Bài giảng phương pháp nghiên cứu khoa học trong Y học

  1. Khái niệm và tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học. Khái niệm đề cương nghiên cứu và các bước xây dựng đề cương nghiên cứu. Thành phần của đề cương nghiên cứu. .pdf
  2. Phương pháp tìm kiếm, viết tổng quan và trích dẫn tài liệu tham khảo. .pdf
  3. Các thiết kế nghiên cứu cơ bản (định lượng & định tính). .pdf
  4. Phương pháp lựa chọn vấn đề nghiên cứu, viết tên đề tài và mục tiêu nghiên cứu .pdf
  5. Biến số, chỉ sỗ nghiên cứu. Kỹ thuật thu thập số liệu. .pdf
  6. Xây dựng công cụ nghiên cứu và quy trình tổ chức thu thập số liệu. .pdf
  7. Phương pháp chọn mẫu và tính toán cỡ mẫu. .pdf
  8. Tổng hợp, trình bày và phân tích, xử lý số liệu. .pdf .pdf .pdf
  9. Quản lý chất lượng nghiên cứu. Sai số, nhiễu và phương pháp khống chế. .pdf
  10. Đạo đức nghiên cứu. .pdf

Trong phần này, tôi muốn giới thiệu đến các bạn những bài viết mang tính hướng dẫn về phương pháp luận (methodology) trong nghiên cứu khoa học. Đây là những bài được trích từ những sách tôi đã xuất bản và những bài tiếng Anh tôi viết cho các tập san trong chuyên ngành xương. Tất cả đều được lưu trữ trong pdf file, nên các bạn có thể đọc rất dễ và có thể download về máy tính để tham khảo.

Bắt đầu nghiên cứu như thế nào

Giả dụ như bạn đã có một ý tưởng để làm nghiên cứu, bước kế tiếp là phải suy nghĩ làm sao để thực hiện ý tưởng. Nhưng để cho việc suy nghĩ cách thực hiện tốt, bạn cần phải rất cụ thể về chi tiết, và phải bắt đầu với câu hỏi nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu. Cách tiếp cận vấn đề sẽ được xây dựng trên cơ sở của mục tiêu nghiên cứu.

Immortal bias trong nghiên cứu y khoa

Đây là loại sai lệch khá phổ biến trong nghiên cứu y khoa, và nó có thể giải thích tại sao người tham gia các chương trình truy tìm ung thư (screening) có vẻ sống lâu hơn những người không tham gia, hay tại sao diễn viên điện ảnh được trao giải Oscar sống lâu hơn những người không được trao giải.

Phương pháp ước tính cỡ mẫu cho nghiên cứu khoa học

Một công trình nghiên cứu thường dựa vào một mẫu (sample).  Một trong những câu hỏi quan trọng nhất trước khi tiến hành nghiên cứu là cần bao nhiêu mẫu hay bao nhiêu đối tượng cho nghiên cứu.  “Đối tượng” ở đây là đơn vị căn bản của một nghiên cứu, là số bệnh nhân hay số tình nguyện viên.  Ước tính số lượng đối tượng cần thiết cho một công trình nghiên cứu đóng vai trò cực kì quan trọng, vì nó có thể là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của nghiên cứu.  Nếu số lượng đối tượng không đủ thì kết luận rút ra từ công trình nghiên cứu không có độ chính xác cao, thậm chí không thể kết luận gì được.  Ngược lại, nếu số lượng đối tượng quá nhiều hơn số cần thiết thì tài nguyên, tiền bạc và thời gian sẽ bị hao phí.  Do đó, vấn đề then chốt trước khi nghiên cứu là phải ước tính cho được một số đối tượng vừa đủ cho mục tiêu của nghiên cứu.

Phương pháp ước tính cỡ mẫu cho nghiên cứu khoa học: hỏi & đáp

Đây là một bài thuộc dạng vấn đáp về ước tính cỡ mẫu. Mỗi câu hỏi đi kèm với một câu trả lời, và có cả R codes để các bạn có thể có lời giải đáp rất thực tế.

