Sự khác biệt về kinh tế giữa nhóm nước phát triển và đang phát triển là dựa vào

Sự khác biệt giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển

  • 2019

Các quốc gia được Liên Hợp Quốc chia thành hai loại chính, đó là các nước phát triển và các nước đang phát triển. Việc phân loại các quốc gia dựa trên tình trạng kinh tế như GDP, GNP, thu nhập bình quân đầu người, công nghiệp hóa, mức sống, v.v. Các quốc gia phát triển đề cập đến nhà nước có chủ quyền, nền kinh tế có tiến bộ cao và sở hữu cơ sở hạ tầng công nghệ tuyệt vời, so với đến các quốc gia khác.

Các quốc gia có công nghiệp hóa thấp và chỉ số phát triển con người thấp được gọi là các nước đang phát triển . Các quốc gia phát triển cung cấp không khí tự do, lành mạnh và an toàn để sống trong khi các nước đang phát triển, thiếu những điều này.

Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng về hai loại này, chúng tôi đã biên soạn sự khác biệt giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển xem xét các thông số khác nhau, ở dạng bảng.

Biểu đồ so sánh

Cơ sở để so sánhCác nước phát triểnCác quốc gia phát triển
Ý nghĩaMột quốc gia có tỷ lệ công nghiệp hóa và thu nhập cá nhân hiệu quả được gọi là Quốc gia phát triển.Quốc gia đang phát triển là quốc gia có tốc độ công nghiệp hóa chậm và thu nhập bình quân đầu người thấp.
Thất nghiệp và nghèo đóiThấpCao
GiáTỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, tỷ lệ tử vong và tỷ lệ sinh thấp trong khi tỷ lệ sống cao.Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh cao, tỷ lệ tử vong và tỷ lệ sinh, cùng với tỷ lệ tuổi thọ thấp.
Điều kiện sốngTốtVừa phải
Tạo thêm doanh thu từKhu công nghiệpKhu vực dịch vụ
sự phát triểnTăng trưởng công nghiệp cao.Họ dựa vào các nước phát triển để phát triển.
Tiêu chuẩn của cuộc sốngCaoThấp
Phân phối thu nhậpCông bằngBất bình đẳng
Các yếu tố sản xuấtSử dụng hiệu quảSử dụng không hiệu quả

Định nghĩa về các nước phát triển

Các quốc gia phát triển là những quốc gia được phát triển về kinh tế và công nghiệp hóa. Các quốc gia phát triển còn được gọi là các quốc gia tiên tiến hoặc các quốc gia đầu tiên trên thế giới, vì họ là các quốc gia tự cung tự cấp.

Thống kê Chỉ số Phát triển Con người [HDI] xếp hạng các quốc gia trên cơ sở phát triển của họ. Quốc gia có mức sống cao, GDP cao, phúc lợi trẻ em cao, chăm sóc sức khỏe, y tế, giao thông, truyền thông và giáo dục tốt, điều kiện sống và nhà ở tốt hơn, công nghiệp, cơ sở hạ tầng và công nghệ, thu nhập bình quân đầu người cao hơn, tăng trong tuổi thọ, vv được gọi là Quốc gia phát triển. Các quốc gia này tạo ra nhiều doanh thu từ khu vực công nghiệp so với khu vực dịch vụ vì họ đang có một nền kinh tế hậu công nghiệp.

Sau đây là tên của một số quốc gia phát triển: Úc, Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Hoa Kỳ.

Định nghĩa về các nước đang phát triển

Các quốc gia đang trải qua các cấp độ phát triển công nghiệp ban đầu cùng với thu nhập bình quân đầu người thấp được gọi là các nước đang phát triển. Những nước này thuộc thể loại của các nước thế giới thứ ba. Họ cũng được gọi là các nước phát triển thấp hơn.

