Với kênh tài chính người cần vốn có thể huy động vốn từ người có vốn bằng cách bán chứng khoán

Trong bối cảnh mới, dưới tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch Covid-19 trên toàn cầu, việc huy động vốn cho sản xuất kinh doanh là một trong những vấn đề quan trọng có tính chất sống còn đối với doanh nghiệp hiện nay.

Khảo sát của VCCI cho thấy, bên cạnh việc thiếu hụt thị trường và nguồn nguyên liệu do đại dịch Covid-19 thì gần 50% doanh nghiệp thiếu hụt nguốn vốn và dòng tiền kinh doanh. Việc doanh nghiệp dựa quá nhiều vào vốn vay, trong đó chủ yếu vay qua các tổ chức tín dụng thay vì vốn chủ sở hữu cũng khiến các doanh nghiệp dễ dàng gặp rủi ro hơn liên quan đến nguồn vốn, dòng tiền kinh doanh.

Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và đại dịch Covid-19, việc huy động vốn cho sản xuất kinh doanh là vấn đề quan trọng mang tính chất sống còn đối với doanh nghiệp hiện nay. [Ảnh minh họa]

Cấu trúc thị trường vốn của Việt Nam đã được định hình rõ rệt với hai cấu phần chính là thị trường chứng khoán và thị trường tín dụng trung – dài hạn nhằm tạo kênh dẫn vốn hữu hiệu cho chính phủ, các doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19, thị trường vốn đang đối mặt với nhiều thách thức, nguồn vốn của doanh nghiệp cần được xem xét lại ở cả góc độ cơ cấu, mục tiêu và cách thức huy động vốn.

Hiện nay, điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam là phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn vay ngân hàng. Trong khi đó thị trường tín dụng đang bị quá tải do vừa phải lo cung ứng nguồn vốn ngắn hạn, vừa phải lo cung ứng nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế và doanh nghiệp. Do tiềm lực của các ngân hàng Việt Nam còn hạn chế, để bảo đảm có nguồn vốn trung và dài hạn, các ngân hàng buộc phải đi vay nguồn vốn ngắn hạn [chủ yếu vay tiền trong dân], lấy nguồn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Điều này chứa đựng nguy cơ rất lớn cho cả ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế. Nguy cơ ở phía doanh nghiệp là ở khía cạnh phải vay lãi suất cao, chi phí vốn cao dẫn đến hiệu quả sinh lời thấp; mặt khác việc phụ thuộc quá lớn vào nguồn vốn vay ngân hàng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động của doanh nghiệp trong trường hợp nguồn vay bị hạn chế hoặc gián đoạn.

Theo đánh giá của chuyên gia kinh tế TS. Cấn Văn Lực, quy mô thị trường vốn trong nước vẫn thiếu tính ổn định; các sản phẩm chưa đa dạng, chế tài chưa đủ sức răn đe; nền tảng nhà đầu tư chưa bền vững… Do đó, để giải quyết tình trạng này, các doanh nghiệp cần minh bạch về hoạt động và báo cáo tài chính; chủ động tìm hiểu về các chính sách hỗ trợ tài chính, bảo lãnh tín dụng… các cơ quan quản lý cần mạnh mẽ và xây dựng các giải pháp hiệu quả, thiết thực hơn để các chính sách hỗ trợ tài chính dễ dàng được tiếp cận với các doanh nghiệp.

Ông Cấn Văn Lực nêu thực tế: "Năm ngoái của chúng ta có gói an sinh xã hội 16 nghìn tỷ đồng, cho vay lãi suất 0% nhưng điều kiện đưa ra không phù hợp, chính vì thế mà doanh nghiệp không tiếp cận được. Do đó, bây giờ chúng ta phải thiết kế lại cho phù hợp hơn, quy trình phải rút gọn hơn, tinh giản hơn. Việc phối hợp chính sách cần thực hiện để giải quyết yêu cầu giãn, hoãn của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tích cực ứng dụng công nghệ thông tin phải được đẩy mạnh".

