Các tệ nạn xã hội trong học đường

[GD&TĐ] - Trước thực trạng vấn đề tệ nạn xã hội gắn với tội phạm trong giới trẻ, bạo lực học đường... cử tri quan tâm đến các giải pháp đột phá của ngành giáo dục để góp phần giải quyết tận gốc vấn đề. Bộ trưởng Phạm Vũ Luận đã có câu trả lời rất cụ thể tới cử tri.

Cử tri hỏi:

Thực trạng vấn đề tệ nạn xã hội gắn với tội phạm của giới trẻ xảy ra còn nhiều: Hành xử giang hồ, bạo lực học đường, thậm chí cướp trong học đường... Cùng với đó là sự vô cảm, mất nhân tính - vấn đề rất cấp thiết và rất khó giải quyết, cần có thời gian và sự phối hợp nhiều ngành. Riêng ngành Giáo dục, Bộ trưởng có giải pháp gì đột phá để giải quyết được gốc của vấn đề.

Bộ trưởng trả lời:

Đánh giá thực trạng:

Công tác giáo dục đạo đức trong học sinh, sinh viên trong những năm vừa qua đã có những đổi mới, tiến bộ và thu được những kết quả tốt, nhiều tấm gương học sinh nghèo vượt khó vươn lên trong học tập, nhiều tấm gương trong tu dưỡng, trong hoạt động cộng đồng, có cả những tấm gương đã hy sinh thân mình vì việc nghĩa làm lay động tình người.

Tuy nhiên bên cạnh những thành công đó, tình trạng bạo lực học đường có những diễn biến phức tạp, vấn đề đạo đức học sinh cũng có những diễn biến mới.

Xác định nguyên nhân:

- Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh, đang trong giai đoạn phát triển mạnh về thể chất và tâm lý, muốn tự khẳng định mình và hiếu động, cho nên có những hành động không đúng như xã hội mong muốn.

- Sự phát triển nhanh của nền kinh tế thị trường kéo theo những mặt tiêu cực tác động trực tiếp đến sự hình thành nhân cách của thế hệ trẻ.

- Những hành vi bạo lực xuất hiện nhiều trong đời sống xã hội, ngay trong gia đình, trong cộng đồng, xuất hiện tràn ngập trong phim ảnh, Internet, sách báo cũng tạo nên những khó khăn trong việc giải quyết bạo lực và giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên.

- Về phía nhà trường và ngành Giáo dục: Phương pháp và nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên còn hạn chế, chưa tạo được sự lôi cuốn chủ động, chưa tạo nên xúc cảm sâu sắc cho học sinh; Giáo dục đạo đức, lối sống bằng nêu những tấm gương tốt của những người xung quanh, của thầy, cô giáo và trong xã hội chưa được nhiều;

Việc phối kết hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội trong việc quản lý học sinh, sinh viên, đảm bảo môi trường an ninh cho học tập cũng như rèn luyện chưa được chặt chẽ; Việc giáo dục kỹ năng sống chưa thực sự đi vào chiều sâu và thiếu nhiều các điều kiện cần thiết để triển khai; Công tác tư vấn tâm lý cho học sinh đã có bước đầu nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

Giải pháp khắc phục:

Để giải quyết những vấn đề trên, ngành GD - ĐT trước hết đã chủ động thực hiện đổi mới nội dung phương pháp dạy, học và thi cử nói chung với tất cả các môn và nói riêng với môn liên quan đến giáo dục đạo đức, giáo dục công dân; Đề ra nhiệm vụ tăng cường giáo dục đạo đức lối sống, kỹ năng sống cho học sinh và sinh viên trong các hoạt động giáo dục, trong đó kết hợp tốt việc “dạy người” thông qua “dạy chữ”, “dạy nghề”.

Đồng thời, Bộ GD&ĐT đã và đang chỉ đạo đồng bộ nhiều giải pháp:

- Chỉ đạo lồng ghép cuộc vận động “Học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với cuộc vận động “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, bằng tấm gương thực tiễn và bằng hành động cụ thể của thầy, cô giáo trong nhà trường để lôi cuốn, thuyết phục học sinh, sinh viên.

Việc này được triển khai đồng thời trên 2 hướng: Tôn vinh những tấm gương sáng trong ngành, đồng thời xử lý nghiêm những hiện tượng vi phạm. Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai rất mạnh mẽ việc thanh kiểm tra, xử lý những vi phạm, tiêu cực, trục lợi trong các cơ sở giáo dục, đào tạo và một bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên để làm cho môi trường giáo dục trong lành, nơi hình thành nhân cách của học sinh, sinh viên được thuận lợi.

- Tiếp tục triển khai việc giảm tải, đổi mới nội dung dạy học, kiểm tra, đánh giá và thi. Từ thay đổi trong cách thi dẫn đến thay đổi cách học, cách dạy trong nhà trường.

Ví dụ: Bài thi văn tốt nghiệp THPT năm nay, khi chấm, rất nhiều bài thi mực nhòe nước mắt của người viết và nước mắt của cả thày cô giáo, tạo nên sự lay động không chỉ cho học sinh, cho cả các thầy cô giáo và người lớn. Đây không còn chỉ là bài thi, đây là một bài học bổ ích. Những đổi mới bước đầu của ngành đã có kết quả trong việc tạo lập cái "sáng", cái "trong" và đẩy lùi "tiêu cực" trong ngành, trong nhà trường và trong xã hội.