Các nước đang phát triển phụ thuộc vào các nước phát triển, để hỗ trợ họ thành lập các ngành công nghiệp trên cả nước. Đất nước có Chỉ số phát triển con người [HDI] thấp, tức là đất nước không có môi trường sống lành mạnh và an toàn, Tổng sản phẩm quốc nội thấp, tỷ lệ mù chữ cao, giáo dục, giao thông, cơ sở y tế kém, nợ chính phủ không bền vững, phân phối không công bằng thu nhập, tỷ lệ tử vong và tỷ lệ sinh cao, suy dinh dưỡng cho cả mẹ và trẻ sơ sinh, trong đó có tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh cao, điều kiện sống kém, tỷ lệ thất nghiệp và nghèo đói cao.

Sau đây là tên của một số nước đang phát triển: Trung Quốc, Colombia, Ấn Độ, Kenya, Pakistan, Sri Lanka, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ.

Trắc nghiệm Địa Lí 11 Bài 1 [có đáp án]: Sự tương phản về trình độ phát triển kinh tế - xã hội [phần 1]

NộI Dung:

  • Biểu đồ so sánh
  • Định nghĩa các nước phát triển
  • Định nghĩa các nước đang phát triển
  • Sự khác biệt chính giữa các nước phát triển và đang phát triển
  • Phần kết luận

Các quốc gia được Liên hợp quốc chia thành hai loại lớn, đó là các nước phát triển và các nước đang phát triển. Việc phân loại các quốc gia dựa trên tình trạng kinh tế như GDP, GNP, thu nhập bình quân đầu người, công nghiệp hóa, mức sống, v.v. Các nước phát triển đề cập đến nhà nước soverign, có nền kinh tế phát triển cao và sở hữu cơ sở hạ tầng công nghệ tuyệt vời, so với các quốc gia khác.

Các nước có nền công nghiệp hóa thấp và chỉ số phát triển con người thấp được gọi là các quốc gia phát triển.

Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng về cả hai, chúng tôi đã tổng hợp sự khác biệt giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển dựa trên các tham số khác nhau, dưới dạng bảng.

Sự khác biệt giữa các nước phát triển và đang phát triển | Phát triển với các nước đang phát triển

Sự khác biệt giữa các nước phát triển và đang phát triển là gì? Các nước phát triển thể hiện mức độ phát triển cao nhưng các nước đang phát triển lại không có.

Sự khác biệt giữa tăng trưởng và phát triển Sự khác biệt giữa sự phát triển và sự phát triển của

Khác với những gì mà hầu hết mọi người nghĩ, sự phát triển và tăng trưởng là hai điều khác nhau. Không phải là người tiền nhiệm hoặc người phụ thuộc của người kia. Và

Sự khác biệt giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển [có biểu đồ so sánh]

Có một số khác biệt giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển được thảo luận ở đây, cả ở dạng bảng và theo điểm. Các nước phát triển khép kín và phát triển mạnh mẽ trong khi các nước đang phát triển đang nổi lên như một quốc gia phát triển.

Mục lục

Đo lường và khái niệm phát triểnSửa đổi

Sự phát triển của một đất nước được đo đạc bằng các chỉ số thống kê như tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người [GDP/người], tuổi thọ trung bình, tỷ lệ người biết chữ, v.v. Liên hợp quốc xây dựng Chỉ số phát triển con người, một chỉ số tổng hợp của các thống kê trên để xác định mức độ phát triển con người ở mỗi quốc gia.

Nước đang phát triển, nói chung, là các quốc gia có mức sống thấp, chưa đạt được mức độ công nghiệp hóa và GDP danh nghĩa tương xứng với quy mô dân số. Có một sự tương quan chặt chẽ giữa mức thu nhập bình quân đầu người thấp với sự gia tăng dân số nhanh chóng, kể cả giữa các quốc gia và giữa các nhóm dân cư trong một quốc gia.

Thuật ngữ "nước đang phát triển" nhiều khi được thay thế bởi một số tên gọi khác, ví dụ như: "nước kém phát triển", "nước chậm phát triển", "nước nông nghiệp", "Thế giới thứ ba", "Nam bán cầu", thậm chí "nước kém phát triển nhất",...