Đối với các nước phát triển, để huy động nguồn vốn trung và dài hạn, các doanh nghiệp sẽ thực hiện niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán [TTCK] để có thể huy động vốn một cách nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng từ việc phát hành cổ phiếu dựa trên tính thanh khoản cao và uy tín của doanh nghiệp được niêm yết trên thị trường. Huy động theo cách thức này, doanh nghiệp không phải thanh toán lãi vay cũng như phải trả vốn gốc giống như việc vay nợ, từ đó sẽ rất chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được cho mục tiêu và chiến lược dài hạn của mình.

Tuy nhiên ở Việt Nam, do nhiều lý do khác nhau các doanh nghiệp lại chủ yếu vay vốn từ các ngân hàng thương mại. Điều này dẫn tới hệ quả là chi phí vốn vay cao, áp lực trả nợ lớn, tác động tiêu cực đến hiệu quả sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Huy động vốn của doanh nghiệp thông qua thị trường chứng khoán hiện nay còn nhiều hạn chế.

Tỷ lệ huy động vốn qua thị trường chứng khoán tại Việt Nam còn ở mức thấp. [Ảnh minh họa]

Ông Đặng Đức Thành, Chủ tịch Tập đoàn Đầu tư Tài chính Green+, đồng thời cũng là Chủ tịch Câu lạc bộ Các Nhà Kinh Tế [VEC] nhận định, doanh nghiệp đang kinh doanh trong một môi trường thay đổi và bất ổn cùng nhiều thách thức khác nhưng khủng bố quốc tế, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh mạng… Nhu cầu vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp hiện nay đang rất lớn.

Tuy nhiên, ông Thành cho rằng, do cơ cấu vốn của doanh nghiệp còn bất hợp lý, nguồn vốn chủ sở hữu chỉ chiếm khoảng 20-30% còn lại là vay tín dụng từ các ngân hàng thương mại, trong khi khu vực này lại thường không thể đáp ứng được nhu cầu vốn vay trung và dài hạn của doanh nghiệp.

Muốn huy động nguồn vốn có hiệu quả, theo ông Đặng Đức Thành, phải tập trung vào 4 giải pháp cụ thể: Xác định cơ cấu vốn tối ưu; đa dạng hóa các hình thức huy động vốn; huy động vốn qua thị trường chứng khoán là giải pháp tối ưu mang lại hiệu quả to lớn cho doanh nghiệp; nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp.

Đồng quan điểm trên, TS. Lê Anh Tú, Cố vấn cấp cao PwC Việt Nam cho biết, trên thế giới, sau ảnh hưởng của Covid-19, các doanh nghiệp có xu hướng tiếp cận các kênh huy động vốn phi ngân hàng như: thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu và kể cả các kênh phi truyền thống khác như gọi vốn cộng đồng, gọi vốn thông qua tiền mã hóa…

TS. Lê Anh Tú cho hay, sau đại dịch, sự suy giảm giá trị tài sản tiếp tục làm giảm khả năng cho vay của các ngân hàng đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Bởi vậy nên khu vực kinh tế này đang và sẽ gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận các nguồn vốn truyền thông theo kênh ngân hàng.

Để đáp ứng nhu cầu của thế giới trong bối cảnh hậu dịch Covid-19, ngành dịch vụ tài chính đã có sự thay đổi nhanh chóng và chuyển dịch từ tương tác trực tiếp với khách hàng sang hoạt động dựa trên nền tảng và hệ sinh thái, với quan điểm tập trung phát triển nền kinh tế không dùng tiền mặt; lấy khách hàng làm trung tâm và sản phẩm có tính cá nhân hóa cao; đơn giản hóa mọi quy trình thông qua tiền tệ số hóa… Nhiều công ty công nghệ tài chính [Fintech] đã lên ngôi từ xu hướng này và cạnh tranh trực tiếp với ngân hàng. Song song đó, chính các ngân hàng truyền thống cũng buộc phải nhanh chóng bắt kịp xu hướng để giữ lợi thế cạnh tranh, TS. Lê Anh Tú nhìn nhận./.

Huy động vốn là hoạt động nhằm làm tăng số vốn của doanh nghiệp để phục vụ cho nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tùy theo từng loại hình doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp có các phương thức tạo vốn và huy động vốn khác nhau. Trong bài viết dưới đây, Công ty Luật Thái An sẽ chia sẻ tới bạn đọc các hình thức huy động vốn trong công ty cổ phần.

