Ai là người ủng hộ lý thuyết giá trị - ích lợi?

Chắc hẳn mỗi chúng ta đều đã nghe qua về lý thuyết giá trị lao động, và nhất là trong sản xuất kinh doanh thì lí thuyết này lại càng đóng vai trò rất to lớn trong việc phân tích các giá trị lao động và để đo lường tính toán chính xác nhất. Nhưng lại rất ít ai biết rõ về Lý thuyết giá trị lao động là gì? Học thuyết giá trị lao động cụ thể là như thế nào? vậy nên nắm được nhu cầu của bạn đọc bài viết dưới đây do công ty Luật Dương Gia chúng tôi sẽ đưa ra các thông tin để giúp bạn đọc hiểu hơn về học thuyết giá trị lao động cũng như là ý nghĩa của nó trong cuộc sống của con người hằng ngày và đối với sản xuất kinh doanh. hãy theo dõi ngay dưới đây nhé.

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài trực tuyến 24/7: 1900.6568

1. Lý thuyết giá trị lao động là gì?

Chắc hẳn không ai là chưa từng nghe qua về lí thuyết giá trị lao động [Labor Theory Of Value] đây được hiểu đó là một nỗ lực ban đầu của các nhà kinh tế để giải thích tại sao hàng hóa được trao đổi với giá tương đối nhất định trên thị trường. Nó gợi ý rằng giá trị của một hàng hóa có thể được đo lường một cách khách quan bằng số giờ lao động trung bình cần thiết để sản xuất nó. Những người ủng hộ nổi tiếng nhất của lí thuyết lao động là Adam Smith, David Ricardo và Karl Marx.

Lí thuyết giá trị lao động cho rằng hai mặt hàng sẽ giao dịch với cùng một mức giá nếu chúng thể hiện cùng một lượng thời gian lao động, nếu không chúng sẽ trao đổi theo tỉ lệ cố định bởi sự khác biệt tương đối trong thời gian lao động của hai mặt hàng này.

Lí thuyết giá trị lao động trong tiếng Anh là ” Labor Theory Of Value” 

2. Học thuyết giá trị lao động:

Khi phát triển lí thuyết về giá trị lao động của họ, cả Smith [trong cuốn “Sự giàu có của các quốc gia”] và Ricardo bắt đầu bằng cách nghĩa ra một giả thuyết về “sự sơ khai và chính quyền đầu tiên” của loài người bao gồm việc sản xuất hàng hóa đơn giản. Ở nhà nước sơ khai này, chỉ có những người tự sản xuất trong nền kinh tế, tất cả đều sở hữu vật liệu, thiết bị và công cụ cần thiết để sản xuất. Không có sự phân biệt giai cấp giữa nhà tư bản, người lao động và chủ nhà, vì vậy khái niệm về vốn như chúng ta biết vẫn chưa được sử dụng. Họ lấy ví dụ đơn giản hóa về một thế giới chỉ có hai mặt hàng là hải ly và hươu. Nếu sản xuất hươu có lợi hơn hải ly, sẽ có sự chuyển đổi về sản xuất giữa người sản xuất hải ly sang sản xuất hươu.

Nguồn cung của hươu trao đổi bằng hiện vật sẽ tăng lên khiến thu nhập trong sản xuất hươu giảm, đồng thời thu nhập trong việc sản xuất hải ly tăng vì ít người làm công việc sản xuất đó. Trong khi Smith mô tả khái niệm và nguyên tắc cơ bản của LTV thì Ricardo quan tâm đến việc giá cả tương đối giữa các mặt hàng được chi phối như thế nào. Lấy lại ví dụ về sản xuất hải ly và hươu. Nếu phải mất 20 giờ lao động để tạo ra một con hải ly và 10 giờ lao động để tạo ra một con hươu, thì một con hải ly sẽ đổi lấy hai con nai, cả hai đều bằng 20 đơn vị thời gian lao động.