Nguyên nhân của sự kém phát triểnSửa đổi

Có nhiều học thuyết phát triển và kinh tế lý giải nguyên nhân của sự kém phát triển nhưng không có một sự thống nhất rõ ràng.

Xã hộiSửa đổi

  • Thái độ và năng lực bản thân:
  • Thái độ và nền văn hóa.
  • Năng lực và lối ứng xử của tầng lớp lãnh đạo xã hội.
  • Tỷ lệ mang thai và sinh đẻ cao.
  • Cơ cấu và các định chế pháp luật:
  • Luật pháp không được thực thi nghiêm minh.
  • Tha hóa, tham ô của giới công chức.
  • Vai trò và vị trí của quốc gia trong tiến trình văn hóa, lịch sử.

Kinh tế và chính trịSửa đổi

  • Sự hoang hóa của đất đai và tàn phá các nguồn lực kinh tế bởi xung đột quân sự.
  • Xung đột, bất ổn chính trị hoặc xã hội kéo dài.
  • Kìm kẹp tự do kinh tế.
  • Thiếu biện pháp bảo vệ những ngành công nghiệp còn non trẻ.
  • Sự bóc lột của các nước phát triển.
  • Nền kinh tế đóng cửa và thiếu quyết tâm mở rộng giao lưu với thế giới bên ngoài.
  • Quản lý ngặt nghèo, mức thuế nặng nề, không khuyến khích đầu tư.
  • Giáo dục và thông tin không được quan tâm thích đáng.
  • Thiếu sự thúc đẩy, can thiệp của chính phủ để phát triển kinh tế.

Phân loại các nhóm quốc giaSửa đổi

Các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới thường được xếp vào 5 nhóm lớn như sau:

  1. Các nước công nghiệp phát triển cùng các cường quốc công nghiệp phát triển với kỹ nghệ tiên tiến, thu nhập bình quân đầu người cùng chỉ số phát triển con người luôn duy trì ở mức từ cao đến rất cao: Nhóm G7: Mỹ, Anh, Pháp, Ý, Đức, Nhật Bản, Canada, Liên minh châu Âu [EU]. 4 con Rồng kinh tế châu Á: Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore. Khu vực Trung Đông - Vùng Vịnh: Israel, UAE, Qatar, Oman, Bahrain, Kuwait. Đặc khu hành chính Ma Cao [Trung Quốc]. Hai nước thuộc Châu Đại Dương: Úc, New Zealand.
  2. Các nước mới công nghiệp hóa - đây là nhóm quốc gia đã cơ bản hoàn thành quá trình công nghiệp hóa, xếp sau các nước phát triển nhưng đứng trên các nước nông nghiệp đang phát triển, chỉ số kinh tế - xã hội duy trì ở mức trung bình đến cao bao gồm: các quốc gia thuộc G-20: Argentina, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Phi, México, Nga, Trung Quốc, Brasil, Ả Rập Xê Út, Liban, khu vực Đông Nam Á: Indonesia, Thái Lan, Malaysia, một số ít các nước Đông Âu và hai quốc gia Trung Á phát triển nhất [Kazakhstan và Turkmenistan] thuộc Liên Xô cũ,... Khu vực Nam Mỹ: Chile, Uruguay,...
  3. Các quốc gia đang phát triển với nền kinh tế phát triển ổn định và thuận lợi trong một thời gian dài nhưng vẫn phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế có sự gia tăng nhưng chưa cao, GDP đầu người ở mức trung bình thấp: Việt Nam, phần lớn Nam Á [Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh,...], phần lớn Bắc Phi, phần lớn Trung Mỹ, một số nước Nam Mỹ như Colombia, Peru, Ecuador, Bolivia,... phần lớn Trung Á [Mông Cổ, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Tajikistan] một số ít quốc gia châu Âu từng tham gia Hiệp ước Warsawa,...
  4. Các quốc gia đang phát triển nhưng có sự phát triển kinh tế không ổn định do các yếu tố quản lý hoặc chính trị, phụ thuộc lớn, bị động vào tài nguyên, nông nghiệp, tỷ trọng công nghiệp ở mức thấp: Phần lớn châu Phi, một số ít quốc gia Trung Mỹ [ngoại trừ Panama, Jamaica và Puerto Rico], khu vực Tây Á: Iran, Iraq, một phần thế giới Ả Rập ngoại trừ các nước Vùng Vịnh, một số nước Đông Nam Á như Lào, Campuchia, Đông Timor, Châu Đại Dương: Papua New Guinea,...
  5. Các quốc gia kém phát triển nhất cùng các nước có bình quân thu nhập ở mức thấp, đây là nhóm nước có nền kinh tế chậm phát triển nhất trên thế giới do nhiều nguyên nhân khác nhau như xung đột, chiến tranh, nội chiến, tội phạm, chế độ độc tài, lệnh trừng phạt,... kéo dài, tự tách biệt, cô lập với phần còn lại của thế giới, đóng cửa nền kinh tế, nền kinh tế suy sụp, thiếu thông tin nghiêm trọng, trình độ công nghiệp lạc hậu như: Syria, Haiti, El Salvador, Yemen, Somalia, Sudan, Myanmar, Afghanistan, Libya, CHDCND Triều Tiên, Venezuela...