Cơ sở pháp lý điều chỉnh quy định huy động vốn của công ty cổ phần là các văn bản sau đây:

  • Luật doanh nghiệp 2020
  • Luật chứng khoán 2019
  • Nghị định 153/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 31 tháng 12 năm 2020 quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế.

Vốn của doanh nghiệp nói chung là giá trị được tính bằng tiền của những tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp của doanh nghiệp được sử dụng trong kinh doanh. Cũng như các chủ thể kinh doanh khác, để tiến hành hoạt động kinh doanh, công ty cổ phần phải có vốn. Vốn trong công ty cổ phần bao gồm: vốn chủ sở hữu [vốn tự có] và vốn tín dụng [vốn vay].

  • Vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn thuộc sở hữu của công ty, được hình thành từ nguồn đóng góp của cổ đông và vốn do công ty cổ phần tự bổ sung từ lợi nhuận của công ty, có thể tăng vốn chủ sở hữu thông qua việc phát hành cổ phiếu.
  • Vốn tín dụng: là nguồn vốn hình thành từ việc đi vay dưới các hình thức khác nhau như: vay ngân hàng, vay của các tổ chức, cá nhân khác hoặc vay bằng cách phát hành trái phiếu.

Tương ứng với hai loại vốn là hai cách để huy động vốn trong công ty cổ phần, đó là: tăng vốn chủ sở hữu và tăng vốn vay.

===>>> Xem thêm: Tăng vốn điều lệ công ty cổ phần

Huy động vốn trong công ty cổ phần như thế nào?- Nguồn ảnh minh hoạ: Internet

Việc huy động vốn của công ty cổ phần được thực hiện dưới một số hình thức như sau:

Vốn góp ban đầu là phần vốn hình thành do các chủ sở hữu đóng góp khi thành lập doanh nghiệp. Theo Khoản 1 Điều 120 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định công ty cổ phần mới thành lập phải có ít nhất 03 cổ đông sáng lập. Mỗi cổ đông là chủ sở hữu của công ty và chịu trách nhiệm hữu hạn trên trị giá số cổ phần mà họ nắm giữ. 

Khoản 2 Điều 120 Luật Doanh nghiệp 2020 cũng quy định các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán khi đăng ký thành lập doanh nghiệp. Như vậy các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần dự tính phát hành, số cổ phần còn lại sẽ được phát hành để huy động đủ số vốn điều lệ.

Huy động vốn góp ban đầu là một trong những hình thức huy động vốn trong công ty cổ phần quan trọng giúp cho doanh nghiệp chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn, không bị phụ thuộc vào bên ngoài.

===>>> Xem thêm: Cổ đông không thanh toán – xử lý thế nào?

Chào bán cổ phần là một hình thức huy động vốn trong công ty cổ phần. Việc chào bán cổ phần sẽ làm tăng vốn điều lệ của công ty. Chào bán cổ phần có thể thực hiện theo các hình thức sau đây:

  • Chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu;
  • Chào bán cổ phần ra công chúng;
  • Chào bán cổ phần riêng lẻ.

Với hình thức này, việc tăng thêm số lượng cổ phần sẽ được chào bán toàn bộ cho các cổ đông của công ty theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ tại công ty. Sau khi cổ phần được thanh toán đầy đủ, công ty phải phát hành và trao cổ phiếu cho người mua. Công ty có thể bán cổ phần mà không trao cổ phiếu. Trường hợp này, các thông tin về cổ đông được ghi vào sổ đăng ký cổ đông.

Đây là cách huy động nhanh chóng và dễ thực hiện, phát huy nguồn lực từ các cổ đông hiện tại. Việc chào bán cổ phần này sẽ không làm tăng số lượng cổ đông mà vẫn tăng được vốn điều lệ.

Việc thực hiện chào bán cổ phần ra công chúng sẽ được thực hiện theo Luật chứng khoán.

