tế nhưng chúng có một số điểm giống và khác nhau. Mặc dù có sự khác biệt nhưng điều ước quốc tế và tập quán quốc tế có mối liên hệ với nhau và tác động qua lại mang tính biện chứng…

1. Những điểm giống nhau giữa Điều ước quốc tế và Tập quán quốc tế

Điều ước quốc tế và tập quán quốc tế giống nhau ở 04 điểm chính:

1.1. Về chủ thể

Chủ thể của điều ước quốc tế và tập quán quốc tế đều là chủ thể của luật quốc tế. Chủ thể ký kết và thực hiện điều ước quốc tế về phương diện pháp luật quốc tế là các quốc gia độc lập có chủ quyền, các tổ chức quốc tế liên chính phủ, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết và các vùng lãnh thổ có quy chế pháp lý đặc biệt.

1.2. Về nội dung

Cả điều ước quốc tế và tập quán quốc tế đều chứa đựng các quy tắc xử sự có chức năng điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể của luật quốc tế.

1.3. Về cơ sở hình thành

Điều ước quốc tế và tập quán quốc tế đều hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa các chủ thể của Luật quốc tế. Thỏa thuận chính là bản chất của luật quốc tế, trên cơ sở cân nhắc về lợi ích của chính mình mà các chủ thể của Luật quốc tế ký kết, tham gia các điều ước quốc tế, cũng như áp dụng một tập quán quốc tế nào đó. Tuy nhiên, nếu có sự thỏa thuận để ký kết các điều ước quốc tế luôn là sự thỏa thuận trực tiếp, thông qua quá trình đàm phán, ký kết giữa các chủ thể luật quốc tế thì thỏa thuận thừa nhận các quy tắc tập quán quốc tế là sự thỏa thuận “ngầm” và được mặc nhiên thừa nhận trong thực tiễn quan hệ quốc tế.

1.4. Về hiệu lực pháp lý

Khi đã được các chủ thể của luật quốc tế ký kết hoặc thừa nhận áp dụng để điều chỉnh các quan hệ quốc tế thì điều ước quốc tế và tập quán quốc tế đều có hiệu lực pháp lý bắt buộc đối với các chủ thể của luật quốc tế..

2. Những điểm khác nhau giữa Điều ước quốc tế và Tập quán quốc tế

Điều ước quốc tế và tập quán quốc tế khác biệt ở 03 điểm chính:

2.1. Về phương thức hình thành

Nếu điều ước quốc tế được hình thành dựa trên sự thỏa thuận, bình đẳng của hai hay nhiều chủ thể của Luật quốc tế thông qua quá trình đàm phán, ký kết rất chặt chẽ gồm đàm phán, soạn thảo và thông qua văn bản điều ước, ký, phê chuẩn hoặc phê duyệt thì tập quán quốc tế ra đời thông qua quá trình hình thành áp dụng lâu dài, ổn định và thống nhất.

Tập quán quốc tế có nguồn gốc đa dạng. Nó có thể được hình thành từ nghị quyết của tổ chức quốc tế, từ tiền lệ, từ các hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia, từ thực tiễn thực hiện điều ước quốc tế phổ cập chứa đựng các quy phạm luật quốc tế chung, có sự tham gia của đại đa số các quốc gia trên thế giới.

2.2. Về hình thức

Nếu hình thức của Điều ước quốc tế là văn bản – nguồn thành văn, các công ước, hiệp ước, hiệp định, hòa ước, thỏa tước, nghị định thư, hiến chương, quy chế,…

Thì Tập quán quốc tế chủ yếu lại là những quy tắc xử sự “bất thành văn” . Mặt khác, tập quán quốc tế cũng có thể là những quy tắc xử sự được ghi nhận trong một số văn kiện, được các quốc gia không phải là thành viên thừa nhận hiệu lực pháp lý bắt buộc đối với mình với tư cách là tập quán pháp lý quốc tế.