- Chỉ đạo tăng cường các hoạt động ngoại khóa ngoài giờ lên lớp. Bộ đã ban hành và có hướng dẫn chi tiết về việc thực hiện chương trình giáo dục ngoài giờ lên lớp hàng năm, phù hơp với từng lứa tuổi, từng cấp học và các địa phương, theo từng chủ đề và thời gian, để giúp cho việc học văn hóa cũng như việc rèn luyện sức khỏe và hình thành nhân cách của các cháu phối hợp đồng bộ với nhau.

- Bộ GD&ĐT, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng với Trung ương Đoàn, Hội phụ nữ Việt Nam đã tiến hành ký kết các văn kiện phối hợp triển khai xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực nhằm phát huy tổng hợp nguồn lực sức mạnh của nhà trường, của xã hội, của các tổ chức chính trị, đoàn thể để chăm lo hoạt động của nhà trường cũng như việc học, việc rèn luyện của học sinh.

Hiện nay, trên 7.000 di tích đã được giao cho ngành giáo dục để học sinh cùng các thầy cô giáo chăm sóc các di tích, qua đó tìm hiểu, học tập, sưu tầm, giới thiệu với các du khách, với những người thăm quê, thăm trường, thăm di tích. Việc này nhằm tạo nên sự hiểu biết và lòng yêu mến, biết ơn đối với cha ông, đối với quê hương, trên cơ sở đó là đối với đất nước.

Bộ GD&ĐT cùng với Bộ Văn hóa cũng đã triển khai theo ngành dọc, tạo điều kiện thuận lợi nhất trong việc miễn và giảm các vé khi học sinh vào các bảo tàng, di tích tham quan, học tập, tạo thuận lợi cho việc đổi mới việc dạy văn, dạy sử, các môn khoa học, xã hội và nhân văn.

Sự phối hợp của Bộ GD&ĐT cùng với ngành Văn hóa trong việc triển khai dạy hát dân ca có những kết quả rất tốt góp phần bồi dưỡng tình yêu quê hương, giữ gìn bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa và bồi đắp tình cảm của học sinh.

Với Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, nội dung phối hợp tập trung vào việc tổ chức các hoạt động tập thể để hình thành nhân cách, lối sống, thế giới quan của học sinh, sinh viên thông qua nhiều hoạt động, rõ nhất là hoạt động thanh niên tình nguyện đã có trong nhiều năm và có những kết quả rất tốt.

Với Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Bộ GD&ĐT phối hợp để triển khai ở các nhà trường, đặc biệt ở vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc việc đảm bảo “3 đủ” cho các em: đủ ăn, đủ mặc và đủ sách vở để cho các cháu đi học; Triển khai việc chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng, các đối tượng người có công với nước, hoàn cảnh khó khăn để thể hiện lòng kính trọng biết ơn và chia sẻ giúp đỡ khó khăn.

- Bộ GD&ĐT đã ký kết với Bộ Công an Thông tư phối hợp phòng, chống ma túy, đảm bảo an ninh trong nhà trường và ngoài nhà trường giúp học sinh tránh bị người khác đánh, bị trấn lột và hạn chế học sinh đánh nhau.

- Bộ GD&ĐT cùng với Ủy ban an toàn giao thông Quốc gia và Bộ Giao thông vận tải cũng đã ký kết quy chế phối hợp để triển khai việc đảm bảo an toàn tính mạng của các cháu trong quá trình đi học, nhất là đối với học sinh ở bậc học trung học cơ sở, trung học phổ thông.

- Với các Hội Khoa học, Bộ GD&ĐT đã ký kết quy chế phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử, Hội nhà văn, Hội Toán học, Hội Vật lý và nhiều hội khác để triển khai việc đổi mới nội dung chương trình, phương pháp dạy và học các môn khoa học này.

Đồng thời thông qua việc dạy, việc học, thi cử để góp phần bồi dưỡng hình thành nhân cách, nhận thức cho học sinh, sinh viên để vừa nâng cao đạo đức cũng như vừa đẩy lùi bạo lực học đường.

PV ghi

Page 2

[GD&TĐ] - Để chuẩn bị bước vào năm học mới 2013 - 2014, Bộ GD&ĐT vừa ban hành văn bản hướng dẫn các Sở GD&ĐT, các trường phổ thông tổ chức “Tuần sinh hoạt tập thể đầu năm học”.

Tuần đầu năm học là thời gian quan trọng để học sinh làm quen với thầy cô, bạn bè, môi trường học tập, xây dựng niềm tin, tình cảm và động lực học tập đối với mỗi học sinh.Do vây, thông qua các hoạt động tập thể để nâng cao nhận thức của học sinh về các mặt nội quy, quy chế, giúp các em hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm cũng như rèn luyện thêm kỹ năng cần thiết để bước vào năm học mới, môi trường học tập mới.Bộ GD-ĐT yêu cầu các nhà trường tùy vào tình hình thực tế để tạo niềm tin, sự phấn khởi cho học sinh, đặc biệt là học sinh đầu cấp.Các hoạt động trong “Tuần sinh hoạt tập thể đầu năm” cần phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự quản của học sinh, gắn với các hoạt động chung đầu năm học của nhà trường, đặc biệt là các hoạt động xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.Tuần sinh hoạt tập thể đầu năm sẽ tập trung vào 4 nội dung chính: Đón học sinh đầu cấp; Tổ chức các hoạt động tìm hiểu về nhà trường; Giới thiệu để giúp học sinh làm quen với chương trình học; Tổ chức cho học sinh tìm hiểu về xây dựng cảnh quan sư phạm và môi trường học tập thân thiện trong nhà trường.Dưới sự chỉ đạo của Sở GD&ĐT, hiệu trưởng các trường xây dựng kế hoạch tổ chức phù hợp với điều kiện riêng, nhằm đạt hiệu quả cao nhất cho hoạt động.