Điểm mạnh của hình thức này là công ty có thể huy động vốn từ bên ngoài một cách rộng rãi với số lượng lớn vì phải thực hiện thủ tục niêm yết đại chúng theo quy định. Do vậy, hình thức này sẽ phức tạp, chịu nhiều quy định pháp lý riêng và đặc thù của Luật chứng khoán.

Việc huy động vốn theo hình thức này sẽ làm tăng số cổ đông của công ty một cách đáng kể.

Để thực hiện được hình thức này, công ty cổ phần phải được xác định là công ty đại chúng thuộc một trong hai trường hợp sau:

  • có vốn điều lệ đã góp từ 30 tỷ đồng trở lên và có tối thiểu là 10% số cổ phiếu có quyền biểu quyết do ít nhất 100 nhà đầu tư không phải là cổ đông lớn nắm giữ;
  • đã thực hiện chào bán thành công cổ phiếu lần đầu ra công chúng thông qua đăng ký với Ủy ban chứng khoán Nhà nước.

Hình thức này cũng là hình thức huy động vốn từ bên ngoài, tuy nhiên không được chào bán rộng rãi và niêm yết công khai tại các sàn chứng khoán mà chỉ mang tính riêng lẻ. Việc huy động vốn này sẽ không phải chịu nhiều quy định pháp lý của Luật chứng khoán nhưng vẫn có thể huy động được thêm vốn.

Điểm mạnh của hình thức này là công ty có thể kiểm soát được số cổ phần bán ra cho nhà đầu tư nào, số lượng bao nhiêu. Nhưng nhược điểm là không thể huy động nhanh chóng và rộng rãi như hình thức chào bán ra đại chúng.

===>>> Xem thêm: Chào bán cổ phần như thế nào?

Căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 4 Luật Chứng khoán 2019, trái phiếu là một loại chứng khoán. Theo Khoản 3 Điều 4 Luật Chứng khoán 2019, trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần nợ của tổ chức phát hành.

Khoản 1 Điều 4 Nghị định 153/2020/NĐ-CP quy định, trái phiếu doanh nghiệp là loại chứng khoán có kỳ hạn từ 01 năm trở lên do doanh nghiệp phát hành, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần nợ của doanh nghiệp phát hành.

Như vậy, trái phiếu được hiểu là giấy ghi nhận nợ quy định nghĩa vụ của công ty phát hành [người vay tiền] phải trả cho người nắm giữ trái phiếu [người cho vay] một khoản tiền xác định.

Phát hành trái phiếu là một trong những hình thức huy động vốn trong công ty cổ phần nhằm đáp ứng hoạt động kinh doanh.

Hình thức này có khả năng huy động vốn rất lớn, tạo điều kiện rất tốt cho công ty cổ phần nhưng lại đẩy rủi ro về phía người mua trái phiếu vì sẽ phải phụ thuộc vào khả năng thanh toán của công ty. Vì vậy việc phát hành trái phiếu cũng có những quy định rất chặt chẽ quy định về hoạt động này.

  • Trái phiếu;
  • Trái phiếu chuyển đổi;
  • Các loại trái phiếu khác theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty.

Việc phát hành trái phiếu của công ty cổ phần gồm 02 hình thức:

  • Chào bán trái phiếu ra công chúng, gồm các phương thức: Chào bán thông qua phương tiện thông tin đại chúng; Chào bán cho từ 100 nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; Chào bán cho các nhà đầu tư không xác định.
  • Chào bán trái phiếu riêng lẻ, gồm các phương thức: Chào bán cho dưới 100 nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; Chỉ chào bán cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.

Điều kiện phát hành trái phiếu công ty cổ phần tương đối chặt chẽ dưới hai hình thức là phát hành trái phiếu ra công chúng và phát hành trái phiếu riêng lẻ ra công chúng.

Phát hành trái phiếu ra công chúng Phát hành trái phiếu riêng lẻ ra công chúng
– Mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ 30 tỷ đồng trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;

– Hoạt động kinh doanh của 02 năm liên tục liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán;

– Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán cổ phiếu được Đại hội đồng cổ đông thông qua;

– Tối thiểu là 15% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành phải được bán cho ít nhất 100 nhà đầu tư không phải là cổ đông lớn; trường hợp vốn điều lệ của tổ chức phát hành từ 1.000 tỷ đồng trở lên, tỷ lệ tối thiểu là 10% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành;

[theo khoản 1 Điều 15 Luật Chứng khoán 2019]

– Là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam.