Thuật ngữ "nước đang phát triển" có thể áp dụng cho bất kỳ nhóm nào kể trên ngoại trừ nhóm thứ nhất.

Dựa vào bảng 1.3, kết hợp với thong tin ở trên, nhận xét sự khác biệt về chỉ số HDI và tuổi thọ trung bình giữa nhóm nước phát triển và nhóm nước đang phát triển.

Đề bài

Dựa vào bảng 1.3, kết hợp với thông tin ở trên, nhận xét sự khác biệt về chỉ số HDI và tuổi thọ trung bình giữa nhóm nước phát triển và nhóm nước đang phát triển.

Phương pháp giải - Xem chi tiết

Kĩ năng nhận xét bảng số liệu

Lời giải chi tiết

-Về tuổi thọ trung bình:

+ Các nước phát triển có tuổi thọ trung bình cao [72 tuổi] -> dân số già.

+ Các nước đang phát triển tuổi thọ trung bình thấp: 65 tuổi [dưới mức cả nước 67 tuổi]

-> dân số trẻ.

- Về chỉ số HDI:

+ Nhóm nước phát triển có chỉ số HDI cao hơn mức trung bình của thế giới [ năm 2003 là 0.855]

+ Nhóm nước đang phát triển có chỉ số HDI thấp hơn mức TB thế giới, dưới 0.65 [năm 2003 là 0.694].

Loigiaihay.com

  • Bằng hiểu biết của bản thân, em hãy: Nêu một số thành tựu do bốn công nghệ trụ cột tạo ra. Kể tên một số ngành dịch vụ cần đến nhiều tri thức [ví dụ: kế toán, bảo hiểm…].

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 9 SGK Địa lí 11

  • Bài 1 trang 9 SGK Địa lí 11

    Trình bày những điểm tương phản về trình độ phát triển kinh tế- xã hội của nhóm nước phát triển với nhóm nước đang phát triển.

  • Bài 2 trang 9 SGK Địa lí 11

    Nêu đặc trưng và tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đến nền kinh tế - xã hội thế giới.

  • Bài 3 trang 9 SGK Địa lí 11

    Dựa vào bảng số liệu [trang 9 SGK Địa lí 11]: Vẽ biểu đồ đường biểu hiện tổng nợ nước ngoài của nhóm nước đang phát triển qua các năm. Rút ra nhận xét.

  • Sự phân chia thành các nhóm nước

    Thế giới có trên 200 quốc gia

  • Ngành công nghiệp Nhật Bản

    Giá trị sản lượng công nghiệp của Nhật Bản đứng thứ hai thế giới, sau Hoa Kì.