Những ngộ nhận về ‘tính đại diện” trong nghiên cứu khoa học

Hầu hết những ai làm nghiên cứu lâm sàng đều từng trải qua các hội đồng xét duyện đề tài hay nghiệm thu, và tuyệt đại đa số đều nhận được lời phê bình là nghiên cứu không mang tính đại diện. Nhận xét này hàm ý nói kết quả nghiên cứu không có giá trị khoa học, và có khi nó được dùng như là một cách bác bỏ nỗ lực của nhà nghiên cứu. Nhưng trong thực tế, nhiều nghiên cứu không cần tính đại diện. Trong chương này tôi sẽ giải thích tại sao một nghiên cứu y học nghiêm chỉnh không nhất thiết phải có mẫu mang tính đại diện.

Diễn giải kết quả nghiên cứu khoa học như thế nào?

Một trong những khó khăn của người mới bắt đầu làm nghiên cứu khoa học là đọc và diễn giải một bài báo khoa học. Đối diện với một kết quả có ý nghĩa thống kê, câu hỏi kế tiếp là gì, và có thể tin vào kết quả này hay không, đó là những câu hỏi gai góc mà không phải lúc nào cũng có câu hỏi chính xác và đúng. Chương này sẽ điểm qua ba yếu tố quan trọng trong việc diễn giải kết quả nghiên cứu: yếu tố nhiễu, yếu tố bias, và yếu tố ngẫu nhiên.

Những sai sót và thiếu sót trong phân tích dữ liệu

Phân tích thống kê là một phần không thể thiếu được trong các nghiên cứu y khoa, nhất là nghiên cứu lâm sàng và dịch tễ học. Thống kê đã được ứng dụng trong y học từ những năm trong thập niên 1930s, nhưng thật ra từ thế kỉ 19 người ta cũng đã nghĩ đến việc sử dụng các thuật phân tích thống kê trong thử nghiệm lâm sàng. Mặc dù đã trải qua hơn 1 thế kỉ ứng dụng, nhưng cho đến ngày nay vẫn còn rất nhiều sai sót về phân tích thống kê trong các công trình nghiên cứu y học. Một số sai sót không ảnh hưởng gì đến kết luận của nghiên cứu, nhưng nhiều sai sót mang tính hệ thống thì có khi làm cho công trình nghiên cứu có một ý nghĩa hoàn toàn khác với kết luận của tác giả.

Năm “căn bệnh” trong khoa học hiện đại

Nếu ai hỏi tôi vấn đề lớn nhất của khoa học hiện nay là gì, tôi sẽ nói đó là vấn đề “reproducibility”, mà tôi dịch là “tái lập”. Rất nhiều kết quả nghiên cứu không được lặp lại, một phần là do sai sót, một phần nhỏ là do gian dối. Theo một phân tích công bố trên PLoS Biology thì vấn đề bất lập (irreproducibility) gây lãng phí lên đến 28 tỉ USD mỗi năm, và con số này chỉ tính riêng cho Mĩ (1). Đầu tháng 9 năm 2016, Trường Y Đại học Sydney mời tôi nói một bài về vấn đề tái lập, và chương này tóm tắt những ý trong bài nói chuyện đó để chia sẻ cùng các bạn.

Những vấn đề phương pháp trong các nghiên cứu về Covid-19

Đại dịch Covid-19 cùng những vấn đề liên quan đã là đề tài của hàng vạn nghiên cứu trên thế giới. Nhưng bên cạnh một số rất ít nghiên cứu có phẩm chất tốt và tầm ảnh hưởng cao, đa số nghiên cứu không có đóng góp gì quan trọng, thậm chí gây nhiễu y văn. Rất nhiều nghiên cứu có vấn đề về phương pháp và phương pháp luận, kể cả thiết kế, phân tích và diễn giải. Trong bối cảnh như thế, các nguyên lý của Y học Thực chứng (Evidence Based Medicine) có thể giúp cho việc đánh giá nghiên cứu và diễn giải kết quả nghiên cứu đầy đủ hơn. Trong bài này, tôi sẽ bàn qua việc áp dụng các nguyên lý này trong việc thẩm định nghiên cứu Covid-19. Các nghiên cứu Covid-19 sẽ được dùng để minh hoạ cho các khái niệm sai lệch (bias), độ nhạy của nghiên cứu, ý nghĩa trị số P, kiểm định nhiều giả thuyết và phát hiện dương tính giả, và ứng dụng phương pháp Bayes trong diễn giải kết quả nghiên cứu trái ngược nhau. Những tiêu chí đề ra trong bài này sẽ giúp cho việc đánh giá một công trình nghiên cứu có hệ thống hơn, và giúp rút ngắn hơn khoảng cách giữa nghiên cứu khoa học và ứng dụng lâm sàng.