Bộ GD&ĐT yêu cầu các Sở GD&ĐT khẩn trương triển khai thực hiện. Kết quả hoạt động gửi văn bản về Vụ GD Trung học, số 49 Đại cồ Việt, Hà Nội, theo báo cáo định kỳ đầu năm; hoặc Email: Địa chỉ email này đã được bảo vệ từ spam bots, bạn cần kích hoạt Javascript để xem nó. .

Bảo Minh

Page 3

[GD&TĐ] - Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2013 đã thành công tốt đẹp. Để có những đánh giá sát thực hơn về thành công của kỳ thi này, phóng viên báo Giáo dục và Thời đại đã có cuộc phỏng vấn Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Vinh Hiển - Trưởng Ban chỉ đạo thi tốt nghiệp THPT Trung ương.

Thưa Thứ trưởng, ông có đánh giá chung như thế nào về kết quả của kỳ thi tốt nghiệp THPT năm nay?

Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển: Cho đến thời điểm này có thể khẳng định rằng kỳ thi đã kết thúc tốt đẹp, về cơ bản kỳ thi đã diễn ra an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế. Dư luận xã hội, các bậc phụ huynh và giáo viên đánh giá cao kỳ thi năm nay có tiến bộ hơn so với những năm trước đây về thái độ, trách nhiệm của giám thị và kỉ luật phòng thi cũng như sự tuân thủ quy chế thi của các thí sinh. Có được như vậy là do Bộ GD&ĐT đã có nhiều biện pháp chỉ đạo phù hợp với thực tiễn giáo dục nhằm tổ chức kỳ thi an toàn, nghiêm túc, kết quả thi phản ánh khách quan kết quả dạy và học.

Tôi cũng ghi nhận những nỗ lực của các địa phương đóng góp vào thành công của kỳ thi này. UBND các tỉnh, thành phố trên cả nước đã chỉ đạo việc chuẩn bị đầy đủ các điều kiện phục vụ cho việc tổ chức thi, tập huấn nghiệp vụ thi cho cán bộ, giáo viên, triển khai các giải pháp bảo mật đề thi, đảm bảo an toàn, trật tự tại các Hội đồng coi thi cũng như việc xây dựng các phương án dự phòng để ứng phó kịp thời khi có tình huống bất thường xảy ra. Các bộ ngành như Công an, Giao thông vận tải, Y tế, Thông tin Truyền thông, Điện lực… đã phối hợp rất tốt với ngành Giáo dục từ Trung ương đến các địa phương để hỗ trợ cho kỳ thi an toàn, thuận lợi.

Trước kỳ thi này, dư luận quan tâm đến việc Bộ GD&ĐT cho phép thí sinh mang các thiết bị ghi âm, ghi hình không hỗ trợ màn hình và chức năng thu phát âm thanh, hình ảnh: vậy trên thực tế việc này có diễn biến như thế nào?

- Việc Bộ GD&ĐT đưa ra quy định này là nhằm phòng ngừa vi phạm là chính hơn là phát hiện vi phạm: Bộ không trút trách nhiệm lên học sinh. Chúng ta đều biết là ai cũng có quyền giát sát các cơ quan, cán bộ nhà nước khi thực thi nhiệm vụ. Tuy nhiên trách nhiệm của mỗi người có buộc phải giám sát hay không lại là một vấn đề khác. Trong thi cử, học sinh không buộc phải làm nhiệm vụ giám sát kỳ thi. Nhiệm vụ và quyền lợi của các em trong phòng thi là làm bài thi cho tốt, nhưng chúng ta tạo cơ hội để nếu có điều kiện thì các em tham gia giám sát kỳ thi. Nếu vì điều đó mà tạo ra áp lực cho những ai không tôn trọng kỷ luật thi, không muốn làm tròn trách nhiệm trong hội đồng thi thì áp lực đó là một điều tốt.

Quan điểm của Bộ GD&ĐT như thế nào nếu sau kỳ thi xuất hiện trên các mạng xã hội những clip phản ánh tiêu cực trong kỳ thi vừa rồi giống như vụ Đồi Ngô [Bắc Giang]?

- Đó sẽ là một điều đáng tiếc. Bởi năm nay, Bộ GD&ĐT đã đưa ra quy định rằng cá nhân nào có thông tin về tiêu cực trong thi cử thì hãy cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền để xác minh và xử lý. Vậy tại sao thông tin này không được cung cấp cho các cơ quan có trách nhiệm, mà lại tung lên mạng như vậy? Tôi xin khẳng định lại rằng tất cả các thông tin phản ánh tiêu cực trong kỳ thi đều được Bộ GD&ĐT tôn trọng và xử lí nghiêm túc nhưng Bộ không muốn các thông tin đó gây ảnh hưởng tiêu cực trong ngành và xã hội.

Thưa Thứ trưởng, sau môn thi đầu tiên là môn Ngữ văn, có dư luận lan truyền thông tin rằng đề Ngữ văn bị lộ và đề thi thử môn Ngữ văn của một số trường giống như đề thi tốt nghiệp… khiến không ít thí sinh hoang mang; vậy ông lý giải chuyện này như thế nào?

- Chương trình giáo dục phổ thông là căn cứ chung của việc dạy học và ra đề thi, vì vậy đề thi thử và đề thi thật giống nhau ở một mức độ nào đó là chuyện bình thường, là trùng hợp ngẫu nhiên. Tuy nhiên, nếu hai đề giống nhau đến từng chi tiết thì cũng cần có thêm các thông tin khác để xem xét khâu tổ chức ra đề có vấn đề gì sơ xuất [?] nhưng cũng không nên vội vàng quy kết là đã có chuyện lộ đề!