  • Điều kiện tự nhiên của Trung Quốc

    Sự đa dạng của tự nhiên Trung Quốc được thể hiện qua sự khác biệt giữa miền Đông và miền Tây.

  • Tại sao nông nghiệp chỉ giữ vai trò thứ yếu trong nền kinh tế Nhật Bản?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 81 SGK Địa lí 11

  • Vị trí địa lí và lãnh thổ Trung Quốc

    Trung Quốc là nước có diện tích lớn thứ tư trên thế giới [sau LB Nga, Ca-na-đa và Hoa Kì].

Vì sao GDP được hầu hết các quốc gia lựa chọn làm chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế?

TS. Nguyễn Minh Thu, Khoa Thống kê, Đại học Kinh tế quốc dân
2021-10-15T09:26:45+07:00 2021-10-15T09:26:45+07:00 //cucthongkelangson.gov.vn/kinh-te-vi-mo/vi-sao-gdp-duoc-hau-het-cac-quoc-gia-lua-chon-lam-chi-tieu-danh-gia-tang-truong-kinh-te-187.html //cucthongkelangson.gov.vn/lsouploads/news/2021_10/vi-sao-gdp-duoc-hau-het-cac-quoc-gia-lua-chon-lam-chi-tieu-danh-gia-tang-truong-kinh-te-1.jpg
Trang thông tin điện tử Cục Thống kê tỉnh Lạng Sơn //cucthongkelangson.gov.vn/lsouploads/banner_1.png
Thứ sáu - 15/10/2021 09:26
Nội dung của GDP được xét dưới các góc độ khác nhau, từ đó đưa tới ba phương pháp để tính chỉ tiêu kinh tế tổng hợp này.

1. Tổng sản phẩm trong nước [GDP]

Tổng sản phẩm trong nước [Gross Domestic Product – GDP] là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp đánh giá kết quả hoạt động sản xuất trong phạm vi lãnh thổ kinh tế của một quốc gia. GDP là chỉ tiêu kinh tế quan trọng, được các nhà quản lý, các nhà kinh tế, nhà đầu tư cũng như các chuyên viên phân tích thị trường theo dõi rất chặt chẽ vì đó là chỉ tiêu phản ánh tổng giá trị của tất cả sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng được tạo ra của một nền kinh tế trong khoảng thời gian cụ thể. GDP được tính theo lãnh thổ kinh tế, biểu thị kết quả sản xuất do các đơn vị thường trú tạo ra trong lãnh thổ kinh tế của một quốc gia, được tính và công bố theo quý, 6 tháng, 9 tháng, năm và phân tổ theo nhiều căn cứ khác nhau.

Nội dung của GDP được xét dưới các góc độ khác nhau, từ đó đưa tới ba phương pháp để tính chỉ tiêu kinh tế tổng hợp này. Cụ thể:

Theo góc độ sử dụng cuối cùng, GDP là tổng cầu của nền kinh tế gồm tiêu dùng cuối cùng của hộ dân cư, tiêu dùng cuối cùng của Nhà nước, tích luỹ tài sản [tài sản cố định, tài sản lưu động và tài sản quý hiếm], chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ.

GDP

=

Tiêu dùng cuối cùng

+

Tích lũytài sản

+

Chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hóa
và dịch vụ

Theo góc độ thu nhập, GDP bằng tổng thu nhập tạo nên từ các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất như lao động, vốn, đất đai, máy móc. Theo đó, GDP gồm 4 yếu tố: thu nhập của người lao động từ sản xuất [bằng tiền và hiện vật quy ra tiền], thuế sản xuất [đã giảm trừ phần trợ cấp cho sản xuất], khấu hao tài sản cố định dùng trong sản xuất và thặng dư sản xuất hoặc thu nhập hỗn hợp.

