Tinh hoa văn hóa thế giới là gì

Vai trò của tinh hoa văn hóa nhân loại trong việc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh

  • UniversityTrường Đại học Bách khoa Hà Nội

  • CourseT ư tưởng H ồ Chí Minh [SSH1050]

  • Uploaded byPhúc Lộc Kiều
  • Academic year

    2019/2020

Helpful?554
Share

Comments

  • Please sign in or register to post comments.

Students also viewed

  • Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả
  • Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
  • Đề cương Tư tưởng HCM
  • Vai trò của tinh hoa văn hóa nhân loại trong việc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh
  • Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
  • Bài tập Tư tưởng Hồ Chí Minh chương 2

Other related documents

  • Solution Manual Cost Accounting 12E by Horngren 13 chapter
  • Solution Manual Auditing and Assurance Services 13e Global By Arens Beasley Chappter 01
  • 14 chi so phan tich ky thuat
  • Chuong 1 Nhap mon Quan ly
  • Chapter 15 assignment - good
  • Sample/practice exam 13 August Autumn 2018, answers

Preview text

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘIKHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ****

TIỂU LUẬN MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI:

Vai trò của tinh hoa văn hóa nhân loại trong việc hình thành

Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Giảng viên hướng dẫn: NGUYỄN QUANG TRƯỜNG

Nhóm sinh viên thực hiện:

Họ và Tên: MSSV: Mã lớp bài tập:

1. Nguyễn Tiến Quân

2. Đỗ Đức Mạnh

3. Trần Công Danh

4. Trần Quang Huy

20181706

20181641

20170678

20184489

116935

116935

116936

116936

Hà nội, 12 tháng 5 năm 2020

Mục lục

Mở đầu

Trang

  1. Lý do chọn đề tài 4

  2. Tổng quan đề tài [lịch sử nghiên cứu]: 4

  3. Mục đích nghiên cứu đề tài 4

  4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 4

  5. Phương pháp nghiên cứu đề tài 5

  6. Đóng góp đề tài 5

  7. Kết cấu của đề tài 5

Nội dung :

6

Chương 1: Quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại của Hồ Chí Minh

6
  1. Quá trình ảnh hưởng của Văn hóa phương Đông đối với Hồ

Chí Minh

6

1.1. Nho giáo, gia đình và thời niên thiếu của Hồ Chí Minh 6

1.1. Chủ nghĩa Tôn Trung Sơn 7

  1. Quá trình ảnh hưởng của Văn hóa phương Tây đối với Hồ

Chí Minh

8

1.2. Thời kỳ tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,

trở thành người cộng sản [1911 - 1920]

8

1.2 Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành về cơ bản [1920-

1930]

10

Chương 2: Vai trò của Văn hóa phương Đông thể hiện trong Tư tưởng Hồ Chí Minh

11

2 Nho giáo 11

2 Phật giáo 13

2 Chủ nghĩa Tam dân Tôn Trung Sơn 14

Chương 3: Vai trò của Văn hóa phương Tây thể hiện trong Tư tưởng Hồ Chí Minh

16
  1. Thiên chúa giáo 16

  2. Triết học Khai sáng Pháp [Voltaire, Rousso, Montesquieu] 17

Mở đầu

  1. Lý do chọn đề tài

Hồ Chí Minh [1890-1979] là nhà lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam, được thế giới công nhận là nhà văn hóa kiệt xuất, anh hùng giải phóng dân tộc. Những giá trị mà tư tưởng Hồ Chí Minh để lại cho hậu thế là vô cùng quý giá, được Đảng Cộng sản Việt Nam coi là kim chỉ nam trong mọi công tác Đảng, mọi đường lối chính sách lãnh đạo đất nước. Người cũng là tấm gương sáng ngời về đạo đức, phong cách sống và làm việc cho các thế hệ nhân dân Việt Nam.

Một điều không thể phủ nhận rằng vốn kiến thức uyên bác, tấm lòng nhân hậu và tinh thần cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh một phần có được là nhờ sự ham học hỏi, quyết tâm vượt gian khó tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại tự cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Việc nghiên cứu quá trình tác động của tinh hoa văn hóa nhân loại và vai trò của nó trong sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh cho người học có thêm hiểu biết và một góc nhìn phân tích đặc biệt đối với các vấn đề có trong bộ môn này. Đây chính là lý do mà nhóm tiểu luận chọn đề tài Vai trò của tinh hoa văn hóa nhân loại trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

2ổng quan đề tài [lịch sử nghiên cứu]:

Đề tài nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một mảng nghiên cứu vô cùng rộng lớn và có giá trị với thực tiễn xã hội cách mạng Việt Nam trong suốt tiến trình lịch sử hàng thế kỉ của dân tộc. Với quy mô của một bài tiểu luận, nhóm tác giả tập trung phân tích các khía cạnh tác động của tinh hoa văn hóa nhân loại và vai trò của nó trong sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Dù vậy, đây vẫn là một đề tài đòi hỏi nguồn tư liệu đa dạng và tư duy phân tích có chọn lọc. Tiểu luận có tham khảo nhiều bài báo và đầu sách khác nhau với hi vọng có thể đưa ra lập luận chính xác, cụ thể nhất trong khả năng của nhóm tác giả.