Sách về phương pháp nghiên cứu:

Bài giảng phương pháp nghiên cứu khoa học trong Y học
Link: https://nxbhcm.com.vn/34/di-vao-nghien-cuu-khoa-hoc-365

Các loại nghiên cứuMục tiêu1. Mô tả được những thiết kế thường được sử dụng trong nghiên cứu khoa học y học vàhạn chế của mỗi loại nghiên cứu2. Trình bày được từng loại nghiên cứu có ảnh hưởng gì đến tính giá trị và tính tin cậycủa kết quả nghiên cứu3. Xác định được loại nghiên cứu thích hợp cho đề cương nghiên cứu của chính học viênMở đầuPhụ thuộc vào chúng ta đã biết gì về vấn đề nghiên cứu, có những câu hỏi khác nhau cầnđược đặt ra và tương ứng với các thiết kế nghiên cứu khác nhau. Việc chọn lựa thiết kếnghiên cứu phụ thuộc vào- Vấn đề thuộc loại gì?- Kiến thức đã biết được về vấn đề- Nguồn lực có được dành cho nghiên cứuThí dụ trong những vấn đề về quản lí y tế (thí dụ như việc quá tải của bệnh viện) chỉ cầnmô tả rõ ràng vấn đề và xác định các yếu cố góp phần cũng đủ cung cấp những thông tinđể hành động.Ðối với một số vấn đề quản lí y tế và nhiều loại nghiên cứu khác, có thể chúng ta cầnmuốn biết mối liên hệ giữa các biến số (thí dụ như ít ăn rau và ung thư đại tràng). Trongtrường hợp này chúng ta cần có nghiên cứu phân tích hay nghiên cứu thực nghiệm.Một số loại nghiên cứuCó nhiều cách phân loại nghiên cứu trong đó người ta thường chia làm 2 loại:- Các nghiên cứu khơng can thiệp: trong đó nhà nghiên cứu chỉ mơ tả và phân tích tìnhhình nhưng khơng can thiệp- Các nghiên cứu có can thiệp: nhà nghiên cứu tác động lên tình hình và đo lường kết quảcủa việc tác động (thí dụ như tiến hành chương trình giáo dục sức khoẻ và xem nó có tácđộng gì lên tỉ lệ tiêm chủng).Nghiên cứu không can thiệpNghiên cứu khơng can thiệp bao gồm nghiên cứu thăm dị, nghiên cứu mơ tả và nghiêncứu phân tíchNghiên cứu thăm dịNghiên cứu thăm dị là nghiên cứu trên quy mơ nhỏ trong thời gian ngắn khi chúng tachưa rõ về vấn đề hay tình hình cần phải nghiên cứuThí dụ: Uỷ ban quốc gia phòng chống AIDS muốn xây dựng dịch vụ tham vấn cho bệnhnhân AIDS và người nhiễm HIV nhưng không biết những nhu cầu của bệnh nhân cầnđược hỗ trợ. Ðể thăm dò những nhu cầu này, một số cuộc phỏng vấn sâu đã được tiếnhành với nhiều nhóm bệnh nhân và với các nhân viên y tế đã làm trong lãnh vực này. Trong nghiên cứu thăm dị người ta thường mơ tả và so sánh. Thí dụ nhà nghiên cứu cóthể mơ tả nhu cầu của từng nhóm bệnh nhân và so sánh nhu cầu về tham vấn của bệnhnhân nam và bệnh nhân nữ. Nghiên cứu thăm dị sẽ có giá trị tốt hơn nếu nhà nghiên cứucố gằng tiếp cận vấn đề từ nhiều hướng khác nhau.Nghiên cứu mô tảNghiên cứu mơ tả bao gồm việc thu thập và trình bày có hệ thống các số liệu nhằm cungcấp một bức tranh về một tình huống cụ thể.Nghiên cứu mơ tả có thể được tiến hành trên một quy mơ lớn hoặc quy mô nhỏ. Ở quymô nhỏ nghiên