Chi phí sản xuất không chỉ liên quan đến chi phí trực tiếp ra ngoài và săn bắn, mà còn cả chi phí gián tiếp trong việc sản xuất các dụng cụ cần thiết như làm cái bẫy để bắt hải ly hoặc dùng cung và mũi tên để săn hươu. Tổng số lượng thời gian lao động được tích hợp theo chiều dọc – bao gồm cả thời gian lao động trực tiếp và gián tiếp. Vì vậy, nếu cần 12 giờ để làm bẫy hải ly và 8 giờ để bắt hải ly thì bằng 20 tổng số giờ lao động.

Mặc dù giá thị trường có thể dao động thường xuyên do cung và cầu tại bất kì thời điểm nào, giá tự nhiên đóng vai trò là trung tâm. Nếu giá thị trường vượt qua giá tự nhiên, mọi người sẽ được khuyến khích bán nhiều hơn. Trong khi giá thị trường đánh giá là thấp hơn giá tự nhiên thì người ta được khuyến khích mua nhiều hơn. Theo thời gian, sự cạnh tranh này sẽ có xu hướng đưa giá tương đối trở lại phù hợp với giá tự nhiên.

Marx bị lôi cuốn vào lí thuyết lao động vì ông tin rằng lao động của con người là đặc điểm chung duy nhất được chia sẻ bởi tất cả hàng hóa và dịch vụ trao đổi trên thị trường. Tuy nhiên đối với Marx, hai hàng hóa là không đủ để có số lượng lao động tương đương, thay vào đó, hai hàng hóa phải có cùng số lượng lao động cần thiết về mặt xã hội.

Xem thêm: Mất hồ sơ bằng lái xe máy có phải thi lại lý thuyết không?

Marx đã sử dụng lí thuyết lao động để đưa ra một phê phán gay gắt chống lại các nhà kinh tế học cổ điển trên thị trường tự do theo truyền thống của Adam Smith. Ông cho rằng, nếu tất cả hàng hóa dịch vụ trong một hệ thống tư bản được bán với giá phản ánh giá trị thực của chúng và tất cả các giá trị được đo bằng giờ lao động thì làm thế nào các nhà tư bản có thể hưởng lợi nhuận trừ khi họ trả cho công nhân ít hơn giá trị lao động thực của họ. Chính trên cơ sở đó, Marx đã phát triển lí thuyết khai thác của chủ nghĩa tư bản. Các nhà kinh tế học cổ điển không có câu trả lời cho đến khi Cách mạng Chủ nghĩa nổ ra.

3. Ý nghĩa của học thuyết giá trị lao động:

Thứ nhất, đối với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nếu cả lao động được tích lũy [tư bản] cũng tham gia vào việc tạo ra giá trị [chứ nó không chỉ giản đơn mang giá trị phần hao mòn vô hình của mình trong quá trình sản xuất sang hàng hóa mới được tạo ra], thì rõ ràng tồn tại “phần lợi nhuận hợp pháp” có nguồn gốc không phải từ lao động sống tự thân, từ hoạt động của sức công nhân, mà từ tư liệu sản xuất thuộc về nhà tư bản [không xét đến cùng]. Nhưng về lý thuyết, rất phức tạp để xác định “phần hợp pháp” đó. Cả công nhân lẫn nhà tư bản đều không mấy quan tâm trực diện chuyện này. Công nhân thì cho rằng, toàn bộ những gì được tạo ra đều phải thuộc về những người trực tiếp sản xuất như họ. Nhà tư bản lại cho rằng, khi đã trả cho giá trị của sức lao động [trả tiền cho việc sử dụng nó trong suốt thời gian thuê mướn, tức là dưới dạng cảm tưởng như tiền lương của toàn bộ lao động], thì nhà tư bản có quyền định đoạt toàn bộ sản phẩm được sản xuất ra, trong đó có cả sản phẩm thặng dư. Nhưng việc xác định được “phần hợp pháp” đó

Thứ hai, khi phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa thắng lợi, thì còn có thể xác định khách quan hơn phần sản phẩm xã hội tổng thể được dùng để thỏa mãn các nhu cầu chung của xã hội, và phần được phân phối theo lao động có tính đến độ dài thời gian, cường độ, và chủ yếu là độ phức tạp của chính lao động. Những nhận xét nêu trên giúp hé lộ ra nhiều điểm có ý nghĩa đối với học thuyết giá trị thặng dư. Mác đã gọi tập 4 của Tư bản là Học thuyết giá trị thặng dư. Do vậy sự tồn tại của sản phẩm thặng dư và giá trị thặng dư đối với Mác là không thể tranh cãi, hay Mác thẳng thắn thừa nhận sự tồn tại của chúng.

