Bài thơ chợ Tết của Đoàn Văn Cừ phác hóa bức tranh như thế nào

Thời tiền chiến, Đoàn Văn Cừ chỉ mới có một số bài thơ đăng rải rác trên báo. Thế nhưng, trong cuốn “Thi Nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã giới thiệu 4 bài thơ của Ông với những lời nhận xét đầy trân trọng: “Trong lúc nhà thơ đồng quê, không ai có ngòi bút dồi dào mà rực rỡ như Đoàn Văn Cứ”.

Hãy đến với bài thơ “Chợ tết”. Đầu thế kỉ 20, Nguyễn Khuyến có bài thơ “Chợ Đồng” viết về cảnh chợ tết của làng quê thân thuộc nơi Ông sinh ra và lớn lên:

“… Dở trời mưa bụi còn hơi rét,

Nếm rượu tường đến được mấy ông?

Hàng quán người về nghe xao xác,

Nợ nần năm hết hỏi lung tung…

Chợ tết diễn ra trong mưa bụi, mưa phùn và rét. Chị nghe tiếng đòi nợ cất lên “lung tung”. Chợ tết và lòng người sao mà buồn và “xao xác” thế! Đó là một trong những cảnh lầm than của dân tộc và đất nước ta dưới thời Pháp thuộc.

Còn phiên chợ tết được nói đến trong thơ Đoàn Vãn Cừ lại tưng bừng tươi vui. Bài thơ được viết vào những năm 1936-1939, thời kì nền kinh tế Việt Nam phát triển nhất trước Cách mạng. Nông thôn được mùa liên tiếp nhiều năm. Hiện thực ấy đã được phản ánh một cách sinh động, nên thơ trong bài “Chợ Tết”. Đó là điều cần biết để cảm hiểu bài thơ này.

“Chợ tết” gồm có 44 câu thơ, viết bằng thể thơ 8 tiếng, sử dụng vần chân, hai câu đi liền nhau một vần; vần bằng, vần trắc nối tiếp, luân chuyển. Bài thơ có 3 phần:

  • 15 câu đầu: Cảnh bình minh đi chợ tết.
  • 23 càu giữa: Cảnh chợ tết đông vui.
  • 6 câu cuối: Cảnh chiều tàn, chợ tan, người ra về.

Đó là bố cục – kết cấu theo vận động của thời gian và không gian. Qua đó, nhà thơ như dẫn người đọc cùng đi chợ tết, được sống lại một không khí đẹp của làng quê xa xưa, hơn 60 năm về trước.

Cảnh bình minh đi chợ tết.

Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên làng quê lúc mờ sáng, một buổi sáng đẹp trời. Có “mây trang đỏ chín ”, có núi, có “sương hồng lam”, có nhà gianh. Các từ ngữ “nhỏ dần ” và “ôm ấp” là hai nét vẽ gợi tả mây và sương rất hữu tình biểu cảm. Bầu trời và cảnh vật cứ đỏ dần. hồng lên dán lúc mờ sáng:

Xem thêm:  Kể về giấc mơ gặp lại người thân đã xa cách lâu ngày

“Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,

Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh Bốn màu được phối sắc hài hòa: trắng, đỏ, hồng. lam. Hình ảnh đỉnh núi có mây vờn. nóc nhà tranh có sương ôm ấp gợi lên vẻ đẹp bình dị, thân thuộc đối với chúng ta.

Chín câu thơ tiếp theo tả con đường đi chợ tết rất đẹp “viền trắng mép đồi xanh ”; rất vui: “Người các ấp tưng bừng ra chợ tết”. Tưng bừng nghĩa là vui vẻ, náo nhiệt, cảnh đi chợ tết vui như đi hội:

“Trên con đường viền trắng mép đồi xanh,

Người các ấp tưng bừng ra chợ tết.

Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc”.

Màu trắng con đường, màu xanh của đồi, màu biếc của cỏ như quấn quýt lấy bàn chân người đi chợ tết. Hai chữ “kéo hàng” dùng rất “đắt” gợi lên dòng người đông vui nối đuôi nhau đi chợ tết như trẩy hội. Những câu thơ tiếp theo như đoạn phim cận cảnh làm hiện lên cảnh người đi chợ tết. Là những thằng cu “áo đò chạy lon xon”, nhỏ bé, hồn nhiên hớn hớ. Là vài cụ già phúc hậu lưng còng chống gậy “bước lom khom”. Là những nàng thôn nữ duyên dáng, tình tứ xinh tươi “yếm thắm che môi cười lặng lẽ”. Là thằng em bé lần đầu được đi chợ tết, nhiều ngỡ ngàng và rụt rè “nép đầu bên yếm mẹ”. Trời mỗi lúc một sáng rõ, người đi chợ phải “chạy”, phải “đuổi” rất vội vã, vội vàng. Cảnh đi chợ sống động hẳn lên:

“Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu,

Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau”.