cứu mô tả bao gồm việc mô tả sâu các đặc tính của một số bệnh nhân haycác trạm y tế hoặc các dự án. Loại hình nghiên cứu này được gọi là nghiên cứu trườnghợp (case study) hay báo cáo ca bệnh (case report, case series). Ở quy mô lớn hơn và cáccuộc điều tra cắt ngang nhằm xác định sự phân bố của các biến số nhất định ở một thờiđiểm. Các đặc tính này có thể là các đặc tính thực thể, kinh tế xã hội hay hành vi củacộng đồng.Ðôi khi nhà nghiên cứu thường kết hợp sự mô tả dân số nghiên cứu với sự so sánh cácnhóm trong dân số. Mặc dù nghiên cứu này cũng sử dụng phương pháp so sánh tương tựnhư nghiên cứu phân tích, khi chỉ so sánh các nhóm dân số khác nhau, bản chất củanghiên cứu này vẫn là nghiên cứu mơ tả.Khác với các nghiên cứu phân tích nhằm tìm mối liên hệ giữa một yếu tố phơi nhiễm vàtình trạng bệnh tật, các nghiên cứu mơ tả, Nghiên cứu mơ tả nhằm báo động, tìm hiểumột số đặc điểm hay ước lượng quy mô của một vấn đề sức khoẻ hay tìm hiểu kiến thức,thái độ, hành vi của người dân về vấn đề đó để đề xuất các giải pháp can thiệp.Những nghiên cứu mô tả bao gồm: nghiên cứu ca bệnh, nghiên cứu loạt ca bệnh trongnghiên cứu lâm sàng và nghiên cứu trường hợp trong nghiên cứu sức khoẻ công cộng.Các nghiên cứu kiến thức, thái độ, hành vi hay các điều tra cắt ngang cũng là các nghiêncứu mô tả quan trọng. Các nghiên cứu mô tả tương đối phổ biến trong y văn và sau đâylà một số thí dụMột báo cáo loạt ca bệnh (case series) dựa trên việc mô tả bệnh sử và bệnh cảnh lâm sàngcủa 4 người đàn ông được nhập viện tại trung tâmY khoa của Ðại học California ở LosAngeles (UCLA) vì bệnh viêm phổi do Pneumocystic carinii. 6 Ðây là một vấn đề sứckhoẻ cần phải báo động vì loại viêm phổi này trước đây chỉ xuất hiện ở những người bịrối loạn hệ thống miễn dịch. Những nhà nghiên cứu tiến hành một nghiên cứu để xemđây là một vấn đề sức khoẻ mới hay chỉ là các trường hợp tương tự với những ca bệnhviêm phổi Pneumocystic carinii được phát hiện từ trước? Vấn đề sức khoẻ này có nhữngđặc điểm gì ?Một nghiên cứu trường hợp được tiến hành dựa trên việc mơ tả đặc điểm của một trạm ytế có hoạt động tương đối tốt nhằm rút ra các bài học về quản lí cho các trạm y tế 7. Ðây làmột nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn trong tình hình có nhiều trạm y tế cịn hoạt độngkém.Ở Anh quốc nhóm chăm sóc ban đầu (primary care groups) được đưa vào hoạt động từnăm 1999 và có một ngân quỹ thống nhất để chi trả cho các hoạt động y tế của bệnh nhânbao gồm cả chi phí nhập viện. Tuy nhiên người ta vẫn chưa rõ các thông tin nền(baseline) về sức khoẻ, kinh tế xã hội và tỉ lệ nhập viện của 66 nhóm chăm sóc ban đầunay ở thành phố Ln đơn. Vì vậy một nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành và cho thấy sự khác biệt đáng kể về kinh tế xã hội, y tế và thực hành