Trong thời gian lao động, người công nhân tạo ra không chỉ giá trị cần thiết cho sự tồn tại sức lao động của mình, của năng lực lao động ở nghĩa thông thường [bao gồm cả tồn tại của giống loài mình, của giai cấp những người sản xuất], mà cả phần giá trị thặng dư bị người sở hữu tư liệu sản xuất trực tiếp tước đoạt. Nếu những suy ngẫm mang tính phê phán nêu trên [không chỉ lao động, mà các yếu tố khác của sản xuất cũng tham gia tạo thành nguồn gốc của giá trị] là đúng, thì ngoài lao động sống là nguồn gốc chủ yếu của phần giá trị thặng dư, còn phải kể thêm vào đây các phương tiện được sử dụng trong quá trình sản xuất ra nó, và các yếu tố khác đã được nhắc tới ở trên. Và do vậy, không phải toàn bộ giá trị thặng dư đều thuộc về người chủ sở hữu phương tiện sản xuất [Mác gián tiếp nhắc nhở điều này khi ông hoạch định sự phân phối sản phẩm xã hội tổng thể ở giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa]. Một phần của nó, dưới dạng thuế khóa, sẽ được chi dùng để thỏa mãn các nhu cầu chung.

Như vậy chúng ta có thể thấy việc thực hiện nghiên cứu học thuyết giá trị, hiểu rõ quy luật giá trị sẽ có kiến thức điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa; kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Từ đó giúp cho chúng ta hiểu rõ nguyên nhân của việc lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa; nguyên nhân của sự phân hóa xã hội thành người giàu, người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội để có phương hướng, giải pháp khắc phục. qua đây chúng ta cũng thấy được các điểm chính của học thuyết nay từ đó có thể vận dụng vào thực tiễn.

Kinh tế học cổ điển hay kinh tế chính trị cổ điển là một trường phái kinh tế học được xây dựng trên một số nguyên tắc và giả định về nền kinh tế để giải thích các hoạt động kinh tế của xã hội loài người trong đó giả định quan trọng nhất là nền kinh tế có thể tự điều chỉnh dựa trên các quy luật tự nhiên của việc sản xuất và trao đổi hàng hóa. Đây là một trong những xu hướng tư tưởng kinh tế để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử phát triển các luận thuyết kinh tế. Nhiều quan điểm chủ đạo của trường phái này vẫn còn có ảnh hưởng đến tận ngày nay. Xu hướng tư tưởng của trường phái cổ điển bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ 17 và phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ 18 đến nửa cuối thế kỷ 19.

Mục lục

  • 1 Những người sáng lập
  • 2 Phương pháp luận
  • 3 Những đặc điểm riêng biệt
  • 4 Các giai đoạn phát triển
  • 5 Các nguyên lý cơ bản
  • 6 Xem thêm
  • 7 Nguồn tham khảo

Những người sáng lậpSửa đổi

Người đại diện đầu tiên và được xem là ông tổ của kinh tế cổ điển là William Petty [1623 – 1687], người Anh. Những công trình của ông chuyên về lĩnh vực thuế, hải quan và thống kê. Ông là một nhà kinh tế học được K. Marx đánh giá cao qua các tác phẩm kinh tế chính trị của ông. Những tên tuổi lớn của trường phái này gồm Adam Smith [1723-1790], David Ricardo [1772-1823], Thomas Malthus [1766-1834], John Stuart Mill [1806-1873]. Theo họ kinh tế chính trị là kinh tế được nhìn bằng con mắt của chính trị gia do đó khoa kinh tế chính trị học nghiên cứu về sự giàu có của các quốc gia và cách thức các quốc gia này làm tăng của cải lên.