Người đi chợ tết đông vui, có già trẻ trai gái, có đàn ông, đàn bà, có người đi chơi, có người đi sắm tết. có người gồng gánh bán hàng. Mỗi người một dáng điệu, một cử chỉ rất mộc mạc, hiền lành, chất phác đáng yêu. Thật đúng là “màu nào nét nào cũng ngộ nghĩnh vui [Hoài Thanh].

Dòng người đi chợ tết hiện ra trong cảnh bình minh tráng lệ. cảnh vật được so sánh và nhân hóa vừa đẹp tươi vừa đầy sức sống như chia vui cùng lòng người. Những giọt sương trắng “như giọt sữa”, một vẻ đẹp ngọt ngào. Cách so sánh mới mẻ, sáng tao. Lúa xanh ướt đẫm sương đêm phản chiếu ánh bình minh lấp la lấp lánh. Tia nắng sắc “tia” như đang reo vui với dòng người đi chợ tết. nên “nháy hoài trong nộng.lúa”. Núi khoác chiếc áo the xanh cũng “nhấn mình” làm duyên. Những trái đồi ứng lên dưới ánh bình minh như “đang” khoe sắc. Tia nắng, núi, đồi được nhân hóa trở nên xinh đẹp, hữu tình, đáng yêu. Đáy là bức tranh màu về núi đồi trung du, bức tranh rạng dông thanh bình, ấm áp. Ta ít gặp một cảnh sắc đầy thi vị như thế trong “Thơ mới” trước Cách mạng. Thơ đầy sắc màu tươi tắn

“Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa,

Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa”.

Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh,

Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh”.

Cảnh chợ tết đông vui

Đoàn Văn Cừ đã dành 23 câu thơ tả cảnh chợ tết họp đông vui. Giữa cảnh chợ đông vui nhộn nhịp, con trâu vốn hiền lành thế mà vẫn không kém phần “tinh quái”, giả vờ ngủ để “lắng nghe” chuyện người. Thật là hóm hỉnh:

” Người mua bán ra vào đầy cổng chợ,

Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ,

Để lắng nghe người khách nói bô bô”.

Có rất nhiều người mua bán và đi chơi chợ tết. Có anh hàng tranh “kĩu kịt quầy đòi bồ…”. Cạnh thầy khoá “tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân”, là cụ đồ nhỏ râu cằm” ung dung, đắc ý “miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ”. Cảnh chợ tết là nét đẹp của nền văn hóa lâu đời được ghi lại một cách đạm đà, ý vị.

Đây là bức chân dung bà cụ lão, bức truyền thần tuyệt tác:

“Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,

Nước thời gian gội tóc trắng phau phau”.

Miếu cổ như cái khung, cái nền làm cho bức vẽ truyền thần thêm cổ kính. Tuổi tác và thời gian năm tháng đã làm cho bà cụ lão “tóc trắng phau phau” – một vẻ đẹp phúc hậu, bền bỉ. Miếu cổ như một chứng tích, bà cụ lão như một chứng nhân về chợ tết đồng quê, về cuộc sống yên bình tồn tại dã láu dời trong dân gian. Tác giả không viết: “Màu thời gian” mà lại nói: “Nước thời gian”, thế nên cách dùng từ sáng tạo mới mẻ.

Xem thêm:  Giải pháp giáo dục đạo đức, tác phong cho học sinh hiện nay

Kẻ mua, người bán, người đi chợ tết, trăm người trăm vẻ. Là chú hoa man “đầu chít chiếc khăn nâu” ngồi bán vàng mã. Là cụ lí bị chen lấn, bị kéo áo, chiếc khăn trên đầu “tung ra” thật buồn cười. Là lũ trẻ mải mé hổn nhiên ngắm tranh tết. là mấy cô gái ”võ tâm”, say sưa quá đỗi:

“Mấy cô gái gái ôm nhau cười rũ rượi ”Cạnh anh chàng bán bán dưới cây đa”.