  1. Mục đích nghiên cứu đề tài

Đề tài được thực hiện nhằm đưa ra một góc nhìn về sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở của các yếu tố tinh hoa văn hóa nhân loại, bao gồm văn hóa phương Đông và phương Tây nói chung.

  1. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Tiểu luận về đề tài Vai trò của tinh hoa văn hóa nhân loại trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh tập trung nghiên cứu các giai đoạn tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời và sự nghiệp Cách mạng của Người, cùng với các dẫn chứng về tác phẩm, tuyên ngôn, hành động của Hồ Chí Minh. Từ đó nhóm tác giả phân tích vai trò của chúng đối với tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đồng thời, tiểu luận còn đề cập tới bối cảnh thời đại, các đặc trưng văn hóa trên thế giới để làm rõ ảnh hưởng đó lên các vấn đề cụ thể của tư tưởng Hồ Chí Minh có trong cuốn Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh [NXB. Chính trị Quốc gia Sự thật

  • Bộ Giáo dục & Đào tạo]. Đề tài không đi sâu vào nghiên cứu các khía cạnh đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
  1. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Đầu tiên, đề tài chỉ ra quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong suốt cuộc đời và sự nghiệp Cách mạng của Hồ Chí Minh. Cùng với đó là chỉ ra các yếu tố nào thuộc về văn hóa phương Đông, yếu tố nào thuộc về phương Tây bằng hàng loạt các dẫn chứng cụ thể về tác phẩm, tuyên ngôn, hành động của Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, đề tài phân tích từng mục nhỏ, từng yếu tố tác động để liên hệ, làm rõ vai trò của chúng đối với việc hình thành các vấn đề chính trong tư tưởng của Người - chính là các chương mục trong cuốn Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh [NXB. Chính trị Quốc gia Sự thật Bộ Giáo dục & Đào tạo]

  1. Đóng góp đề tài

Với những nghiên cứu hết sức cơ bản của mình, nhóm tác giả tiểu luận hi vọng được đóng góp một phần nhỏ so với các trước tác hết sức đồ sộ về tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đồng thời, đề tài này cũng đưa ra một phương pháp tiếp cận mới tới những vấn đề của tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua việc đưa vào góc độ hình thành các vấn đề đó trên cơ sở phân tích vai trò của các yếu tố văn hóa nhân loại.

  1. Kết cấu của đề tài

Đề tài bao gồm Chương Mở đầu, 4 chương nội dung, Kết luận đi kèm với Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục Phân công tiểu luận.

Nói chung, hệ tư tưởng Nho giáo đã hình thành những giá trị nhân văn truyền thống tốt đẹp, nhưng không phải là cơ sở lý luận để Hồ Chí Minh xây dựng lên tư tưởng của Người.

1.1. Chủ nghĩa Tôn Trung Sơn

Tôn Trung Sơn [1866-1925], nhà dân chủ cách mạng Trung Hoa và tư tưởng của ông đã có nhiều tác động tới Hồ Chí Minh. Mặc dù cuộc Cách mạng Tân Hợi do Tôn Trung Sơn lãnh đạo nổ ra vào cuối năm 1911, phải đến đầu những năm 20 mới có một ít tờ báo xuất bản ở Trung Quốc lọt đến Paris theo chân những người du học và sinh sống ở đây... Có lẽ nhờ đó mà Nguyễn Ái Quốc biết được những gì đang diễn ra trên đất Trung Quốc đầu thập kỷ 20 của thế kỷ XX, đặc biệt là hoạt động của Chính phủ cách mạng Quảng Châu và những tư tưởng cách mạng của Tôn Trung Sơn. Điều đó có nghĩa là Hồ Chí Minh biết đến cách mạng của Tôn Trung Sơn sau khi đã lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Dấu vết sớm nhất về những tư tưởng đẹp đẽ của Tôn Trung Sơn trong di sản của Hồ Chí Minh có lẽ là bài viết đầu năm 1921 khi Người còn hoạt động ở Paris. Trong bài viết đó chứa đựng thiện cảm to lớn của Người đối với cuộc cách mạng dân tộc do Tôn Trung Sơn lãnh đạo và đặc biệt trong đó chứa đựng sự dự báo về khả năng phát triển của cuộc cách mạng này.

Hồ Chí Minh dần đi sâu vào tìm hiểu cuộc cách mạng đang diễn ra tại Trung Quốc khi đó. Những nét tương đồng trong văn hóa và bối cảnh lịch sử giữa Việt Nam và nước láng giềng phía bắc đã khiến Người nhận thấy nhiều giá trị trong Chủ nghĩa Tam Dân đối với cuộc cách mạng giải phóng ở Việt Nam. Vốn là một nhà hoạt động cách mạng đề cao thực tiễn, Hồ Chí Minh không ngần ngại đã đến tận Quảng Châu để có điều kiện tìm hiểu sâu hơn về Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn.