– Thanh toán đủ cả gốc và lãi của trái phiếu đã phát hành hoặc thanh toán đủ các khoản nợ đến hạn trong 03 năm liên tiếp trước đợt phát hành trái phiếu [nếu có]; trừ trường hợp chào bán trái phiếu cho chủ nợ là tổ chức tài chính được lựa chọn.

– Đáp ứng các tỷ lệ an toàn tài chính, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy định của pháp luật chuyên ngành.

– Có phương án phát hành trái phiếu được phê duyệt và chấp thuận theo quy định tại Điều 13 Nghị định này [thẩm quyền phê duyệt và chấp thuận là Đại hội đồng cổ đông].

– Có báo cáo tài chính năm trước liền kề của năm phát hành được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán đủ điều kiện theo quy định tại Nghị định này.

– Đối tượng tham gia đợt chào bán phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật chứng khoán.

[theo khoản 1 Điều 9 Nghị định 153/2020/NĐ-CP]

===>>> Xem thêm: Lưu ý khi phát hành trái phiếu

Vay vốn từ các tổ chức tín dụng cũng là một trong những hình thức huy động vốn trong công ty cổ phần, thông qua hình thức này, các công ty cổ phần có thể có được các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đáp ứng nhu cầu về vốn trong sản xuất kinh doanh. 

Hình thức huy động vốn này có ưu điểm nổi trội hơn so với huy động vốn bằng việc phát hành trái phiếu là khi vay vốn ngân hàng nếu đến hạn trả nợ mà công ty chưa có khả năng trả thì có thể xin gia hạn nợ, nhưng nếu công ty phát hành trái phiếu thì phải có nghĩa vụ hoàn trả các khoản gốc và lãi khi trái phiếu đến hạn thanh toán.

Tuy nhiên để huy động vốn từ tín dụng ngân hàng đòi hỏi công ty phải đáp ứng điều kiện nhất định như tình hình tài chính lành mạnh, có phương án sử dụng vốn khả thi và có tài sản bảo đảm cho khoản vay.

===>>> Xem thêm: Dịch vụ thay đổi đăng ký kinh doanh

Trên đây là bài viết của các luật sư tư vấn luật doanh nghiệp về các hình thức huy động vốn trong công ty cổ phần. Xin lưu ý là sau thời điểm đăng bài này, các quy định của luật pháp có thể đã thay đổi. Hãy gọi điện tới TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT để được hỗ trợ kịp thời!

Trong bối cảnh kinh doanh sôi động, việc huy động vốn để kinh doanh là một công việc rất quan trọng của bất kỳ doanh nghiệp nào. Khi có nhu cầu huy động vốn, doanh nghiệp cần nắm bắt được các công việc cần làm hoặc liên hệ với Công ty Luật Thái An để cung cấp dịch vụ huy động vốn một cách nhanh chóng và hiệu quả. 

===>>> Xem thêm:

  • Dịch vụ thành lập công ty
  • Dịch vụ luật sư doanh nghiệp

  • Giới thiệu tác giả
  • Bài viết mới nhất

Luật sư tại Công ty Luật Thái An

Luật sư Đào Ngọc Hải, Trưởng Chi nhánh Thái Nguyên:• Có hơn 20 năm công tác giảng dạy tại Thái Nguyên• Thành viên Đoàn Luật sư TP. Hà Nội và Liên đoàn Luật sư Việt Nam • Tốt nghiệp khóa đào tạo Học Viện Tư Pháp - Bộ Tư PhápThẻ Luật sư số 12260/LS cấp tháng 8/2017• Lĩnh vực hành nghề chính: * Tư vấn luật: Doanh nghiệp, Đầu tư, Thương mại, Hôn nhân và gia đình, Đất đai

* Tố tụng: Dân sự, Hình sự, Kinh doanh thương mại, Hành chính, Lao động

Video liên quan

Chủ Đề