Nông sản bày bán nhiều và tươi ngon. Cam “đỏ chót tựa son pha”. Gao nẽp trắng thơm “đong đầy như núi tuyết”. Con gà sống “mào thâm như cục tiết”. Ba hình ảnh so sánh rất đẹp, gợi tả đặc sản phong phú của một miền quê ấm no, thanh bình, cho thấy thơ của Đoàn Văn Cừ “đầy rẫy sự sống và rộn rịp những hình sắc vui tươi ”

“Những mẹt cam đỏ chót lựa pha son.

Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết,

Con gà sống mào thâm như cục tiết.

Một người mua cầm cằng dốc lên xem”.

Cảnh và người trong phiên chợ tết là cà “một thế giới linh hoạt” thể hiện cái tài quan sát tỉ mỉ, cách nhận xét tinh tế, hồn thơ phong phú, chân cầm, tài hoa. Nét vẽ nào cũng sống dộng, lung linh rực rỡ sắc màu, ú nhiéu hóm hỉnh, ngộ nghĩnh.

Sáu câu cuối là cảnh chợ tan: “Những người quê lũ lượt trở ra về” khi chiều đã tàn. Tiếng chuông chùa vãng váng xa đưa. Tiếng lá đa rụng trong màu vàng của ánh dương “kéo lê thê” trên cỏ. Chợ tan cũng như hội tàn. phảng phất một nỗi buồn man mác:

“Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê.

Lá đa rụng tơi bời quanh xóm chợ”.

Quán chợ trống trơn, vắng vẻ mới nghe rõ tiếng lá đa rụng. Chữ “the thé’ và “tơi bởi” có giá trị gợi không khí vắng lặng buồn của cảnh chợ tan. ngày tàn Người đọc cảm thấy hồn mình nhập vào một thế giới mộng, lòng xao xuyến bâng khuâng. Một nét đẹp của đồng quê ngày xưa chỉ còn trong mộng.

Bài “Chợ tết” của Đoàn Văn Cừ đẹp như một bức cổ họa đầm ấm, dịu dàng… Bức tranh đồng quê rực rỡ sắc màu ấy nay đã phủ mờ trong thời gian và hoài niệm. Chợ tết, một nét đep của hồn quê, đáng yêu và đáng nhớ.

Đọc lại Chợ Tết ta bỗng thấy hân hoan, vui thích bởi sự chuyển động của không gian, sắc màu và con người. Đoàn Văn Cừ đã trình bày cho ta biết một “bản nguyên sống” trong sự tồn tại hồn nhiên, bề bộn mà lại nhịp nhàng của đời sống.

Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh, Trên con đường viền trắng mép đồi xanh, Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết. Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc; Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon, Vài cụ già chống gậy bước lom khom, Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ. Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ, Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu,

Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.

Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa, Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa, Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh, Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh. Người mua bán ra vào đầy cổng chợ. Con trâu đứng vờ rim hai mắt ngủ, Để lắng nghe người khách nói bô bô. Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ, Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán. Một thầy khoá gò lưng trên cánh phản, Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân. Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm, Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ. Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ, Nước thời gian gội tóc trắng phau phau. Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu, Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu. Áo cụ lý bị người chen sấn kéo, Khăn trên đầu đang chít cũng bung ra. Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà, Quên cả chị bên đường đang đứng gọi. Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi, Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa. Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha. Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết, Con gà trống mào thâm như cục tiết,

Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.

Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm, Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh, Trên con đường đi các làng hẻo lánh, Những người quê lũ lượt trở ra về. Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê,

Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.

Đoàn Văn Cừ – 1939.Bài thơ đăng lần đầu trên báo Ngày nay.

Đọc lại bài thơ ta tưởng như còn nghe thấy tiếng cười khúc khích, hóm hỉnh, lại rất hiền lành của một nhà thơ thôn dã. Chép lại bài thơ và tìm hiểu nó, tôi coi như một niềm thành kính, một nén tâm hương tưởng nhớ đến con người của những vẻ đẹp thôn ca bình dị.

Trong biểu tượng văn hóa thế giới: chợ, theo quan niệm của Trung Hoa cổ vừa là nơi trao đổi, mua bán, còn là địa điểm hẹn hò yêu đương, nơi diễn ra các nghi lễ cầu mưa, sản xuất dồi dào, cầu trời phù hộ… Từ điển còn cho biết điều này đúng đến mức nếu muốn trời thôi mưa phải cấm phụ nữ bước vào chợ. [Nói cho vui: Cấm chị em đi chợ thì chợ thiệt, đàn ông thiệt [vì bếp đói], chị em cũng chẳng vui vẻ gì: “Môn thể thao ưa thích nhất của phụ nữ là đi chợ”! Riêng với chợ trong những ngày Tết thì không chỉ có chị em]. Thực ra, vẫn theo biểu tượng văn hóa thế giới, chợ còn là nơi giao hòa âm dương, là địa điểm thái bình.