Ngày 11/11/1924, Người đến Quảng Châu sau khi Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn đã chuyển sang Chủ nghĩa tam dân mới với nội dung dân tộc, dân quyền, dân sinh đã được mở rộng theo chiều hướng có lợi cho cách mạng vô sản, nên Người rất quan tâm tìm hiểu tư tưởng cách mạng của Tôn Trung Sơn. Ba nguyên tắc: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc được Nguyễn Ái Quốc sáng tạo, bổ sung để phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc và những người yêu nước đang hoạt động ở Quảng Châu đã tổ chức huấn luyện được hàng trăm cán bộ cách mạng và chuẩn bị tiến tới thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam. Tuy nhiên cuộc đảo chính ở Thượng Hải và Quảng Châu [1927] của Tưởng Giới Thạch khiến Nguyễn Ái Quốc bị lọt vào tầm ngắm của bọn phản cách mạng, nên Người phải bí mật trở lại đất nước Liên Xô.

Giai đoạn 1927-1945, Hồ Chí Minh tiếp tục tìm hiểu và vận dụng sáng tạo tinh hoa Chủ nghĩa Tam dân mới vào thực tiễn giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Sau năm

1945, khi nước Việt Nam đã thực hiện thành công cách mạng tháng Tám và trong quá trình bảo vệ cách mạng, Hồ Chí Minh viết: Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc. Ngày 12/10/1945, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh về việc lấy Quốc hiệu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì sau đó không lâu chúng ta thấy dưới Quốc hiệu ấy lại xuất hiện ba cặp tiêu ngữ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Hẳn là tiêu ngữ đó có nguồn gốc từ ba chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn, được người tiếp thu và vận dụng sáng tạo ở Việt Nam.

Nhưng cũng cần lưu ý rằng, Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Tam Dân để làm cơ sở vững chắc tiến lên CNXH, chứ không như Tôn Trung Sơn thực hiện Chủ nghĩa tam dân để thiết lập xã hội có tính chất tư bản. Mặc dù nhận thấy Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên là thích hợp nhất với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam nhưng trước sau, Người đều khẳng định: Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin.

Bên cạnh Nho giáo và Chủ nghĩa Tam dân, Phật giáo cũng là một yếu tố văn hóa phương Đông góp phần hình thành nên những giá trị tốt đẹp trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, quá trình mà Phật giáo [và các tôn giáo Đông-Tây khác] tác động lên Hồ Chí Minh có phần không mạch lạc, liên tục nên nhóm tác giả xin phép được trình bày cụ thể trong chương 2 và chương 3 của tiểu luận.

  1. Quá trình ảnh hưởng của Văn hóa phương Tây đối với Hồ Chí Minh

1.2. Thời kỳ tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành người cộng sản [1911 - 1920]

Năm 1911, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành đặt chân lên con tàu Đô đốc Latouche-Tréville, khởi đầu chặng đường gần 30 năm bôn ba hải ngoại, kiếm tìm độc lập, tự do cho Tổ quốc Việt Nam. Tuy nhiên, ít ai nghĩ rằng quá trình tiếp cận văn hóa phương Tây của Hồ Chí Minh đã bắt đầu ở một thời điểm sớm hơn rất nhiều.

Cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ anh Nguyễn Tất Thành là một trong những nhà Nho sớm nhận ra lợi ích thiết thực và sự hợp thời của việc học tiếng Pháp và chữ quốc ngữ. Ông đã mạnh dạn cho cả hai anh em Tất Đạt, Tất Thành xuống thị xã Vinh thời đó để học trường tiểu học. Đó cũng là lần đầu, Tất Thành tiếp xúc với mấy chữ Tự do, Bình đẳng, Bác ái treo trên tường lớp. Về sau, Bác Hồ có nhắc lại về kỉ niệm ấy: Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, bình đẳng, bác ái... Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy. Sự thay đổi của xã hội ở một tỉnh lỵ như Vinh trong cuộc khai thác thuộc địa cũng để lại nhiều ấn tượng với Nguyễn Tất Thành về một phần văn hóa Pháp được mang đến xứ thuộc địa.

cuộc diễn thuyết của những nhà chính trị và triết học để bổ sung thêm nhiều tri thức mới. Cũng từ đây, Nguyễn Tất Thành đã dần đi đến một giai đoạn cao hơn trong việc tìm hiểu văn hóa phương Tây. Tiếp cận với nhiều sách, báo, tài liệu và qua những hoạt động chính trị, xã hội, anh đã có những hiểu biết sâu sắc về đời sống chính trị, xã hội, về sự phân chia giai cấp, giàu nghèo, về những bất công trong lòng xã hội Pháp và các nước, về bản chất bóc lột của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, về cuộc đấu tranh của người lao động; văn hóa, triết học Pháp có tinh thần tự do, bình đẳng, bác ái; trong tinh hoa văn hóa phương Tây có tư tưởng dân chủ, giá trị nhân đạo, có tư tưởng về quyền con người, quyền công dân. Anh không theo hệ tư tưởng tư sản mà tiếp thu những giá trị tiến bộ, tích cực, làm giàu thêm trí tuệ của mình. Có thể thấy rằng, Nguyễn Tất Thành đã bắt đầu vận dụng những hiểu biết về phương Tây để tham gia vào con đường đấu tranh chính trị, hoạt động cách mạng một cách vô cùng tích cực.