Tôi cũng xin nói thêm rằng Bộ GD&ĐT rất không đồng tình với việc khi mới có những thông tin ban đầu cho rằng lộ đề hoặc nghi ngờ lộ đề mà các phương tiện thông tin đại chúng đã đưa tin, đây là điều không tốt. Điều này gây hoang mang, lo lắng cho học sinh trong khi các em vẫn đang tập trung vào môn thi tiếp theo.

Trên thực tế trong mấy ngày thi vừa qua, nhiều báo vẫn phản ánh tình trạng “phao” thi xuất hiện ở các hội đồng coi thi sau mỗi buổi thi, quan điểm của ông về việc này như thế nào?

- Phải khẳng định rằng vẫn còn có hiện tượng một số thí sinh đem phao vào phòng thi [đã sử dung hoặc chưa sử dụng] mà không được giám thị phát hiện, sau buổi thi các em vứt bỏ bừa bãi phao ra sân trường, cổng trường làm ảnh hưởng xấu đến vệ sinh, mỹ quan môi trường giáo dục. Việc vứt “phao” như các báo, đài phản ánh đều là những biểu hiện không tốt. Tôi cho rằng: Trong thời gian tới phải tiếp tục giáo dục học sinh có ý thức tốt hơn để ngăn chặn hành vi như trên. Cũng cần phải nói thêm là hiện tượng vứt “phao” bừa bãi ở sân, cổng trường là không chỉ có riêng “phao” thi, trong đó có cả những tờ rơi quảng cáo mà các đơn vị kinh doanh và một số cơ sở giáo dục mang đến quảng bá hình ảnh của mình trước cổng trường thi.

Việc học sinh mang “phao” vào phòng thi có thể được hiểu như sau: Thứ nhất là các em không tự tin vào kiến thức của mình nên khi đi thi đem theo phao, hy vọng rằng có thể may mắn nội dung “phao” phù hợp với đề thi; thứ hai là các thí sinh chưa tin là giám thị sẽ coi thi một cách nghiêm túc nên vẫn hy vọng có cơ hội sử dụng “phao”. Do vậy, nhìn hiện tượng trên đây theo cách này để ngăn chặn thì cần phải nâng cao chất lượng giáo dục để học sinh tự tin trong phòng thi. Thêm vào đó, việc giáo dục tính trung thực phải được thực hiện nghiêm túc, đồng thời đòi hỏi cán bộ coi thi phải thực hiện đúng chức trách của mình để học sinh không còn hy vọng sử dụng được tài liệu trong khi thi.

Dư luận đánh giá cao về công tác ra đề thi trong năm nay, nhất là những đề mở trong các môn tự luận; Thứ trưởng có thể cho biết công tác ra đề có gì đổi mới so với mọi năm, và phù hợp như thế nào đối với xu hướng đổi mới đánh giá kết quả học sinh mà ngành Giáo dục sẽ tiến hành trong những năm học tới?

- Trong những năm vừa qua, đề thi tốt nghiệp THPT được ra theo hướng mở và ngày càng mở hơn. Công tác ra đề thi năm nay đã đáp ứng được yêu cầu đề ra của kỳ thi tốt nghiệp THPT: Nội dung kiến thức của đề thi các môn đều nằm trong chương trình THPT hiện hành, chủ yếu lớp 12 THPT; phù hợp với chuẩn kiến thức kĩ năng THPT. Do vậy, phần lớn các em học sinh làm được bài và phấn khởi sau từng buổi thi.

Trên thực tế, qua các kỳ thi thì giáo viên và học sinh ngày càng theo được độ mở của đề. Biểu hiện rõ ràng nhất cho hướng này là trong đề thi môn Ngữ văn năm nay. Sau khi kết thúc môn thi đã nhận được rất nhiều ý kiến phản hồi, đánh giá cao của dư luận xã hội, phụ huynh, giáo viên và học sinh. Cá nhân tôi đánh giá, đề thi năm nay đã có những tác động tích cực, không chỉ đến kiến thức mà đến cả tình cảm, đạo đức của các em học sinh; đồng thời có tác động tốt đến xã hội.

Đối với các môn khoa học xã hội Bộ sẽ tiếp tục ra đề thi theo hướng mở để học sinh có cơ hội tự phát biểu chính kiến của mình, vận dụng kiến thức, kĩ năng và cả tư duy, cảm xúc khi làm bài thi. Ra đề theo hướng mở cũng là một trong những hướng của công tác thi và kiểm tra đánh giá nói chung mà Bộ sẽ tiến hành trong những năm tới. Khi mà việc vận dụng kiến thức kĩ năng của học sinh càng tốt, khả năng của giám khảo càng tốt thì đề thi sẽ ngày càng mở hơn để học sinh có thể tiếp cận được nhiều vấn đề của lý luận cũng như thực tiễn đời sống xã hội ở địa phương mình và trên cả nước.

Công tác chấm thi đối với các đề mở sẽ được tiến hành như thế nào thưa thứ trưởng?

- Bộ GD&ĐT cũng như giáo viên và học sinh đều có những đánh giá về đề thi môn Ngữ văn năm nay có tính thời sự và tính nhân văn cao. Đề thi môn Địa lí khơi gợi được sự hiểu biết và ý thức về chủ quyền dân tộc, không chỉ có tác dụng giáo dục đối với các thí sinh mà còn có ảnh hưởng tốt trong xã hội.