của các nhóm và các thôngtin này được sử dụng cho việc lập kế hoạch và đánh giá dịch vụ y tế 8.Như vậy các nghiên cứu mơ tả có một giá trị thực tiễn hết sức to lớn và hồn tồn khơngkém nghiên cứu phân tích về giá trị khoa học. Tuy nhiên một số nhà nghiên cứu vì khơngnắm rõ mục tiêu nghiên cứu của mình nên thay vì thực hiện một nghiên cứu mô tả tốt họtiến hành một nghiên cứu phân tích kém. Thí dụ trong một nghiên cứu cắt ngang nhằmtìm hiểu mơ hình bệnh tật của một cộng đồng (đây là một nghiên cứu rất có giá trị đểthiết kế chương trình can thiệp y tế cho cộng đồng đó) nhà nghiên cứu khơng tập trungvào việc mơ tả các vấn đề sức khoẻ mà lại (thí dụ như) cố gắng tìm mối liên hệ giữa ungthư và hút thuốc lá và như vậy làm loãng giá trị của đề tài nghiên cứu bằng một phân tíchkém chất lượng và bị sai lệch.Nghiên cứu so sánh hay nghiên cứu phân tíchDịch tễ học phân tích (hoặc tìm ngun nhân) có nội dung tìm ngun nhân gây ra vấn đềsức khỏe trong dân chúng.Phương pháp áp dụng là phân tích các yếu tố ảnh hưởng làm gia tăng tỷ lệ bệnh trongmột dân số. Nguyên lí của phương pháp này là so sánh tỉ lệ mắc bệnh của hai nhóm dânsố: một dân số có tiếp xúc với yếu tố nguy cơ và một dân số không tiếp xúc với yếu tốnguy cơ. Nếu tỉ lệ mắc bệnh này khác biệt giữa hai nhóm (nghĩa là nguy cơ tương đốikhác 1) thì ta kết luận có thể có mối liên hệ giữa yếu tố tiếp xúc và bệnh tật. Mặc dầu rấtnhiều lãnh vực khoa học sinh học tham gia vào khảo sát nguyên nhân bệnh tật con ngườinhưng vai trò của dịch tễ học là độc đáo và không thể thay thế. Hơn nữa phương phápdịch tễ học thường đi đầu tìm ra các nguyên nhân. Các ngành khoa học khác sẽ đi theo đểtìm thêm chứng cứ ủng hộ. Thí dụ John Snow đã tìm ra cơ chế lây bệnh của dịch tả trướckhi các nhà vi sinh học tìm ra phẩy khuẩn tả – Doll và Hill tìm thấy vai trị của thuốc lágây bệnh ung thư phổi trước khi các nhà khoa học tìm thấy hóa chất sinh ung trong khóithuốc lá.Ðể có số liệu cụ thể, dịch tễ học phân tích có thể dùng các phương pháp điều tra thu thậpsau đây: Khảo sát ngun nhân trong cohortCóbệnhCó t iếpxúcKhôngbệnht0KhôngbệnhThời gianCóbệnhKhôngt iếpxúcKhôngbệnht0t1KhôngbệnhThời giant1Nghiên cứu đồn hệ là nghiên cứu nhằm tìm ra sự liên hệ giữa một yếu tố phơi nhiễm vàmột tình trạng sức khoẻ (thí dụ như một bệnh tật) bằng cách quan sát và so sánh nguy cơmắc bệnh giữa hai nhóm quần thể có tình trạng phơi nhiễm khác nhau. Một thí dụ kinhđiển của nghiên cứu đồn hệ là nghiên cứu các bác sĩ Anh quốc (The British Doctor'sstudy) được bắt đầu tiến hành vào năm 1951 trong đó 34.440 nam bác sĩ được hỏi vềtình trạng hút thuốc lá (có hay khơng) và được theo dõi về tử vong do ung thư phổi trongvòng 20 năm 3. Kết quả cho thấy nguy cơ tử vong hàng năm do ung thư phổi ở ngườikhông hút thuốc lá là 10/100.000 trong khi nguy