1.2. Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành về cơ bản [1920-1930]

Với một cái tên mới, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc [1919] hăng hái tham gia vào các tổ chức chính trị như Đảng Cộng sản Pháp, Quốc tế thứ ba, và trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Rồi tiếp tục tìm hiểu về cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, về bản Luận cương của Lê-nin, Người cuối cùng đã tìm thấy ánh sáng cho con đường giải phóng dân tộc sau bao nhiêu ngày tháng gian nan tìm kiếm. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc cả trên lĩnh vực lý luận và thực tiễn ngày càng tích cực, sôi nổi và hiệu quả trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột, giải phóng các dân tộc thuộc địa; uy tín của Người ngày một nâng cao. Từ tháng 6- 1923 đến tháng 10-1924, Người hoạt động tại Liên Xô. Đây là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc tiếp thu rất nhiều tri thức, đồng thời Người còn góp phần phát triển, làm phong phú lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Có thể nói ở giai đoạn này, học thức lý luận-thực tiễn và phẩm chất cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã dần trở thành một hệ tư tưởng nhất quán, mạch lạc, chính là Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Từ đây, Tư tưởng Hồ Chí Minh đã có bước chuyển rất rõ rệt: từ giai đoạn hình thành sang giai đoạn phát triển. Với sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, các tổ chức cộng sản đầu tiên đã ra đời, sau đó là thống nhất, xây dựng lực lượng vững mạnh và thực hiện thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc giành độc lập tự do cho toàn dân tộc Việt Nam. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp và sau đó là Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn không ngừng tiếp thu, học hỏi các giá trị tốt đẹp, tinh hoa văn hóa nhân loại trên toàn thế giới. Tư tưởng của Người ngày một hoàn thiện, mở rộng mà uyên bác, trở thành nền móng, kim chỉ nam cho sách lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, cho cuộc đấu tranh và xây dựng nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa. Sự hiểu biết, tinh thần học tập suốt đời của Hồ Chí Minh đối với tri thức nhân loại đã trở thành một tấm gương sáng cho tất cả các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam.

Ở một khía cạnh khác, Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu, chọn lọc mà Người còn làm phong phú hơn văn hóa của người phương Tây, ít nhất là ở văn hóa đọc. Nhằm phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã học viết báo, viết sách trong thời kì hoạt động tại châu Âu. Người viết nhiều bài báo đăng trên các báo: Nhân đạo, Đời sống công nhân, Thư tín quốc tế, Tạp chí Cộng sản, Sự thật,... Người làm Chủ nhiệm, kiêm Chủ bút tờ báo Người cùng khổ; tham gia sáng lập, trực tiếp chỉ đạo, đồng thời là người viết chủ chốt báo Thanh niên. Qua báo chí, Hồ Chí Minh tố cáo tội ác của đế quốc thực dân; bày tỏ nguyện vọng của nhân dân các nước thuộc địa; đồng thời thể hiện tinh thần yêu nước, căm thù chủ nghĩa thực dân, khát vọng giải phóng dân tộc và nhân loại bị áp bức. Hình ảnh người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh còn xuất hiện trong văn học, âm nhạc, và nhiều cuộc đấu tranh chống áp bức, bất công trên toàn thế giới, cả phương Tây và phương Đông.

Chương 2: Vai trò của Văn hóa phương Đông thể hiện trong Tư tưởng Hồ Chí Minh

  1. Nho giáo

Sinh ra trong một gia đình Nho giáo, được đào tạo về Nho giáo từ rất sớm, nên ảnh hưởng của Nho giáo đối với Hồ Chí Minh là lẽ đương nhiên. Hồ Chí Minh cũng sớm chịu ảnh hưởng của Nho giáo - nền học vấn đầu tiên mà Người tiếp nhận.

Nho giáo đối với Hồ Chí Minh không phải là ảnh hưởng tự phát mà là ảnh hưởng có tính tự giác. Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã chủ động kế thừa từ lập trường mácxít những giá trị truyền thống trong đó có Nho giáo. Năm 1923, khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Nga Ôxíp Manđenxtam, Hồ Chí Minh nói: Tôi sinh ra trong một gia đình nhà nho An Nam... Thanh niên trong những gia đình ấy thường học Khổng giáo, đồng chí chắc biết Khổng giáo không phải là tôn giáo mà là một thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức và phép ứng xử. Và trên cơ sở đó người ta đưa ra khái niệm về thế giới đại đồng. Những nhà tư tưởng sáng lập ra Nho giáo, ở thời đại của họ, đều xứng đáng là những vĩ nhân, những nhà lý luận cách mạng. Đó là điều mà Hồ Chí Minh đã nhận ra, là cơ sở cho tư tưởng về tôn giáo cũng như cách mạng sau này của Người.