GDP

=

thu nhập của người lao động từ sản xuất

+

thuế sản xuất

+

khấu hao tài sản cố định dùng trong sản xuất

+

thặng dư sản xuất hoặc thu nhập hỗn hợp

Theo góc độ sản xuất,GDP là tổng giá trị tăng thêm theo giá cơ bản của các ngành kinh tế và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm:

GDP

=

Tổng giá trị tăng thêm theo giá cơ bản
của tất cả các ngành

+

Thuế sản phẩm

-

Trợ cấp sản phẩm

Với nội hàm của chỉ tiêu GDP, các nhà hoạch định chính sách và ngân hàng nhà nước có thể đánh giá thực trạng nền kinh tế đang dư thừa hay thiếu hụt, liệu có cần thúc đẩy hay kiềm chế, có các mối đe dọa như suy thoái hoặc lạm phát tràn lan không, từ đó kịp thời thực hiện các biện pháp cần thiết cho nền kinh tế quốc dân. Các nhà đầu tư chú ý đến GDP vì một tỷ lệ phần trăm thay đổi đáng kể trong GDP - tăng hoặc giảm - có thể có tác động đáng kể đến thị trường nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Ngoài ra, có thể dựa vào diễn biến của GDP để phân tích tác động của các biến số như chính sách tiền tệ và tài khóa, thuế, chi tiêu của chính phủ, các cú sốc kinh tế,... đến nền kinh tế làm cơ sở đưa ra các quyết định quản lý hiệu quả.

Tóm lại, tầm quan trọng của chỉ tiêu GDP là không thể phủ nhận. Samuelson và Nordhaus [1948] đã dùng hình ảnh ví khả năng của GDP trong việc cung cấp một bức tranh tổng thể về tình trạng của nền kinh tế như là khả năng của một vệ tinh trong không gian có thể khảo sát thời tiết trên toàn bộ lục địa.

2. Tổng thu nhập quốc gia [GNI]

Tiếp cận theo hướng thu nhập thực tế, chỉ tiêu tổng thu nhập quốc gia [Gross National Income - GNI] phản ánh kết quả thu nhập lần đầu được tạo ra từ các yếu tố sở hữu của một quốc gia tham gia vào hoạt động sản xuất trên lãnh thổ quốc gia đó hay ở nước ngoài trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Nói cách khác, GNI là tổng thu nhập người lao động vàchủ thế kinh tếNDH1[1]của quốc gia đó nhận được bất kể họ ở trong nước hay nước ngoài trừ đi phần thu nhập người lao động và thương nhân nước ngoài hoạt động tại quốc gia đó. Chỉ tiêu này được sử dụng bổ sung cho GDP để đo lường và theo dõi sự giàu có của một nền kinh tế, một quốc gia theo thời gian.

Tổng thu nhập quốc gia là chỉ tiêu cân đối của tài khoản phân phối thu nhập lần đầu. Do vậy, để tính chỉ tiêu này cần phải lập các tài khoản sản xuất và tài khoản hình thành thu nhập hoặc phải xuất phát từ chỉ tiêu GDP và các chỉ tiêu có liên quan. Công thức tính như sau:

GNI

=

GDP

-

Thuế[trừ trợcấp]sản xuất và nhậpkhẩu của đơn vị khôngthường trú [2]

+

Chênh lệch giữa thunhậpcủangười lao động Việt Nam ở nước ngoài gửi về và thu nhập của người nước ngoài ở Việt Nam gửi ra

+

Chênh lệch giữa thunhập sởhữunhậnđược từ nước ngoài với thu nhập sở hữu trả cho nước ngoàiNDH3 [3]

Đối với nhiều quốc gia, chỉ có sự khác biệt nhỏ giữa GDP và GNI, nghĩa là thu nhập sở hữu thuần không đáng kể, không có hoặc có ít sự chênh lệch giữa thu nhập người lao động nhận được và các khoản thanh toán của quốc gia đó cho nước ngoài. Ngược lại, GNI có xu hướng cao hơn GDP khi quốc gia nhận được nhiều thu nhập sở hữu từ đầu tư và thu nhập người lao động làm việc ở nước ngoài. Trong trường hợp nước ngoài có quyền kiểm soát lớn đối với sản lượng quốc gia và thu nhập sở hữu nhận được không đáng kể, GNI sẽ thấp hơn GDP.