2.3. Về giá trị áp dụng

Về phương diện lý luận, điều ước quốc tế và tạp quán quốc tế đều có giá trị pháp lý như nhau. Tuy nhiên, áp dụng loại quy phạm nào của luật quốc tế là tùy thuộc vào từng lĩnh vực và từng mối quan hệ cụ thể, từng sự ràng buộc cụ thể có tính chất pháp lý của mỗi quốc gia với loại quy phạm đó.

Trong thực tiễn quan hệ giữa các quốc gia, đôi khi xuất hiện trường hợp một quan hệ xã hội cụ thể lại được điều chỉnh bởi cả quy phạm điều ước và quy phạm tập quán. Trong trường hợp này, các chủ thể của luật quốc tế sẽ áp dụng quy phạm điều ước hay quy phạm tập quán? Về vấn đề này từ trước đến nay chưa có quan điểm thống nhất.

Trong thực tiễn các quốc gia thường ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế. Bởi lẽ, mặc dù điều ước quốc tế và tập quán quốc tế đều là nguồn cơ bản của luật quốc tế song ý chí của các chủ thể luật quốc tế thể hiện trong điều ước quốc tế thể hiện rõ ràng hơn, minh bạch hơn và ở mức độ ràng buộc trách nhiệm pháp lý cao hơn so với ý chí thể hiện trong tập quán quốc tế.

Mặt khác, điều ước quốc tế là những quy phạm thành văn do các bên trực tiếp thỏa thuận xây dựng nên bằng một trình tự pháp lý rất chặt chẽ nên các quyền và nghĩa vụ của các bên được quy định một cách cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện so với các quy phạm tập quán. Hơn nữa, trong quá trình thực hiện các điều ước quốc tế, các quốc gia có thể thỏa thuận sửa đổi, bổ sung và bãi bỏ điều ước quốc tế đã ký kết trên cơ sở phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của các bên. Cuối cùng, trong quá trình thực hiện điều ước quốc tế nếu phát sinh tranh chấp thì chính văn bản điều ước quốc tế là chứng cứ pháp ly có giá trị thuyết phục để giải quyết tranh chấp trước các cơ quan tài phán quốc tế [trong trường hợp các quốc gia lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng Tòa án Công lý quốc tế hoặc trọng tài quốc tế]. Từ những phân tích ở trên, có thể kết luận rằng, điều ước quốc tế có giá trị áp dụng để điều chỉnh quan hệ quốc tế ưu thế hơn so với tập quán quốc tế.

Mặc dù có những khác biệt nêu trên nhưng điều ước quốc tế và tập quán quốc tế có mối liên hệ, tác động qua lại mang tính biện chứng. Điều này thể hiện qua sự phát triển của luật quốc tế, với nhiều quy phạm tập quán được thay thể hoặc phát triển thành quy phạm điều ước. Cụ thể, trong quá trình xây dựng các điều ước quốc tế có rất nhiều các quy phạm tập quán được các nhà làm luật tập hợp và pháp điển hóa thành các quy phạm điều ước.

Ví dụ: Các qui định về chế độ “đi qua không gây hại” của tàu thuyền nước ngoài trong vùng nội thủy theo Công ước về Luật Biển của LHQ năm 1982; Các quy định về ngoại giao và lãnh sự tại các điều ước quốc tế đều có nguồn gốc hình thành từ các tập quán quốc tế.

Ngược lại, điều ước quốc tế cũng tác động và ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của tập quán quốc tế. Sự tác động này thường xuất phát từ các điều ước quốc tế phổ cập.

Ví dụ: Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982, Công ước Vienna năm 1961 về quan hệ ngoại giao, Công ước Vienna năm 1963 về quan hệ lãnh sự,… được đại đa số các quốc gia tham gia nhưng cũng còn một số quốc gia không tham gia hoặc chưa tham gia [quốc gia thứ ba]. Thực tế cho thấy, các quốc gia thứ ba này thường sẽ vận dụng các quy phạm điều ước quốc tế và coi đó là những quy phạm pháp lý ràng buộc với mình như là những tập quán quốc tế./.