Hồ Chí Minh rất đề cao và tâm đắc ý nghĩa nhân loại phổ biến của xã hội đại đồng, một xã hội của con người, do con người, vì con người. Nhưng Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, xã hội đại đồng của Nho giáo chỉ có , một xã hội lí tưởng nhưng có căn

khai thác những yếu tố hợp lý phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng trị quốc Nho giáo là việc làm có ý nghĩa to lớn, nhưng phải có phương hướng đúng đắn, những giải pháp phù hợp. Về phương hướng cần phải nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền và những nguyên tắc xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta; gắn kế thừa, lọc bỏ với đổi mới, phát triển những giá trị của tư tưởng trị quốc Nho giáo trong quá trình xây dựng nhà ước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

  1. Phật giáo

Từ thủa thiếu thời, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận ảnh hưởng sâu đậm những tư tưởng cao đẹp của Phật giáo ngay trong gia đình của mình. Trước hết, ảnh hưởng đó bắt đầu từ bà ngoại của Người - Cụ Nguyễn Thị Kép. Những người thân trong gia đình Bác không chỉ ảnh hưởng đến việc hình thành tâm từ bi, nhân ái của Hồ Chí Minh mà còn trực tiếp tác động đến việc hình thành tư tưởng của Người về Phật giáo.

Lòng yêu nước thương dân và triết lí từ bi thấm nhuần từ đạo Phật của Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã có ảnh hưởng nhất định tới chủ tịch Hồ Chí Minh Trên bước đường cứu nước.

Chúng ta thấy, những ảnh hưởng của Hồ Chí Minh về tư tưởng giáo lý nhà Phật rất rõ nét. Người đã gạn lọc, kế thừa, cách mạng hóa những hạt nhân hợp lý trong triết lý đạo Phật, nhất là triết lý đề cao nếp sống đạo đức trong sáng, chủ trương bình đẳng, yêu thương đồng loại, chống điều ác. Người đã nâng nó lên thành ngọn lửa hun đúc cho truyền thống yêu nước, nhân ái của dân tộc, động viên khích lệ đồng bào theo đạo Phật đồng lòng xây dựng đất nước. Đó là lòng yêu thương con người, quên mình vì mọi người, mình vì người khác.. giáo lý nhà Phật, từ bi là ước vọng mãnh liệt để giải thoát con người thoát khỏi đau khổ. Bác ái là lòng thương yêu của mọi người. Vị tha, sống vì người khác, kết tinh bằng từ bi, trí tuệ, dũng mãnh, hướng dẫn chúng sinh đạt tới mục đích giác ngộ và giải thoát, chuyển cõi Ta bà này thành cõi Tịnh độ và cuộc đời cơ cực này thành nếp sống cực lạc. Từ triết lý, giáo lý của nhà Phật, Hồ Chí Minh đã tích lũy và hình thành cho mình tư tưởng mang giá trị triết lý nhân văn sâu sắc và chính Người luôn luôn hướng đến Phật pháp.

Từ rất sớm [năm 1921], Hồ Chí Minh cảnh tỉnh loài người khi tìm cách xoá bỏ đẳng cấp, tôn giáo và các thành phần giai cấp: Thảm họa của đất nước đã xoá bỏ sự phân biệt đẳng cấp và tôn giáo. Người giàu người nghèo, quý tộc và nông dân, Hồi giáo và Phật giáo, đều hợp sức đoàn kết. Hồ Chí Minh thành tâm gợi niềm tin mãnh liệt: Rồi đây, bốn bể một nhà.... Từ những suy nghĩ đó, Hồ Chí Minh quan niệm: Trong bầu trời không có gì tốt đẹp vẻ vang bằng phục vụ lợi ích cho nhân

dân, việc gì có lợi cho nhân dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh

Nghiên cứu tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Người: Đã gạn lọc, kế thừa, cách mạng hóa những hạt nhân hợp lý trong triết lý đạo Phật, nhất là triết lý đề cao nếp sống đạo đức trong sáng, chủ trương bình đẳng, yêu thương đồng loại, chống điều ác. Người đã nâng nó lên thành ngọn lửa hun đúc cho truyền thống yêu nước, nhân ái của dân tộc, động viên khích lệ đồng bào theo đạo Phật đồng lòng xây dựng đất nước, đó là Lòng yêu thương con người, quên mình vì mọi người, Luôn tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức của con người, Luôn gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, Tư tưởng về đại đoàn kết toàn dân.