Cấu trúc không gian của bài thơ hài hòa và tấp nập, đan xen thanh bình giữa thiên nhiên và con người. Bài thơ gồm ba khổ: khổ 1, 15 dòng; khổ 2, 23 dòng; khổ 3, 6 dòng được ngăn cách bởi các dấu sao. Khổ 1 và khổ 3 đều có thiên nhiên và con người. Riêng khổ 2, trung tâm của bài thơ, [lớn nhất], chỉ dành để quan sát, miêu tả con người trong những cử chỉ, dáng điệu, âm thanh [cười, nói] cùng những hoạt động của họ. Nếu như ở khổ 1, số dòng thơ tương đối cân bằng giữa thiên nhiên và con người [8/7] trên đường đến chợ; thì ở khổ 3 thiên nhiên lấn át con người [5/1]: cảnh chợ vãn, [gợi nhớ đến Hai đứa trẻ của Thạch Lam].

Trong khổ 2, chợ xuất hiện thay chỗ cho thiên nhiên; “người kể chuyện” hướng cái nhìn đôn hậu của mình vào đối tượng là con người để “tự sự”. Không gian trong văn bản nghệ thuật là “tổng hợp của các đối tượng cùng loại” và “giữa chúng có các quan hệ giống các quan hệ không gian thông thường [tính liên tục, khoảng cách…]” [Yu. Lotman]. Những từ ngữ chỉ quan hệ không gian [trên, dưới, trong, ngoài] trong thơ Đoàn Văn Cừ “chuyển kênh” rất từ tốn, nhẹ nhàng, chậm rãi cùng với một lễ hội của sắc màu tươi vui, rực rỡ: “Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, / Sương hồng lam ôm ấp mái nhà tranh, / Trên con đường viền trắng mép đồi xanh”. Từ không gian tĩnh, khách quan được tiếp xúc từ xa này chúng ta chuyển sang không gian động, chủ quan được tiếp xúc thân mật, gần gũi qua những động từ có tính chất vận động: “Sương trắng dỏ đầu cành như giọt sữa, / Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa, / Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh, / Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh”. Trong cả hai cảnh trên không gian được xếp theo trục thẳng đứng trên – dưới: từ đỉnh núi xuống đến con đường; từ đầu cành đến trong ruộng lúa, từ núi xuống đồi. Khu vực tiếp xúc sáp lại dần cho đến không gian công cộng nơi sinh hoạt của con người.

Cùng với sự vận động của thiên nhiên, là con người “tưng bừng ra chợ Tết”: nam, phụ, lão, ấu và có lẽ người bán nhiều hơn cả người mua [chỉ đến cuối khổ 2 [dòng 38] mới thấy có: “Một người mua cầm cẳng dốc lên xem” một con gà. Ngoài ra, từ bán vẫn áp đảo: anh hàng tranh ngồi dở bán; bà cụ lão bán hàng; anh chàng bán pháo]. Người ta đi xem Chợ Tết cùng với âm thanh nhiều cung bậc: cười lặng lẽ; nói bô bô; nhẩm đọc; cười rũ rợi…

Có hai câu đứng độc lập một cách độc đáo: không liên hệ với trước nó và cũng không liên hệ với sau nó. Mở đầu khổ 2: “Người mua bán ra vào đầy cổng chợ.” [dòng 16] và mở đầu khổ 3: “Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm.” [dòng 39]. Cả hai câu đều đứng ở đầu mỗi khổ để thông báo ngắn gọn về cái sắp diễn ra và cái sẽ kết thúc. Sau câu 16 trở đi, thì gần như cứ luân phiên một dòng có dấu phảy đến một dòng có dấu chấm thành một cặp câu đủ tạo nên một bức tranh: “Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ, / Để lắng nghe người khách nói bô-bô.” Rồi: “Anh hàng tranh kĩu-kịt quảy đôi bồ, / Tìm đến chỗ đông người ngồi dở bán.”… Cứ như thế, cả khổ 2 người đọc sẽ được thưởng thức 10 cảnh rất vui về hoạt động của con người với những âm thanh, cử chỉ cùng sắc màu. Cũng với dấu chấm câu rất cẩn thận như vậy: 4 câu đầu và 4 câu cuối của khổ 1 là những bức tranh hoàn chỉnh về thiên nhiên “nằm dưới ánh bình minh” mà ở giữa đó là con người.