Ra đề mở thì không thể có đáp án đóng. Khi ra đề mở, học sinh sẽ có nhiều ý kiến rất đa dạng. Vì vậy, quan trọng là các em thể hiện được quan điểm của mình, đồng thời đưa ra được những lập luận chặt chẽ, hợp lý cho quan điểm đó, khi đó sẽ được điểm cao.

Đối với những băn khoăn về các ý kiến trái chiều xung quanh hành động dũng cảm của em Nguyễn Văn Nam tôi cho rằng: Tùy nhận thức mà có cách nhìn nhận khác nhau nên sẽ không áp đặt những suy nghĩ của người chấm cho lớp trẻ. Tuy nhiên, đạo đức và giá trị sống dù có thể khác nhau ở từng cá nhân thì vẫn có chuẩn chung trong xã hội chúng ta. Tôi biết rằng hướng dẫn chấm môn Ngữ văn năm nay đề cập chưa thoả đáng về vấn đề này, Bộ sẽ mời các nhà giáo có trình độ và giàu kinh nghiệm cùng với Hội đồng ra đề hướng dẫn thêm.

Xin cảm ơn Thứ trưởng!

Bá Hải [thực hiện]

Page 4

[GD&TĐ] - Bộ GD&ĐT, Bộ LĐ-TB&XH vừa công bố xin ý kiến rộng rãi dự thảo hướng dẫn thực hiện việc thành lập, sáp nhập, tổ chức lại các trung tâm giáo dục thường xuyên [TTHDTX], trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp [TTGDKTTH-HN] và và trung tâm dạy nghề trên địa bàn cấp huyện.

Theo đó, đối với những đơn vị cấp huyện tồn tại đồng thời nhiều trung tâm [TTGDTX, TTGDKTTH-HN, TT dạy nghề], UBND tỉnh xem xét để sáp nhập và tổ chức lại thành một trung tâm có các chức năng giáo dục thường xuyên, hướng nghiệp và dạy nghề. Đối với những đơn vị cấp huyện chỉ có 2 trong số 3 trung tâm thì sáp nhập lại thành một trung tâm và bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ còn thiếu để trung tâm có các chức năng giáo dục thường xuyên, hướng nghiệp và dạy nghề.Đối với những đơn vị cấp huyện chỉ có 1 trong số 3 trung tâm thì chỉ cần tổ chức lại với việc bổ sung thêm các chức năng, nhiệm vụ còn thiếu để đảm bảo trung tâm có các chức năng giáo dục thường xuyên, hướng nghiệp và dạy nghề.Đối với những đơn vị cấp huyện chưa có trung tâm nào trong các trung tâm nói trên thì thành lập một trung tâm thực hiện đồng thời các chức năng giáo dục thường xuyên, hướng nghiệp và dạy nghề.

UBND tỉnh, thành phố là cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào văn bản thẩm định và việc thẩm tra, soát xét thủ tục, hồ sơ hợp lệ đã được xử lý theo quy chế làm việc và các quy định tại thông tư này để quyết định việc thành lập trung tâm.

Lập Phương

Page 5

[GD&TĐ] - Môn Tiếng Anh là một trong những môn thi tốt nghiệp bắt buộc trong 6 môn thi vừa được Bộ GD&ĐT công bố. Làm thế nào để thi tốt nghiệp đạt hiệu quả cao? Đây là những chia sẻ của giáo viên và học sinh giỏi về phương pháp ôn thi môn tiếng Anh hiệu quả nhất.

Nắm vững các điểm văn phạm căn bản

Theo thầy Hoàng Xuân Sơn – Tổ trưởng tổ Ngoại ngữ Trường THPT Quảng Xương 2 [Thanh Hóa]: Để môn Tiếng Anh đạt kết quả cao, HS cần nắm vững các điểm văn phạm căn bản và cách làm bài thi trắc nghiệm. Các điểm văn phạm căn bản gồm sự hòa hợp giữa các thì, câu bị động, câu gián tiếp, mệnh đề tính từ, mệnh đề trạng từ, câu điều kiện, sự hòa hợp giữa chủ từ và động từ.

Với thời thì của động từ: Chú ý sự khác nhau giữa thời hiện tại hoàn thành và thời quá khứ đơn; thời tương lai đơn và thời tương lai gần.

Câu điều kiện: Câu điều kiện loại 1 và loại 2 cùng đưa ra các điều kiện về hiện tại và tương lai nhưng loại 1 thì điều kiện đặt ra có khả năng xảy ra còn loại 2 thì điều kiện đặt ra không hoặc khó có khả năng xảy ra.

Chủ động và bị động: Chú ý sự khác nhau giữa cặp động từ raise [ngoại động từ, có nghĩa là nâng lên, nhấc lên] và rise [nội động từ, có nghĩa là tăng lên hoặc mọc lên]; lay [ngoại động từ, có nghĩa là đặt, để cái gì] và lie [nội động từ, có nghĩa là nằm].

Lời nói gián tiếp: Khi động từ dẫn ở các thời quá khứ thì động từ ở lời nói gián tiếp được lùi một thời so với lời nói trực tiếp, các đại từ và trạng từ chỉ thời gian và địa điểm cũng có những sự thay đổi. Câu điều kiện loại 2 và loại 3 trong lời nói gián tiếp giữ nguyên thời so với lời nói trực tiếp.

So sánh tính từ và trạng từ: Những tính từ và trạng từ có sự thay đổi không theo quy tắc như good hoặc well chuyển thành better [so sánh hơn] và best [so sánh cao nhất; hay bad hoặc badly chuyển thành worse [so sánh hơn] và worst [so sánh cao nhất].