Như vậy, điểm mạnh của GNI là thước đo kinh tế ghi nhận tất cả khoản thuần thu nhập đi vào nền kinh tế quốc dân, không tính đến phạm vi lãnh thổ kinh tế của thu nhập đó. Nói cách khác, đó là thuần thu nhập thực tế từ sản xuất và sở hữu tài sản của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định [thường là 1 năm]. Do đó, đây cũng là một chỉ tiêu hữu ích hỗ trợ các nhà nghiên cứu, hoạch định xây dựng được bức tranh toàn cảnh hơn về hoạt động kinh tế.

3. Vai trò của GDP và GNI trong đánh giá tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia

Hai chỉ tiêu kinh tế tổng hợp là Tổng sản phẩm trong nước [GDP] và Tổng thu nhập quốc gia [GNI] đều có vai trò quan trọng trong đánh giá hoạt động của một nền kinh tế hay một quốc gia. Tuy nhiên, nội hàm và cách tiếp cận của GDP và GNI không giống nhau, dẫn đến vai trò của từng chỉ tiêu trong đánh giá tăng trưởng kinh tế cũng khác nhau. Bảng 1 nêu rõ sự khác biệt cơ bản giữa hai chỉ tiêu này.

Bảng 1. So sánh giữa Tổng sản phẩm trong nước và Tổng thu nhập quốc gia

Chỉ tiêu
Đặc điểm

Tổng sản phẩm trong nước [GDP]

Tổng thu nhập quốc gia
[GNI]

Cách tiếp cận

Giá trị tăng thêm từ sản xuất trong nước

Thu nhập từ sản xuất và sở hữu tài sản

Nội dung phản ánh

Kết quả hoạt động sản xuất

Kết quả phân phối thu nhập lần đầu

Phạm vi tính

Trong lãnh thổ kinh tế,
không quan tâm quyền sở hữu

Trong và ngoài lãnh thổ kinh tế,
thuộc quyền sở hữu của quốc gia

Công thức tính

03 phương pháp theo các cách tiếp cận sản xuất, phân phối thu nhập và sử dụng cuối cùng

GDP + chênh lệch thu chi thu nhập sở hữu và thu nhập người lao động với nước ngoài

Kỳ đánh giá

3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng

12 tháng

Phân tổ

Theo ngành kinh tế, loại hình kinh tế, mục đích sử dụng, tỉnh/thành phố

Theo khu vực thể chế [hiện nay Việt Nam chưa thực hiện]

Tác dụng

Phản ánh quy mô nền kinh tế, sức mạnh kinh tế của quốc gia

Phản ánh sự giàu có, tiềm lực kinh tế của công dân quốc gia

Như vậy, GDP và GNI là hai thước đo hoạt động kinh tế với đối tượng đo lường không giống nhau. Nếu như GDP đánh giá khả năng sản xuất của một nền kinh tế hay tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong lãnh thổ kinh tế của quốc gia, đo lường quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thì GNI là thu nhập thực tế do người lao động và các chủ thể kinh tế thuộc sở hữu quốc gia tạo ra và nhận được, không phân biệt vị trí của họ là ở trong hay ngoài nước. Từ đó, vai trò của từng chỉ tiêu trong đánh giá tăng trưởng kinh tế cũng khác nhau. GDP giúp chúng ta thấy được quy mô, sức khỏe nền kinh tế của một quốc gia trong khi GNI thể hiện tiềm lực kinh tế của quốc gia đó.