Những dòng tư liệu trên đây giúp chúng ta hiểu rõ hơn và đầy đủ hơn về mối quan hệ gắn bó sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Phật giáo trong quá trình hoạt động cách mạng của Người, cả trong nhận thức và trong hành động; nó giải thích rõ vì sao Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến đã đi theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn và đã có những đóng góp hết sức to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây và ngày nay đang chung lưng đấu cật cùng với toàn dân bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam thân yêu ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn.

Tựu trung lại, vấn đề mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo chiếm giữ một vị trí quan trọng trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Nó luôn được Người quan tâm, xem xét và giải quyết một cách biện chứng. Vì vậy, quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề này là một trong những cơ sở bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Điều này càng trở nên có ý nghĩa hơn bao giờ hết, đặc biệt trong bối cảnh thế giới hiện nay, một số quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đang rơi vào tình trạng bất ổn, xung đột gay gắt do không giải quyết thoả đáng, đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo.

  1. Chủ nghĩa Tam dân Tôn Trung Sơn

Chủ nghĩa Tam dân [với 3 nội dung chủ yếu là dân tộc, dân quyền, dân sinh] đã thể hiện khá hoàn chỉnh tư tưởng dân chủ tư sản của Trung Quốc thời kỳ cận đại Trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Tam dân, Trung Quốc Đồng minh hội - [chính đảng của giai cấp tư sản Trung Quốc] ra đời và lãnh đạo nhân dân Trung Quốc tiến hành thành công cuộc cách mạng Tân Hợi. Cuộc cách mạng đã lật đổ nền thống trị gần 300 năm của vương triều Mãn Thanh, kết thúc chế độ chuyên chế phong kiến hơn 2000 năm, lập nên nước Trung Hoa dân quốc

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và cuộc cách mạng vận động dưới sự chỉ đạo của hệ tư tưởng này - cách mạng Tân Hợi - ngay lập tức có những ảnh hưởng

do - Hạnh phúc đã được Hồ Chí Minh rút ra từ chủ nghĩa Tam dân và tư tưởng Tự do - Bình đẳng - Bác ái của cách mạng tư sản Pháp 1789 và nâng lên một trình độ mới, mang tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và tính cách mạng triệt để của một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động

Bên cạnh việc tiếp thu sáng tạo những nội dung của chủ nghĩa Tam dân, Hồ Chí Minh còn chú trọng nghiên cứu các phương pháp cách mạng của Tôn Trung Sơn, đặc biệt là phương pháp vận dụng đạo đức Nho giáo để tuyên truyền và giáo dục tinh thần cách mạng cho quần chúng. Học tập Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh đã lý giải tư tưởng Nho giáo tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ một cách giản dị và thiết thực.

Tôn Trung Sơn lần đầu tiên nêu lên quan điểm: trung với quân có thể không cần nữa, không trung với quân, mà trung với nước, trung với 400 triệu nhân dân Trung Quốc. Hồ Chí Minh đã vận dụng sự suy nghĩ cách mạng đó của Tôn Trung Sơn thành những lời nhắc nhở, giáo huấn mang tính sống còn cho cán bộ: cán bộ là đầy tớ của nhân dân, cán bộ phải trung với nước, hiếu với dân, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, cán bộ phải khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ...

Trong Lời căn dặn học viên trong lễ khai trường của Trường võ bị Trần Quốc Tuấn ở Sơn Tây [nay là trường Đại học Trần Quốc Tuấn] ngày 26 tháng 5 năm 1946, Hồ Chí Minh đã nói: Anh em có nhiều giai cấp, tư tưởng khác nhau, trước hết phải đoàn kết, đoàn kết thật thà. Phải có kỷ luật cả về tinh thần lẫn vật chất. Phải noi gương anh dũng của anh em binh sĩ hồi khởi nghĩa để làm gương cho các lớp về sau. Các anh em cần làm được như lời Tôn Trung Sơn đã nói: Những người thanh niên tốt muốn làm việc to chứ không muốn làm quan lớn. Mong rằng anh em ở đây, bao giờ cũng phải làm theo hai khẩu hiệu mà nó là cái mục đích của anh em: Trung với nước, hiếu với dân.

Tìm hiểu ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn đối với cách mạng Việt Nam, đặc biệt đối với Hồ Chí Minh, chúng ta trân trọng ghi nhận những đóng góp to lớn của Tôn Trung Sơn về lý luận và thực tiễn cho cách mạng Việt Nam. Chính những chủ trương, đường lối cách mạng dân chủ trong chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn đã có tác dụng thúc đẩy và mang lại cho phong trào cách mạng Việt Nam một màu sắc mới, làm phong phú thêm những trang sử đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.