Phương pháp luậnSửa đổi

Trường phái cổ điển đối lập với chủ nghĩa trọng thương trên nhiều phương diện, trong đó sự khác biệt biểu hiện ở phương pháp luận và đối tượng nội dung các luận thuyết. Thực tiễn giai đoạn phát triển kinh tế công xưởng lên công nghiệp hóa thể hiện sự trỗi dậy của lực lượng doanh nghiệp hoạt động trong sản xuất công nghiệp, đẩy hoạt động buôn bán và cho vay vào hàng thứ yếu. Với lý do đó đối tượng nội dung của nghiên cứu kinh tế học chuyển từ lĩnh vực giao thương sang lĩnh vực sản xuất. Phương pháp nghiên cứu dựa trên việc đề xuất các định đề thu nhận từ các quy luật sản xuất có thể quan sát. Có thể nói, trường phái cổ điển biến kinh tế chính trị thành một môn khoa học nghiên cứu những vấn đề kinh tế cơ bản nhất của một quốc gia trong đó trường phái này đề cao sự cạnh tranh tự do và cho đó là nền tảng để một nền kinh tế vận hành tốt đem lại sự giàu có cho một quốc gia. Chính từ trường phái này đã sản sinh ra môn khoa học kinh tế.

Tăng trưởng kinh tế và phồn thịnh xã hội được cho là phụ thuộc vào sự năng động và trạng thái cân bằng cung cầu của nền kinh tế quốc gia. Trường phái cổ điển cho rằng cân bằng cung cầu trong kinh tế có thể đạt được một cách tự động theo quy luật thị trường của Jean-Baptiste Say. Trường phái cổ điển coi tiền tệ là một dạng hàng hóa đặc biệt trong thị trường hàng hóa, và chúng không thể bị thay thế bởi những thỏa thuận giữa mọi người. Tuy nhiên, chức năng của tiền chỉ được đánh giá là phương tiện trao đổi mang tính kỹ thuật.

Ngoài ra, việc đơn giản hóa phân tích và hệ thống hóa đã làm cho kinh tế học hướng đến việc tạo ra các mệnh đề thuần túy kinh tế không tính đến các yếu tố tâm lý, đạo đức, luật pháp và các yếu tố xã hội khác.

Những đặc điểm riêng biệtSửa đổi

  1. Không công nhận chính sách bảo hộ mậu dịch của nhà nước và chú trọng phân tích các vấn đề của lĩnh vực sản xuất trong sự tách biệt khỏi lĩnh vực giao thương; đề xuất và áp dụng các phương pháp nghiên cứu tiến bộ như phương pháp nguyên nhân-hậu quả, suy diễn, quy nạp, logic trừu tượng. Tuy nhiên, việc đặt ra sự đối nghịch giữa hai lĩnh vực sản xuất và giao thương đã làm cho các nhà kinh tế học cổ điển đánh giá không đầy đủ những liên quan mật thiết giữa hai lĩnh vực đó, trong đó có ảnh hưởng của các yếu tố giao thương lên quá trình sản xuất.
  2. Dựa trên phương pháp phân tích nguyên nhân-hậu quả, tính toán các chỉ số kinh tế trung bình, các nhà "cổ điển" tìm cách làm sáng tỏ cơ cấu hình thành giá trị hàng hóa. Họ cho rằng dao động của giá cả trên thị trường không liên quan đến "bản chất tự nhiên" của tiền và số lượng của chúng, mà liên quan đến các chi phí sản xuất, hay nói cách khác, đến số lượng lao động bỏ ra.
  3. Phạm trù giá trị vào thời đó được đánh giá là mấu chốt của phân tích kinh tế, là gốc rễ để nảy mầm các phạm trù khác. Vấn đề giá trị hàm chứa các câu hỏi như sau: giá trị biểu hiện giống như một hiện tượng và các dạng thức của nó thế nào? Cơ sở, nguồn gốc hay nguyên nhân nào của giá trị? Giá trị có đại lượng hay không và cách xác định đại lượng đó như thế nào? Cái gì có thể dùng để đo giá trị? Giá trị thực hiện chức năng nào trong lý thuyết kinh tế? Ngoài ra, việc đơn giản hóa phân tích và hệ thống hóa đã làm cho khoa học kinh tế hướng đến phát minh các quy luật mang tính cơ học, tương tự như trong vật lý học, nghĩa là không tính đến các yếu tố tâm lý, đạo đức, luật pháp và các yếu tố xã hội khác.
  4. Tăng trưởng kinh tế và phồn thịnh xã hội được cho là không phải dựa vào nguyên tắc xuất siêu, mà là sự năng động và cân bằng trạng thái nền kinh tế quốc gia. Trong vấn đề này các nhà "cổ điển" không vận dụng các phương pháp phân tích toán học hay mô hình toán học để có thể chọn ra phương án tối ưu trong số các phương án về tình trạng kinh tế. Trường phái cổ điển cho rằng cân bằng trong kinh tế là có thể đạt được một cách tự động theo quy luật thị trường của Jean-Baptiste Say
  5. Từ lâu tiền tệ được cho là của con người tạo ra một cách chủ ý. Đến giai đoạn của trường phái cổ điển tiền tệ được cho là một dạng hàng hóa tách biệt từ trong thế giới hàng hóa, và chúng không thể bị thay thế bởi những thỏa thuận giữa mọi người. Tuy nhiên, chức năng của tiền chỉ được đánh giá là phương tiện trao đổi mang tính kỹ thuật.