Cặp câu kết của bài thơ vẫn có màu sắc nhưng đã bớt nhiều tươi vui: “Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê-thê, / Lá đa rụng tơi-bời quanh quán chợ.” Những từ láy lê-thê, tơi-bời vần bằng có chút gì đó của thê lương, ảm đạm đối lập hẳn với không khí náo nhiệt bên trên.

Nhận xét về câu kết trong thơ Đoàn Văn Cừ, các tác giả của Thi nhân Việt Nam đã viết: “Những câu ấy đều khép lại một thế-giới và mở ra một thế-giới: khép một thế-giới thực, mở một thế-giới mộng. Cảnh vừa tan thì trong lòng cũng vừa nhóm. Mắt ta không thấy gì nữa nhưng lòng ta bỗng bâng-khuâng”.

Cái “thế-giới mộng” ấy có lẽ còn nằm ở nguyên tắc phối màu của bài thơ. Chúng tạo thành những bức tranh được “lắp ghép” liền kề nhau, “độc lập” bên nhau, hối hả, náo nhiệt. Một khu triển lãm trưng bày sắc màu mà gam chủ đạo là màu nóng ấm: màu đỏ. [Màu đỏ trong biểu tượng văn hóa thế giới được coi là “biểu tượng cơ bản của bản nguyên sống”, là “màu của ngày, của dương tính”, của sự sống, của thiên ân, thông điệp của hy vọng, “phát tiết từ mặt trời và đó là màu siêu việt nhất”… cũng là màu của tình cảm]. Màu đỏ cùng với “họ hàng” đậm nhạt của nó [hồng, son, thắm, tía] trở đi trở lại đến 9 lần, gần như rải suốt chiều dài bức tranh Chợ Tết ít hơn một chút so với tổng các màu còn lại: 4 từ trắng; 4 từ xanh, biếc, lam; 3 từ vàng; 1 từ nâu. Riêng đối với từ vàng thì con bò vàng [dòng 11] và đống vàng [dòng 28] chỉ vật chất đối lập với ánh dương vàng [dòng 43] chỉ tinh thần, hướng nội. Cũng tương tự như vậy với từ trắng: 3 lần đầu mây trắng [dòng 1]; con đường viền trắng [dòng 3]; sương trắng [dòng 12] chỉ vật chất; 1 lần cuối vừa chỉ vật chất tóc trắng [dòng 26] vừa chỉ thời gian.

Các tác giả của Thi nhân Việt Nam đã nhận xét rất tinh tế về hai câu thơ này: “Thỉnh thoảng giữa những câu tả chân chặt chẽ, chen vào một câu bất ngờ, vụt ngời lên như một luồng sáng giữa bức tranh:

Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau

Giờ đây khi nhìn vào cấu trúc bài thơ thấy trên hai câu này là 24 dòng và dưới nó là 18 dòng, cũng coi như nằm “giữa bức tranh” đúng như nhận định bên trên. Đây là hai câu tuyệt bút hiếm hoi về thời gian và đậm đặc tính thời gian: bà cụ lão; miếu cổ; nước thời gian; tóc trắng in dấu vết thời gian đều đứng án ngữ ở hai đầu hai câu thơ tạo nên một bức tranh vừa im lìm vừa chuyển động của thời gian.

Đọc lại Chợ Tết ta bỗng thấy hân hoan, vui thích bởi sự chuyển động của không gian, sắc màu và con người. Nhà họa sĩ “ngây thơ” Đoàn Văn Cừ đã trình bày cho ta biết một “bản nguyên sống” trong sự tồn tại hồn nhiên, bề bộn mà lại nhịp nhàng của đời sống. Trong đời sống đó, con người là trung tâm trong cái nhìn và sáng tạo nghệ thuật của ông: Con người là trung tâm trong mỗi khổ thơ; con người lại là trung tâm [khổ 2] của toàn phiên Chợ Tết mà ở giữa trung tâm đó lại là thời gian. Cái thời gian sẽ chia cách hai thế giới đối với mỗi số phận; nhưng cũng cái thời gian đó sẽ làm bền vững hơn cho những tác phẩm nghệ thuật đích thực, cho nền tảng văn hóa sâu xa của mỗi cộng đồng người mà Chợ Tết là muôn một.

Theo EVAN 

Tags: Văn học, Tết Nguyên đán

Video liên quan

Chủ Đề