cơ tử vong hàng năm do ung thư phổi ởngười hút thuốc lá là 140/100.000. Như vậy hút thuốc lá làm tăng nguy cơ ung thư phổilên 14 lần (nguy cơ tương đối là 14) và như vậy hút thuốc lá được gọi là yếu tố nguy cơ(hay nguyên nhân) của ung thư phổi.Tiền đề của nghiên cứu đoàn hệ là phải theo dõi đầy đủ một hiện tượng sức khoẻ củaquần thể trong thời gian khá dài (khơng có mất theo dõi - loss from follow-up). Ðây làkhuyết điểm chính của nghiên cứu đồn hệ và các thiết kế nghiên cứu khác (bệnh chứngvà cắt ngang) được đề xuất để khắc phục. Nếu được theo dõi đầy đủ, nghiên cứu đồn hệcó ưu điểm là trực quan và ít gây ra sai lệch do chọn lựa và sẽ có tính thuyết phục cao. Khảo sát ngun nhân bệnh chứng:Có t iếpxúcCóbệnhKhôngt iếpxúct0Thời giant1Có t iếpxúcKhôngbệnhKhôngt iếpxúct0Thời giant1Giả sử chúng ta khơng có điều kiện theo dõi 34.440 bác sĩ trong thời gian 20 năm nhưngchúng ta có điều kiện (a) biết chắc chắn một người có phải là một nam bác sĩ hay không(b) ghi nhận được thông tin của tất cả các trường hợp ung thư phổi xảy ra trên các nambác sĩ và (c) chọn một mẫu đại diện cho quần thể nam bác sĩ về phương diện hút thuốclá. Khi đó bằng phép tính số học đơn giản có thể chứng minh:sốchênhhútthuốcláởngườimắcbệnhsốchênhmắcbệnhởngườihútthuốclá== ORsốchênhhútthuốcláởngườikhôngmắcbệnh sốchênhmắcbệnhởngườikhônghútthuốcláVà như vậy chúng ta có thể ước lượng được nguy cơ tương đối mà không cần phải quansát trong thời gian dài.Nhằm tìm hiểu sự liên quan giữa sử dụng Oestrogen tổng hợp (OCE) và ung thư mội mạctử cung, một nghiên cứu bệnh chứng được tiến hành trong đó có 183 người bị ung thư nộimạc tử cung (nhóm bệnh) và 183 người khơng bị ung thư nội mạc tử cung (nhóm chứng)được hỏi tiền căn sử dụng OCE4 . Kết quả cho thấy trong nhóm bệnh có 55 người có tiềncăn sử dụng OCE (số chênh sử dụng OCE trong nhóm này là 55/128=0,43) và trongnhóm chứng có 19 người có tiền căn sử dụng OCE (số chênh sử dụng OCE trong nhómchứng là 19/164=0,12). Tỉ số của hai số chênh này là 0,43/0,12= 3,6. Con số này (3,6)cũng chính là số chênh mắc ung thư mội mạc tử cung của nhóm sử dụng OCE so vớinhóm khơng sử dụng OCE hay là mức tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung nếu sử dụngOCE.Nghiên cứu bệnh chứng tốt đòi hỏi phải thoả mãn 3 điều kiện đã nêu ở trên trong đó cóđiều kiện là phải có thơng tin về tất cả các trường hợp bệnh vì vậy nghiên cứu này thíchhợp cho các bệnh nghiêm trọng và tất cả các trường hợp bệnh đều phải nhập viện. Bệnhung thư là một thí dụ kinh điển của loại bệnh thích hợp cho nghiên cứu bệnh chứng. Nếu nghiên cứu bệnh chứng không thoả mãn được 3 điều kiện trên sẽ bị sai lệch (biased). Hơnthế nữa, khi tiến hành nghiên cứu bệnh chứng, nhà nghiên cứu phải chuẩn bị rất chu đáovề mặt kĩ thuật vì khơng dễ dàng thuyết phục được cộng