Các giai đoạn phát triểnSửa đổi

Vấn đề xác định giai đoạn phát triển trường phái cổ điển được xem xét từ lâu. Thời điểm mở đầu của trường phái này được chấp nhận theo quan điểm của K. Marx và dường như không gây tranh cãi trong giới nghiên cứu lịch sử kinh tế. Tuy nhiên thời điểm kết thúc của nó thì Marx chỉ hạn chế bằng những tác phẩm của A. Smith và D. Ricardo. Các luận thuyết của các nhà nghiên cứu tiếp theo không được Marx công nhận là thuộc về trường phái này, và Marx gọi đó là Kinh tế chính trị tầm thường, mà những người đứng đầu của khuynh hướng này là Th. Malthus và J. B. Say. Quan điểm trên của Marx không được hưởng ứng bởi các nhà nghiên cứu khác, ví dụ như J. K. Gelbreyt – giáo sư trường đại học tổng hợp Harvard. Ông cho rằng ý tưởng của Smith và Ricardo vẫn còn tiếp tục phát triển đến tận giữa thế kỷ 19 với những tác phẩm nổi tiếng của J. S. Mill [1]. Ý kiến này được các nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng kinh tế Ben Celigmen, P. Samuelson và M. Blaug công nhận. Dựa vào những đặc điểm chung, đúc kết từ các luận thuyết của các nhà nghiên cứu tiêu biểu, có thể xem cách phân chia giai đoạn phát triển của trường phái này như sau:[2]