Nguồn: Fanpage Luật sư Online – iluatsu.com

Bài viết phân tích Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia, phân tích cơ sở và nội dung của Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia.

Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia

Xuất phát từ hai chức năng cơ bản của nhà nước là chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Để thực hiện chủ quyền quốc gia trong phạm vi lãnh thổ, quốc gia phải sử dụng công cụ đến công cụ pháp lý cơ bản là pháp luật quốc gia, trong quan hệ quốc tế quốc gia phải sử dụng luật quốc tế. Mối quan hệ chặt chẽ giữa hai chức năng này là cơ sở đầu tiên để hình thành nên mối quan hệ chặt chẽ giữa luật quốc gia và luật quốc tế.

Sự có mặt của quốc gia trong cả quá trình ban hành và xây dựng luật quốc gia và luật quốc tế. Cụ thể:

+ Trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, với tư cách là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, nhà nước có quyền ban hành pháp luật và bảo đảm thực thi pháp luật trong đời sống. PLQG do nhà nước ban hành nên luôn có tính giai cấp, trước hết là phản ánh quan điểm và đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền.

+ Trong quan hệ quốc tế, nhà nước đại diện cho quốc gia tham gia vào quá trình xây dựng PL quốc tế. Mỗi quốc gia đều tận dụng mọi cơ hội và tìm mọi cách để lợi ích của quốc gia mình được thể hiện ở mức cao nhất. Chính vì vậy, PLQT mặc dù không do 1 QG ban hành song nó vẫn thể hiện được ý chí và bảo vệ lợi ích của quốc gia, mà cụ thể là ý chí và lợi ích của giai cấp cầm quyền trong QG đó.  

Cả PLQG và PL QT đều thể hiện ý chí và lợi ích của giai cấp cầm quyền của mỗi QG. Do đó PLQT và PLQG gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội và cộng đồng QG đó.

– Bắt nguồn từ sự thống nhất về vai trò của 2 hệ thống PL: Đều là cơ sở để thiết lập, tăng cường quyền lực nhà nước; cơ sở để quản lý kinh tế, xã hội; đều góp phần tạo dựng những quan hệ mới và tạo môi trường ổn định để thiết lập, duy trì và phát triển các quan hệ quốc tế.

– Trong luật quốc tế tồn tại nguyên tắc Pacta sunt servanda, nguyên tắc này đặt ra nghĩa vụ cho các quốc gia khi tham gia vào quá trình xây dựng và thực hiện điều ước quốc tế, các quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng triệt để và thực hiện nghiêm chỉnh điều ước đó. Pháp luật quốc gia ban hành, ngoài việc bảo đảm sự bình đẳng và thực hiện chủ quyền quốc gia còn phải phù hợp với các cam kết quốc tế.

VD: Việt Nam gia nhập WTO, phải có nghĩa vụ nội luật hóa pháp luật trong nước, đảm bảo sự phù hợp với các chuẩn mực trong các cam kết quốc tế của WTO.

Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia bao gồm 2 nội dung chính:

Thứ nhất, Luật quốc gia ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển, quá trình xây dựng và thực hiện luật quốc tế.

 Trong quá trình xây dựng LQT, các QG luôn cố gắng tận dụng mọi cơ hội để gây ảnh hưởng đến LQT và bảo vệ lợi ích của mình 1 cách tốt nhất trong mối tương quan với lợi ích của QG khác và lợi ích chung của CĐQT. Do đó, quá trình xây dựng LQT phải xuất phát từ lợi ích của mỗi QG. Đồng thời, sự hình thành các NT và QUY PHẠM PHÁP LUẬT QUỐC TẾ hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các QG, mà quan điểm của mỗi QG trong quá trình thỏa thuận thương lượng đó phải dựa trên những NT và quy phạm nền tảng của QG mình. Chính vì thế, PLQG thể hiện sự định hướng đến quá trình xây dựng LQT.

 VD: Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng VL trong QHQT; NT quyền dân tộc tự quyết đều bắt nguồn từ NT Cấm chiến tranh xâm lược lần đầu tiên được ghi nhận trong Sắc lệnh Hòa bình của LX năm 1917.