đồng khoa học đều đồng ý rằngnhóm chứng là thực sự đại diện cho quần thể không mắc bệnh. Tuy nhiên nghiên cứubệnh chứng có ưu điểm là tiến hành nhanh, ít tốn kém đặc biệt trong nghiên cứu các bệnhhiếm và có thời gian tiềm tàng kéo dài.Nghiên cứu cắt ngangTrở về thí dụ nghiên cứu sự liên hệ giữa hút thuốc là và ung thư phổi, chúng ta có thểkhơng cần thời gian theo dõi trong suốt thời gian từ 1951 đến 1971 mà chỉ cần tiến hànhmột cuộc điều tra ở thời điểm 1971, ghi nhận thông tin về hút thuốc và ung thư phổi vàcó được kết luận tương tự như nghiên cứu đoàn hệ nếu chúng ta giả định được rằng (a)Tất cả các trường hợp ung thư phổi chẩn đốn trong giai đoạn 1951 đến 1971 đều cịnsống cho đến năm 1971 (b) Việc mắc ung thư phổi khơng làm thay đổi thói quen hútthuốc lá của bác sĩ mắc bệnh (nghĩa là nếu họ hút thuốc lá rồi bị ung thư phổi thì họ vẫntiếp tục hút thuốc lá và nếu họ khơng hút thuốc lá thì sau khi ung thư phổi vẫn tiếp tụckhông hút thuốc lá). Như vậy, nghiên cứu cắt ngang thường ít được sử dụng cho cácbệnh nghiêm trọng như ung thư, bệnh nhiễm trùng, tai nạn. Những bệnh thích hợp chonghiên cứu cắt ngang bao gồm rối loạn có tính chất định lượng và ít gây tử vong (béophì, suy dinh dưỡng, bất dung nạp đường huyết, tăng huyết áp thể nhẹ hay trung bình).Một nghiên cứu cắt ngang được tiến hành ở Bavaria, cộng hoà liên bang Ðức nhằm đánhgiá tác động của bú sữa mẹ (trong thời kì nhũ nhi) lên nguy cơ béo phì (vào cuối tuổi nhàtrẻ) bằng cách sử dụng các số liệu chiều cao, cân nặng và bộ câu hỏi về dinh dưỡng của9357 trẻ từ 5-6 tuổi được khám sức khoẻ trước khi nhập học 5. Ở trẻ khơng được bú mẹ,tỉ lệ béo phì là 4,5% trong khi đó ở trẻ được bú mẹ tỉ lệ béo phì là 2,8%. Tác giả kết luậnrằng bú sữa mẹ làm giảm nguy cơ béo phì ở cuối tuổi nhà trẻ. Mặc dù đây là nghiên cứucắt ngang nhưng có tính giá trị tốt do thoả mãn được hai giả định của nghiên cứu cắtngang (a) đứa trẻ bị béo phì khơng bị tăng nguy cơ tử vong và (b) việc trẻ bị béo phìkhơng ảnh hưởng gì đến việc bú sữa mẹ ở giai đoạn nhũ nhi.Tóm lại nghiên cứu cắt ngang có ưu điểm là đơn giản và ít tốn kém. Tuy nhiên nó chỉ cóthể áp dụng được cho các bệnh tật có tính chất định lượng, phổ biến, ít gây tử vong vàcác yếu tố nguy cơ ít biến động.Nghiên cứu can thiệpTrong nghiên cứu can thiệp nhà nghiên cứu tác động lên tình hình và đo lường kết quảcủa việc tác động. Thơng thường có hai nhóm được so sánh,nhóm được can thiệp (thí dụnhư được điều trị với một loại thuốc) và nhóm khơng được can thiệp (nhóm sử dụng giảdược).Nghiên cứu can thiệp được chia thành nghiên cứu thực nghiệm và nghiên cứu bán thựcnghiệmTrong nghiên cứu thực nghiệm, các cá nhân được chia ngẫu nhiên thành (ít nhất) hainhóm. Một nhóm được nhận can thiệp (nhóm thử nghiệm) và một nhóm khơng đượcnhận can thiệp (nhóm chứng). Kết