  • Giai đoạn 1: Từ cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18, bắt đầu bằng những tác phẩm lý luận của U. Petty – người Anh, và P. Buagilber – người Pháp, với những ý tưởng đối lập chủ nghĩa trọng thương. Đó là những người đầu tiên tìm cách giải thích nguồn gốc giá trị của hàng hóa và dịch vụ [bằng cách xác định lượng thời gian lao động và công lao động đã bỏ ra trong sản xuất]. Họ đã khẳng định ý nghĩa tiên quyết của nguyên tắc tự do đối với hoạt động kinh tế trong chính lĩnh vực sản xuất vật chất. Tiếp theo đó là sự xuất hiện chủ nghĩa trọng nông – một khuynh hướng thuộc về trường phái cổ điển mà đứng đầu là Francois Quesnay và Anne-Robert-Jacques Turgot – với những phê phán sâu sắc và đầy luận chứng đối với chủ nghĩa trọng thương, kéo dài trong 1/3 khoảng giữa thế kỷ 18. Trong giai đoạn đầu tiên này chưa có nhà kinh tế học đại diện nào có được lý luận đầy đủ về phát triển hiệu quả sản xuất trong công nghiệp và cả trong nông nghiệp.
  • Giai đoạn 2: kéo dài trong 1/3 khoảng cuối thế kỷ 18, là giai đoạn gắn liền với tên tuổi của nhà kinh tế học vĩ đại Adam Smith với tác phẩm "Sự giàu có của các dân tộc" [1776], đã đưa Kinh tế chính trị đến mức hoàn chỉnh của một môn khoa học. Những khái niệm "con người kinh tế" và "bàn tay vô hình" đã thuyết phục được nhiều thế hệ nghiên cứu kinh tế. Đến tận những năm 30 của thế kỷ 20 nhiều nhà kinh tế học còn tin vào sự đúng đắn của quan điểm laisez faire – không có can thiệp nhà nước vào tự do cạnh tranh. Những luận thuyết của A. Smith đã trở thành cơ sở để xuất hiện các lý thuyết hiện đại về hàng hóa, tiền tệ, tiền công lao động, lợi nhuận, tư bản, lao động sản xuất và các phạm trù khác.
  • Giai đoạn 3: trong nửa đầu thế kỷ 19, là giai đoạn chuyển bước từ sản xuất dạng công xưởng lên dạng nhà máy với việc cơ khí hóa các công đoạn sản xuất, diễn ra đặc biệt ở các nước phát triển như Anh và Pháp. Tiếp tục tư tưởng của Smith là các nghiên cứu của D. Ricardo, T. Malthus, N. Cenior, J.B. Say, F. Bastia
  • Giai đoạn 4: trong nửa cuối thế kỷ 19 – giai đoạn kết thúc của trường phái cổ điển với những tác phẩm của J. C. Mill và K. Marx. Tuy trong giai đoạn này bắt đầu hình thành khuynh hướng tư tưởng mới mà sau này được gọi là trường phái tân cổ điển, nhưng các lý luận phổ biến của các nhà cổ điển vẫn còn ảnh hưởng rất lớn trong phạm vi nghiên cứu kinh tế thời gian này.

Các nguyên lý cơ bảnSửa đổi

  • Con người chỉ được xem xét trên phương diện kinh tế với một nguyện vọng duy nhất: hướng đến lợi ích tư hữu để nâng cao vị thế của mình. Đạo đức, văn hóa, truyền thống và nhiều thứ khác không nằm trong tầm quan sát.
  • Mọi chủ thể tham gia vào quá trình kinh tế đều tự do và công bằng trước pháp luật, kể cả trên phương diện khả năng tiên liệu trước các vấn đề kinh tế.
  • Mọi chủ thể kinh tế đều nhận được thông tin đầy đủ về giá cả, mức lợi nhuận, tiền công lao động, giá thuê đất ở bất kỳ thị trường nào, ngay tại thời điểm hiện tại hay trong tương lai.
  • Thị trường đảm bảo ổn định tài nguyên: lao động và vốn có thể lập tức được đáp ứng tại nơi cần chúng.
  • Độ đàn hồi của lượng lao động theo giá tiền lương là không dưới 1, nghĩa là tiền công lao động tăng kéo theo tăng số lượng lao động; ngược lại, tiền công giảm thì lượng lao động cũng giảm.
  • Mục đích duy nhất của nhà tư bản là tối đa lợi nhuận từ vốn.
  • Trên thị trường lao động tồn tại sự mềm dẻo tuyệt đối của tiền công lao động, nghĩa là giá lao động chỉ được xác định bởi cung và cầu của thị trường lao động.
  • Yếu tố quan trọng làm tăng số lượng của cải là tích lũy tư bản.
  • Cạnh tranh phải là hoàn hảo, và nền kinh tế phải là hoàn toàn giải phóng khỏi sự can thiệp nhà nước, ở đó "bàn tay vô hình" sẽ điều phối tài nguyên một cách tối ưu.

Xem thêmSửa đổi

  • Kinh tế học tân cổ điển
  • Kinh tế chính trị

Nguồn tham khảoSửa đổi

  1. ^ Гелбрейт Дж.К. Экономические теории и цели обществаю М.:Прогресс, 1979
  2. ^ Я. С. История экономических теорий: учебник. - 4-е изд. перераб. и доп. – М.: ИНФА-М, 2004. - 480 с.

  • Samuel Hollander - Classical Economics [Oxford: Blackwell, 1987]
  • Белоусов В.М., Ершова Т.В. История экономических учений: Учебное пособие. Ростов-на-Дону: Феникс, 1999

Video liên quan

Chủ Đề