 PLQG là đảm bảo pháp lý quan trọng để các NT, QUY PHẠM PHÁP LUẬT QUỐC TẾ được thực hiện trong phạm vi lãnh thổ QG. Bởi nghĩa vụ của mỗi QG khi tham gia quan hệ QT là phải bảo đảm thực hiện LQT trong phạm vi LT QG mình. Bằng nhiều cách khác nhau, các QUY PHẠM PHÁP LUẬT QUỐC TẾ sẽ được chuyển hóa thành QPPLQG và có hiệu lực trong phạm vi LTQG.

VD: LQT: có Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989. Năm 1991, Việt nam đã ban hành Luật bảo vệ trẻ em nhằm pháp điển hóa các quy định của lật quốc tế vào pháp luật quốc gia.

Thứ hai, LQT có tác động đến sự phát triển và hoàn thiện của LQG.

+ Luật quốc tế tác động trở lại đối với sự hình thành và phát triển của luật trong nước. Điều này thể hiện ở chỗ: khi tham gia các quan hệ QT, các quốc gia phải có nghĩa vụ xây dựng hoặc sửa đổi, bổ sung pháp luật trong nước sao cho đảm bảo phù hợp với các cam kết quốc tế mà quốc gia là thành viên. Chính vì vậy, các quy định có nội dung tiến bộ của LQT sẽ dần được truyền tải vào trong PLQG.

+ LQT còn tạo điều kiện đảm bảo cho PLQG trong quá trình thực hiện. Cụ thể hiện nay, có nhiều vấn đề đã vượt qua khỏi phạm vi điều chỉnh của QG, trở thành vấn đề toàn cầu, tự bản thân mỗi QG không thể giải quyết được mà cần có sự hợp tác quốc tế [VD: vấn đề môi trường, tội phạm quốc tế, vũ khí hạt nhân…]. Vì vậy, các QG đã cùng nhau ký hàng loạt ĐUQT để cùng nhau hợp tác giải quyết các VĐ đó như: HU NewYork về cấm thử hoàn toàn vũ khí hạt nhân; Quy chế Rome năm 1998 về thành lập Tòa hình sự QT ICC…. Chính những QUY PHẠM PHÁP LUẬT QUỐC TẾ trong các ĐUQT này sẽ là điều kiện để đảm bảo cho việc thực hiện các QP tương ứng của PLQG.

 QPPLQT được ưu tiên áp dụng bởi 2 lý do:

+ Luật quốc tế hình thành từ sự thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các chủ thể. QG khi tham gia QHQT thì phải xử sự phù hợp với các cam kết và nghĩa vụ QT của mình; CU Viên 1969 về Luật ĐUQT cũng quy định QG không được viện dẫn các quy định của PL trong nước để biện hộ cho việc không thi hành cam kết.

+ GT ưu tiên thi hành của QPPLQT còn được ghi nhận trong các VBPLQG.

Giữa các QG sẽ có cách giải quyết khác nhau. Ví dụ: Hiến pháp của Pháp quy định: ưu tiên áp dụng các QĐ của ĐUQT. Nếu ĐUQT mà Pháp tham gia >< với HP thì Pháp phải tu chính HP của nước mình.

Việt Nam: theo Luật ĐUQT 2016, rất khó để ĐUQT >< với HP hay các đạo luật khác của VN vì quá trình đàm phán, thẩm định, ký kết..diễn ra rất chặt chẽ và chỉ có hiệu lực nếu VN phê chuẩn.

Bài viết cùng chủ đề:

Phân tích các loại quy phạm pháp luật quốc tế, cho ví dụ

Công nhận quốc tế là gì ? [khái niệm, hình thức, phương pháp, hệ quả pháp lý]

Trên đây là tư vấn của luatthanhmai về chủ đề Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia, cho ví dụ. Nếu có thắc mắc hay vấn đề cần được tư vấn vui lòng liên hệ email: để được luật sư tư vấn hỗ trợ miễn phí.

Video liên quan

Chủ Đề