Chương 3: Vai trò của Văn hóa phương Tây thể hiện trong Tư tưởng Hồ Chí Minh

  1. Thiên chúa giáo

Với tư duy sắc bén, tinh thần đấu tranh vì chính nghĩa, tự do và hạnh phúc con người, Hồ Chí Minh đã nhìn ra những quan điểm tốt đẹp, hướng thiện trong Đạo Thiên chúa, chứ không coi đó chỉ là một công cụ xâm lược của thực dân Pháp. Đứng trên lập trường duy vật và phương pháp luận biện chứng, Hồ Chí Minh dã chắt lọc những yếu tố hợp lý, có giá trị lâu dài đối với đời sống trần gian thiết thực của con người nói chung, của đạo hữu Thiên chúa giáo nói riêng trong những tư tưởng cơ bản của đạo Thiên chúa nêu trên để làm phong phú thêm tư tưởng của Người trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần lãnh đạo cách mạng Việt Nam tới thành công.

Mặt khác, sau khi cách mạng tháng Tám ở Việt Nam thành công, có một điều khác biệt rất rõ so với cách mạng Tháng 10 ở Nga: Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chủ trương phá hủy nhà thờ hay coi giáo dân là đối tượng chống lại cách mạng. Hồ Chí Minh đã trả lời rất rõ trong bài báo Ai phá đạo được đăng trên báo Nhân dân ngày 6/7/1955: Tôi là cán bộ cách mạng, là người cộng sản. Nhưng mục đích của chúng tôi là lo cho dân có cơm ăn, áo mặc, được học hành, sống sung sướng trong độc lập, tự do. Các cụ lo việc tín ngưỡng thờ Chúa, lo việc linh hồn tín đồ. Nhưng tín đồ cũng cần ăn, mặc, ở, học hành, cần được tự do, hạnh phúc và các giáo sĩ chắc chắn cũng quan tâm rất nhiềuười cách mạng và người tôn giáo thống nhất với nhau ở mục đích mưu cầu hạnh phúc ở đời này cho nhân dân. Chúng ta phải lo nhiệm vụ ấy. Còn đối với tín ngưỡng tôn giáo thì đã có chính sách rõ ràng. Chúng tôi tôn trọng và đảm bảo tự do tín ngưỡng của tất cả các tôn giáo. Như thế kẻ nào đặt ra việc công giáo không đội trời chung với cộng sản là sai.

Rõ ràng, góc nhìn đúng đắn về những giá trị tốt đẹp trong đạo Thiên chúa của Hồ Chí Minh đã góp phần xây dựng nên hệ thống tư tưởng của Người về vấn đề tự do tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc và vấn đề xây dựng nền văn hóa của đất nước xã hội chủ nghĩa.

  1. Triết học Khai sáng Pháp [Voltaire, Rousso, Montesquieu]

Thời Khai Sáng là thời đại trải dài phần lớn trên thế kỷ 18, từ 1715 đến 1789 là năm đánh dấu Cách Mạng Pháp. Ánh sáng ở đây là một ẩn dụ được dùng để chỉ tri thức và hoạt động của tinh thần. Nói cách khác chính là những thành tựu về khoa học kĩ thuật vượt bậc mà xã hội châu Âu đạt được trong khoảng thời gian này. Ngược lại, bóng tối mông muội ở đây chỉ chế độ nhà nước phong kiến tàn lụi và đức tin mông muội vào thánh thần, tôn giáoời Khai Sáng xảy ra ở Âu châu, đặc biệt ở Đức, Pháp, Anh và Tây Ban Nha, nhưng ảnh hưởng của trào lưu lan rộng khắp nơi.

nước Mỹ và nước Pháp. Năm 1777, ông đã đưa quân sang Mỹ để giúp nhân dân Mỹ chiến đấu giành độc lập. Sau đó ông trở lại Pháp tham gia cuộc Cách mạng tư sản Pháp năm 1789 và trở thành Tư lệnh lực lượng vệ binh quốc gia. Ông chính là tác giả của bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp.

Trong bản tuyên ngôn này có tất cả 17 điều khoản, điều 1 và điều 2 là nổi tiếng nhất và được trích dẫn nhiều nhất: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng và quyền lợi. Sự khác biệt xã hội chỉ có thể được thiết lập trên cơ sở lợi ích chung và Mục đích của mọi tổ chức chính trị là việc bảo toàn các nguồn lợi thiên nhiên và bảo toàn các quyền con người không thể bị tước bỏ. Các quyền đó là tự do, tài sản, sự an toàn, và quyền được chống lại mọi sự áp bức.

3.3. Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản của Đức 1848

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học. Những nguyên lý mà C. Mác và Ph. Ăngghen trình bày trong tác phẩm này là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trải qua nhiều thử thách, hơn một thế kỷ qua, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đặt ra nhiều vấn đề mới, nhiều đòi hỏi, thách thức của thời đại cần giải quyết nhưng chủ nghĩa Mác và những nội dung được đưa ra trong bản Tuyên ngôn Đảng Cộng sản vẫn không hề lỗi thời. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã đặt nền móng tư tưởng, mang ý nghĩa thiết thực cho những vấn đề về Đảng và xây dựng Đảng.