cuộc của can thiệp được tính từ việc so sánh kết quả ởhai nhóm.Nghiên cứu thực nghiệm có 3 đặc tính: - Thao tác- Có nhóm chứng- Chia nhóm ngẫu nhiên: sức mạnh của nghiên cứu thực nghiệm chính là việc chia nhómngẫu nhiên giúp loại bỏ yếu tố gây nhiễu.Nghiên cứu bán thực nghiệm là nghiên cứu có sự thao tác của nhà nghiên cứu nhưngthiếu một trong hai đặc tính cịn lại của nghiên cứu thực nghiệm (thí dụ như khơng cónhóm chứng hay khơng được chia nhóm ngẫu nhiên.Nghiên cứu thực nghiệm có thể được chia làm 3 loại:1- Thử nghiệm lâm sàng: là nghiên cứu trên đối tượng bệnh nhân. Loại nghiên cứu baogồm việc thử nghiệm một điều trị mới hay một biện pháp dự phòng các di chứngtrên bệnh nhân nhằm đánh giá hiệu quả của việc điều trị hay dự phòng kể trên.2- Thử nghiệm thực địa là việc can thiệp trên người chưa có bệnh. Loại nghiên cứu nàychủ yếu đánh giá các biện pháp dự phịng.Để nghiên cứu có tính xác hợp người tathường chỉ sử dụng thử nghiệm thực địa để đánh giá các giải pháp can thiệp dựphòng cho các bệnh bệnh phổ biến hay trầm trọng. Các thử nghiệm vaccine là mộtloại thử nghiệm thực địa phổ biến nhất.3- Can thiệp cộng đồng tương tự như thử nghiệm thực địa nhưng có đặc điểm là biệnpháp can thiệp được áp dụng cho cả cộng đồng chứ khơng phải có một cá nhânđơn lẻ. Can thiệp cộng đồng áp dụng khi biện pháp can thiệp này chỉ có thể ápdụng cho quy mơ cộng đồng thí dụ như việc đánh giá hiệu quả của việc cải tạo vệsinh môi trường trong việc phịng chống sốt rét.Nghiên cứu can thiệp chính thống có 3 đặc điểm quan trọng: có việc can thiệp chủ độngvà đặc hiệu cho nghiên cứu, có nhóm đối chứng và sử dụng việc phân nhóm ngẫu nhiênđể đưa các đối tượng vào nhóm can thiệp và hay nhóm đối chứng đối chứng. Nghiêncứu can thiệp khơng có đủ 3 đặc tính trên được gọi là nghiên cứu bán can thiệp (quasiexperiment). Việc sai lệch thông tin trong nghiên cứu can thiệp có thể được giảm thiểunếu với phương pháp mù đơn (có nghĩa là làm sao cho đối tượng khơng biết loại điều trịcủa cá nhân mình) hoặc mù đôi (cả đối tượng điều trị và nhà nghiên cứu đều không biếtloại điều trị được thực hiện trên từng cá nhân). Tuy nhiên tính chất mù của nghiên cứucan thiệp không phải là yêu cầu tuyệt đối.Do nghiên cứu thực nghiệm có chia làm 2 nhóm can thiệp và nhóm chứng bằng phươngpháp chia nhóm ngẫu nhiên, sẽ phân bố đều yếu tố gây nhiễu trong 2 nhóm và hạn chếvai trị của yếu tố gây nhiễu, đặc biệt khí cỡ mẫu đủ lớn. Đó là lí do tại sao những bằngchứng từ nghiên cứu thực nghiệm được đánh giá cao.Tính giá trị và tính tin cậy của kết quả nghiên cứuTính giá trị nghĩa là kết luận của nghiên cứu là đúngTính tin cậy là nếu ai đó sử dụng cùng phương pháp nghiên cứu trong cùng một hồncảnh sẽ có kết luận tương tự. Giátrị - không tin cậyGiá trị và chínhxácKhông giá trị - không tin cậy