4. Vấn đề lựa chọn chỉ tiêu GDP để đánh giá tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy mô sản xuất mà một nền kinh tế tạo ra theo thời gian. Trên cơ sở đó, các nhà nghiên cứu có thể đưa ra được định hướng, chính sách phát triển trong giai đoạn kế tiếp. Như phân tích ở trên, do GDP là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, được sử dụng như một chỉ báo về sức khỏe chung của nền kinh tế, chỉ tiêu này được hầu hết quốc gia trên thế giới sử dụng trong đánh giá tăng trưởng kinh tế. Sở dĩ như vậy là do:

Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế dựa vào chỉ tiêu GDP giúp các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và phân tích thị trường đưa ra quyết định phù hợp với thực trạng nền kinh tế. GDP tăng là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang hoạt động tốt, các doanh nghiệp tự tin đầu tư nhiều hơn. Đây là nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Ngược lại, khi tăng trưởng GDP rất thấp hoặc nền kinh tế đi vào suy thoái, điều ngược lại sẽ xảy ra: người lao động có thể bị thôi việc, trả lương thấp hơn và các doanh nghiệp không có ý định muốn đầu tư mở rộng thêm.

Thứ hai, việc sử dụng GDP trong đo lường tăng trưởng kinh tế rất hữu ích cho các ngân hàng trung ương khi xác định các chỉ tiêu nợ công, nợ chính phủ, bội chi ngân sách... so với GDP, từ đó có những điều chỉnh phù hợp chính sách tài khóa và tiền tệ. Đó còn là cơ sở để tính các chỉ tiêu cân đối khác trong nền kinh tế như tổng tích lũy tài sản trong GDP, tiêu dùng cuối cùng trong GDP, tổng vốn đầu tư xã hội so với GDP, tỷ lệ xuất nhập khẩu so với GDP,... Nhờ việc tiếp cận từ hoạt động sản xuất và đo lường kết quả sản xuất của nền kinh tế, GDP được sử dụng trong tính toán các cân đối lớn của nền kinh tế, phản ánh rõ ràng đặc điểm, tính chất tăng trưởng của một quốc gia.

Thứ ba,cách tính và tiếp cận GDP cho phép họ đánh giá cơ cấu cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và nhóm ngành kinh tế. GDP được tính và phân tổ theo ngành kinh tế, theo khu vực kinh tế và theo tỉnh/thành phố [GRDP] trong khi GNI do tính thêm phần thu nhập sở hữu thuần, không thể thực hiện phân tổ theo ngành kinh tế và theo tỉnh, thành phố mà chỉ phân tổ theo khu vực thể chế. Để trở thành cơ sở lập kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế quốc gia, chỉ tiêu GDP giúp phản ánh rõ ràng hơn thực trạng sản xuất của nền kinh tế, của từng ngành kinh tế, từ đó các Chính phủ sẽ có định hướng tập trung phát triển khu vực kinh tế, vùng kinh tế quan tâm. Hơn nữa, do chỉ phụ thuộc vào các hoạt động sản xuất trong lãnh thổ kinh tế của quốc gia, các Chính phủ dễ dàng và thuận lợi hơn trong thu thập dữ liệu công bố chỉ tiêu GDP theo một số kỳ nhất định trong năm. Trong khi đó, để xác định được GNI cần phải thu thập số liệu của thương nhân và người lao động ở nước ngoài cũng như bóc tách thu nhập của thương nhân và người lao động nước ngoài làm việc tại quốc gia – việc làm đòi hỏi nhiều thời gian và công sức.

Như vậy, tuy còn một số hạn chế nhất định trong nội dung phản ánh, GDP vẫn là chỉ tiêu quan trọng mà các Chính phủ lựa chọn để đánh giá và so sánh tăng trưởng của các quốc gia trên thế giới. Từ đó, các quốc gia sẽ có các chính sách phát triển kinh tế phù hợp, các doanh nghiệp cũng có cơ sở để ra quyết định đầu tư, mở rộng hoặc thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh.

Tác giả bài viết: TS. Nguyễn Minh Thu, Khoa Thống kê, Đại học Kinh tế quốc dân

Nguồn tin: consosukien.vn

Video liên quan

Chủ Đề