Được sự uỷ nhiệm của những người Cộng sản, ngày 24/2/1848, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do Các và Ph.Ăngghen soạn thảo được công bố trên toàn thế giới và nắm giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự ra đời của tác phẩm vĩ đại này đánh dấu sự hình thành cơ bản về lý luận của chủ nghĩa Mác bao gồm ba bộ phận hợp thành: triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học.

Tuyên ngôn kết thúc bằng lời kêu gọi nổi tiếng: Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại!

Chương 4: Sự kết hợp văn hóa phương Đông và phương Tây trong Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Khi còn ở trong nước, Nguyễn Tất Thành đã được hấp thụ một nền quốc học và Hán học khá cơ bản, đủ sức tạo cho Người một bản lĩnh văn hoá vững vàng để có thể không bị choáng ngợp trước nền văn minh của phương Tây.

Ra nước ngoài, Người có điều kiện đi nhiều, hiểu rộng, biết nhiều ngoại ngữ, đến được nhiều nước, làm nhiều nghề, tiếp xúc với nhiều vĩ nhân,.. đó có cơ hội tiếp xúc với nhiều nền văn hoá, gia nhập nhiều tổ chức, vào nhiều hội, đoàn

[Công đoàn lao động hải ngoại ở Anh, các Hội du lịch, Hội nghệ thuật và khoa học, Câu lạc bộ Faubourg, vào Đảng Xã hội rồi Đảng Cộng sản, kể cả vào Hội Tam điểm,...] để học cách tổ chức, tìm hiểu các cơ chế chính trị xã hội,..ằm chắt lọc lấy cái hay, cái tốt, cái thích hợp, phục vụ cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và xây dựng nước Việt Nam độc lập trong tương lai.

  1. Sự kết hợp văn hóa Đông-Tây trong việc tiếp nhận tư tưởng Tự do-Bình đẳng- Bác ái của Hồ Chí Minh

Trên hành trình đến với văn hoá nhân loại, Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn hoá Pháp trước tiên và có lẽ nó cũng để lại những dấu ấn sâu đậm trong tư tưởng và phong cách văn hoá của Người.

Đúng là Hồ Chí Minh đã sớm bị hấp dẫn bởi lý tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái của Đại cách mạng Pháp và muốn đi sang Pháp để tìm hiểu xem những gì ẩn đằng sau ba từ ấy. Và Người đã nhận ra rằng nền Cộng hoà Pháp chủ yếu được xây dựng trên quan điểm giá trị về con người cá nhân, nhất là về quyền tự do, bình đẳng của cá nhân theo tinh thần cách mạng tư sản Pháp; còn Hồ Chí Minh xuất phát từ vị trí người dân thuộc địa phương Đông, vốn đề cao tinh thần cộng đồng, luôn đặt quốc gia, dân tộc lên trên cá nhân. Với Hồ Chí Minh, Tự do trước hết vẫn là tự do của toàn dân tộc chứ chưa phải là tự do cá nhân; Bình đẳng cũng được Hồ Chí Minh nâng lên thành quyền bình đẳng giữa các dân tộc; còn Bác ái một khái niệm quá rộng, như lòng bác ái của Chúa đòi hỏi phải yêu cả kẻ thù của mình, là điều khó chấp nhận đối với các dân tộc bị áp bức! Hồ Chí Minh hiểu khái niệm này theo đúng nghĩa của nó là tình hữu ái, như tinh thần tứ hải giai huynh đệ, nên Người thường quen gọi những người lao động, các dân tộc bị áp bức là anh em [hỡi anh em ở các thuộc địa!, các dân tộc anh em, các nước anh em,...].

Tóm lại, Hồ Chí Minh nhận thức Tự do, Bình đẳng, Bác ái qua lăng kính của ngươì dân bị áp bức châu Á chứ không theo tinh thần cách mạng tư sản Pháp, nên chỉ coi đó là những yếu tố cần chứ chưa đủ. Cái giá trị lớn nhất mà Hồ Chí Minh theo đuổi suốt đời là: Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu. Điều quan trọng ấy lại không có trong bảng giá trị của nền Cộng hoà Pháp, vì vậy, trong thư kêu gọi những người Pháp hãy cộng tác bình đẳng, thân thiện với Việt Nam để gây dựng hạnh phúc chung cho cả hai dân tộc, Người đã chủ động bổ sung vào khẩu hiệu ấy một từ nữa: Người Việt và người Pháp cùng tin tưởng vào đạo đức: Tự do, Bình Đẳng, Bác ái, Độc lập. Thêm Độc lập để ràng buộc họ: Nước Pháp muốn độc lập, không có lý gì lại muốn nước Việt Nam không độc lập?

Như vậy, con đường Hồ Chí Minh tiếp biến các giá trị văn hoá nhân loại là lựa chọn, tích hợp những nhân tố tiến bộ, hợp lý, cải biến nó cho phù hợp với truyền thống văn hoá dân tộc và nhu cầu đất nước để tạo ra cách làm riêng, không vay

Video liên quan

Chủ Đề