Mệnh đề quan hệ: that có thể được dùng để thay thế which hoặc who trong mệnh đề quan hệ hạn định nhưng lại không được dùng để thay thế trong mệnh đề quan hệ không hạn định.

Muốn có điểm cao học sinh cần luyện từ nhiều. Làm nhiều bài tập luyện để có kỹ năng làm bài và củng cố kiến thức. Tập trung vào từng mảng kiến thức, vận dụng kiến thức cả lý thuyết và cấu trúc câu.

- Cấu trúc đề vẫn thường là 50 câu trắc nghiệm cho các phần như sau:

- Ngữ âm [5 câu]

- Từ vựng và Ngữ pháp [25 câu]

- Đọc hiểu [10 câu]: 5 câu đọc và chọn câu trả lời về bài đọc; 5 câu chọn từ hoặc cụm từ để hoàn thành bài văn]

- Viết [10 câu]: 5 câu chữa lỗi sai; 5 câu hoàn thành câu bằng một mệnh đề hay một cụm từ, hay chọn một câu hoàn chỉnh từ những từ cho sẵn, hay chọn câu gần nghĩa nhất với câu đã cho]

Nên đọc kỹ đề bài để có định hướng tốt cho phần làm bài.

Quan trọng nhất là phần ngữ pháp

Đỗ Thị Mỹ Duyên, lớp Anh 9 ngành Tài chính quốc tế, khoa Tài chính ngân hàng Trường ĐH Ngoại thương [Tổng điểm thi ĐH năm 2012 là 26 điểm, Toán 8,75; Văn 8,5; Tiếng Anh 9] cho biết, với đề thi tiếng Anh, thí sinh cần nắm vững những kiến thức cơ bản. Thật chăm chỉ, làm nhiều bài tập và khi làm phải hiểu được tại sao lại là như thế, do cấu trúc nào, tại sao lại sai, phải sửa lại như thế nào cho đúng. Mỗi khi phát hiện ra lỗ hổng kiến thức ngữ pháp thì nên chuẩn bị một cuốn sổ tay ghi lại tất cả những cấu trúc mình sử dụng sai đó để lần sau không bao giờ “tái phạm” nữa.

Trong môn tiếng Anh, phần quan trọng nhất luôn là phần ngữ pháp. Tìm các bài tập ngữ pháp từ các nguồn như sách, báo, internet… để thực hành, để học tốt được ngữ pháp thì các bạn cần phải luyện tập thật nhiều cho tới khi sử dụng nó một cách dễ dàng

Với bài thi trắc nghiệm, phải học tốt tự luận mới làm tốt trắc nghiệm. Ưu thế của trắc nghiệm là không phải viết, vì thế tránh việc sơ suất lỗi chính tả, và không bao giờ bỏ trống bài thi. Khi làm bài thì đọc qua bài đọc, bài điền từ xem mình đã gặp bao giờ chưa, nếu gặp rồi thì làm ngay. Nếu không thì quay sang phần bài tập mà mình thích làm nhất hoặc thấy mình học tốt nhất [ví dụ tìm lỗi sai]. Đọc bài đọc và cố gắng dựa vào văn cảnh để hiểu nghĩa, gặp từ không hiểu cũng không sao. Làm xong bài đọc và điền từ là đã được 50% quãng đường, các câu còn lại cứ làm cẩn thận và chắc chắn, tô trước vào đề và tô ngay vào giấy thi, đọc kỹ đề bài tránh bỏ sót từ NOT, đọc kỹ hết 4 đáp án, tô đáp án cẩn thận tránh bị lệch ô.

Sau khi làm xong kiểm tra lại ít nhất 3 lần, lần 1 xem đáp án mình viết trong đề thi đã đúng chưa, nếu phân vân giữa 2 đáp án thì nên chọn đáp án dầu tiên mình nghĩ đến, lần 2 xem đáp án trong đề và giấy thi đã đúng chưa. Lần 3 xem lại tổng quát trước khi nộp bài.

Trịnh Huyền [ghi]

Page 6

[GD&TĐ]- Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 13/2013/QĐ-TTg về chế độ, chính sách đối với cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên Việt Nam, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các cơ sở giáo dục và cơ sở dạy nghề.

Theo quyết định này, Bí thư Đoàn, Bí thư Ban cán sự Đoàn là giảng viên trong các trường ĐH được dành 70% thời gian theo định mức giờ chuẩn giảng dạy để làm công tác Đoàn, Hội. Những người không phải là giảng viên mà kiêm nhiệm Bí thư Đoàn, Bí thư Ban cán sự Đoàn được dành 70% thời gian làm việc để làm công tác Đoàn, Hội. Đối với các trường thành viên, khoa trực thuộc các đại học; các học viện, các trường đại học, cao đẳng, cao đẳng nghề, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề, dự bị đại học [gọi chung là cấp trường] có từ 10.000 sinh viên, học sinh trở lên là Bí thư Đoàn hoặc Trợ lý Thanh niên cấp trường là giảng viên, giáo viên được dành 70% thời gian theo định mức giờ chuẩn giảng dạy để làm công tác Đoàn, Hội. Những người không phải là giảng viên, giáo viên mà kiêm nhiệm Bí thư Đoàn hoặc Trợ lý Thanh niên cấp trường được dành 70% thời gian làm việc để làm công tác Đoàn, Hội...Về phụ cấp, đối với các đại học, Bí thư Đoàn, Bí thư Ban cán sự Đoàn được hưởng phụ cấp như cấp Trưởng Ban thuộc đại học; Phó Bí thư Đoàn, Phó Bí thư Ban cán sự Đoàn, Chủ tịch Hội Sinh viên được hưởng phụ cấp như cấp Phó Trưởng Ban thuộc đại học. Đối với các cấp trường Bí thư Đoàn, Trợ lý Thanh niên được hưởng phụ cấp như Trưởng phòng. Đối với các trường trung học phổ thông, phổ thông dân tộc nội trú, TTGDTX, Bí thư Đoàn, Phó Bí thư Đoàn, Trợ lý Thanh niên và Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên được hưởng phụ cấp như Tổ trưởng chuyên môn...Cũng theo quyết định này, cán bộ Đoàn, Hội còn được tạo điều kiện về thời gian, được thanh toán công tác phí khi tham gia hoạt động Đoàn, Hội do cấp trên triệu tập theo quy định của pháp luật hiện hành; được tạo điều kiện học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; được ưu tiên bố trí chỗ ở ký túc xá; được hưởng phúc lợi xã hội như cán bộ quản lý cùng cấp…

Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 26/3/2013 và thay thế Quyết định 61/2005/QĐ-TTg ngày 24/3/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên Việt Nam, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và trung học phổ thông.

Lập Phương

Page 7

[GD&TĐ]-Thủ tướng Chính phủ vừa có chỉ thị số 02/CT-TTg về việc triển khai thực hiện Kết luận số 51- KL/TW ngày 29/10/2012 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành TW Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Ngày 29 tháng 10 năm 2012, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Kết luận số 51-KL/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế [sau đây gọi tắt là Kết luận 51]. Để khẩn trương triển khai và thực hiện nghiêm túc Kết luận, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:Quán triệt và thực hiện đầy đủ quan điểm, mục tiêu, yêu cầu về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong Kết luận 51; đồng thời tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, Kết luận Trung ương 6 khóa Ĩ và Thông báo kết luận số 242-TB/TW ngày 15 tháng 4 năm 2009 của Bộ Chính trị khóa X về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020.

Bộ Giáo dục và Đào tạo

Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, trình Ban Cán sự đảng Chính phủ tháng 7/2013.Hoàn thiện Quy hoạch phát triển mạng lưới các trường đại học, cao đẳng đến năm 2020, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành trong quý I/2013; Nghị định về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ, trình Chính phủ tháng 4/2013; Đề án kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ giáo viên giai đoạn 2013 – 2015 và lộ trình đến năm 2020, trình Thủ tướng Chính phủ tháng 4/2013; Nghị định ban hành các tiêu chí về phân tầng và xếp hạng cơ sở giáo dục đại học, trình Chính phủ trong quý III/2013; xây dựng khung trình độ quốc gia, trình Thủ tướng Chính phủ tháng 12/2013; Đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm 2015, trình Thủ tướng Chính phủ tháng 10/2013.Chủ trì phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh làm tốt công tác tuyên truyền về các nội dung của Kết luận 51 và các nghị quyết, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị về phát triển giáo dục và đào tạo.Xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra và quy định rõ trách nhiệm từng cấp nhằm khắc phục cơ bản tiêu cực trong dạy thêm, học thêm; tiêu cực trong thi cử; lạm thu và sử dụng không đúng mục đích.Triển khai mạnh mẽ quy hoạch nhân lực ngành giáo dục.Đổi mới quản lý chất lượng đào tạo đại học, sau đại học, đào tạo không chính quy, đào tạo liên kết với nước ngoài gắn với việc ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý kiên quyết các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp không tuân thủ quy định của pháp luật về các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo; về đào tạo vừa làm vừa học, đào tạo liên kết với nước ngoài.Đẩy mạnh việc thực hiện các đề án về dạy và học ngoại ngữ, phát triển tin học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội bổ sung nội dung dạy và học ngoại ngữ của khối dạy nghề vào Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân đến năm 2020; tổ chức hội nghị chuyên đề về phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và xây dựng chính sách thực hiện.Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng Đề án thí điểm về đặt hàng cung ứng dịch vụ đào tạo đối với một số ngành nghề khó tuyển sinh, Nhà nước có nhu cầu cao, đào tạo chất lượng cao, học phí cao, tringh Thủ tướng Chính phủ tháng 6/2013.


Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội

Xây dựng quy hoạch phát triển mạng lưới các trường dạy nghề đến năm 2020, trình Thủ tướng Chính phủ tháng 3/2013; Đề án đổi mới và phát triển dạy nghề đến năm 2020, trình Thủ tướng Chính phủ quý II năm 2013; Đề án 40 trường dạy nghề chất lượng cao đến năm 2020, trong đó có 10 – 12 trường đạt đẳng cấp quốc tế, trình Thủ tướng Chính phủ tháng 9/2013; khung dạy nghề trình độ quốc gia tương thích với khung trình độ giáo dục quốc gia, trình Thủ tướng Chính phủ quý III năm 2013.Thực hiện Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 – 2020 nhằm tạo ra đột phá về chất lượng dạy nghề, trong đó tập trung vào một số nội dung sau:Chủ trì, phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam xây dựng kế hoạch tuyên truyền về học nghề và hành nghề.Đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về dạy nghề, trong đó hoàn thiện hệ thống pháp luật về dạy nghề; tăng cường phân cấp, tăng tính tự chủ tự chịu trách nhiệm của các cơ sở dạy nghề; đổi mới cơ chế tài chính dạy nghề; hoàn thiện cơ chế chính sách đối với người học nghề, người dạy nghề, cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp tham gia dạy nghề.Triển khai quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của các ngành, vùng, các địa phương.Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện các quy định của pháp luật về dạy nghề, các cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư với nước ngoài; xử lý kiên quyết các trường dạy nghề không tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.Phối hợp với Bộ GD&ĐT tổ chức hội nghị chuyên đề về phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và xây dựng chính sách thực hiện; bổ sung nội dung dạy và học ngoại ngữ của khối dạy nghề vào Đề án dạy và học ngoạii ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020.Đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo quyết định số 1956/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ một cách thiết thực, hiệu quả.Ưu tiên hỗ trợ đầu tư từ nguồn kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia cho các cơ sở dạy nghề ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.


Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011-2020 của quốc gia, của Bộ, ngành, địa phương; tỏ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực của các Bộ, ngành, địa phương.Đề xuất các giải pháp thu hút đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài trong giáo dục và đào tạo, nhất là các nước có nền khoa học, công nghệ, và giáo dục hiện đại trình Chính phủ quý I/2013.Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành liên quan xây dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể hóa quan điểm giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, được ưu tiên đầu tư trước.

Bộ Tài chính

Xây dựng Nghị định về cơ chế tài chính, cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp giáo dục đại học và dạy nghề, trình Chính phủ tháng 9/2013. Xây dựng phương án tái cơ cấu nguồn kinh phí ngân sách nhà nước phân bổ cho giáo dục và đào tạo; thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của nhà nước về miễn, giảm học phí đối với người học nhằm đảm bảo công bằng trong việc tiếp cận các dịch vụ giáo dục và đào tạo.Bộ Thông tin và Truyền thông: Chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí, truyền thông đẩy mạnh công tác tuyên truyền về Kết luận 51 và các nghị quyết, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề.Các Bộ, ngành khác trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm tổ chức thực hiện Kết luận 51 và các nghị quyết, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề.

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:

Xây dựng kế hoạch thông tin tuyên truyền về các nội dung của Kết luận 51 và các nghị quyết, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề.Triển khai quy hoạch phát triển nhân lục của các tỉnh, thành phố phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020.Xây dựng chương trình, kế hoạch hành động, khắc phục cơ bản tiêu cực trong dạy thêm, học thêm, việc lạm thu và sử dụng không đúng mục đích, tiêu cực trong thi cử.Ưu tiên quỹ đất cho các cơ sở giáo dục và đào tạo theo quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân; Tích cực triển khai có hiệu quả phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; tăng cường phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và xóa mù chữ cho người lớn.Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tập trung giải quyết tình trạng trường học xuống cấp và tạm bợ ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.Tích cực thực hiện chế độ, chính sách đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đặc biệt là giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.Thủ tướng chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, UBND các tỉnhm thành phố trực thuộc Trung ương khẩn trương xây dựng chương trình, kế hoạch hành động tập trung trong năm 2013, định hướng năm 2014 và 2015 để tổ chức triển khai nghiêm túc Chỉ thị này, định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ qua Bộ GD&ĐT.

Bộ trưởng Bộ GD&ĐT có trách nhiệm tổng hợp tình hình, định kỳ 6 tháng và 1 năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả triển khai thực hiện Chỉ thị này trong cả nước.

Lập Phương

Page 8

[GD&TĐ] - Bộ GD&ĐT vừa có thông báo kết quả hội thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam được tổ chức tại thành phố Huế đầu tháng 1 vừa qua. Hội thảo đã đánh giá về chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, đồng thời nên ra những khuyến nghị về định hướng và giải pháp đổi mới dạy học Ngữ văn.


Theo hội thảo, chương trình, sách giáo khoa hiện hành có một bước tiến so với Chương trình, sách giáo khoa trước đó. Về cơ bản, mục tiêu môn học đáp ứng đúng qui định của Luật Giáo dục và của Chương trình giáo dục phổ thông, khá toàn diện và đầy đủ trên 3 bình diện: kiến thức, kĩ năng và thái độ; chương trình đã xác định được chuẩn kiến thức, kỹ năng làm cơ sở để biên soạn sách giáo khoa, sách giáo viên để dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập; cập nhật khoa học Ngôn ngữ và Văn học, đã thể hiện được nguyên tắc tích hợp trong dạy học.

Nhìn chung, SGK môn Ngữ văn đã cơ bản phù hợp với chương trình, với trình độ của học sinh; các tác phẩm văn học được bố trí theo thể loại giúp học sinh có những hiểu biết về đặc trưng thể loại, từ đó hình thành kỹ năng phân tích những tác phẩm cùng thể loại.

Phương pháp dạy học Ngữ văn đã có những chuyển biến khá tích cực. Nhiều giáo viên Ngữ văn đã bước đầu áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học mới và công nghệ thông tin, truyền thông vào quá trình dạy học, bước đầu coi trọng việc chuyển hướng từ giảng văn sang phương pháp đọc hiểu văn bản.

Về kiểm tra đánh giá, đã bước đầu quan tâm ra đề theo hướng mở, gắn với các vấn đề cuộc sống. Nhiều giáo viên đã biết dựa vào chuẩn để xác định nội dung, xây dựng ma trận câu hỏi trắc nghiệm khách quan, câu hỏi tự luận khi xây dựng đề. Vấn đề đánh giá trong quá trình dạy học đã từng bước được quan tâm, những nghiên cứu về PISA bước đầu được ứng dụng vào thực tiễn đọc hiểu văn bản ở Việt Nam; bước đầu kết hợp giữa đánh giá của giáo viên và hoạt động tự đánh giá của học sinh.

Công tác bồi dưỡng giúp GV bổ sung kiến thức mới, đáp ứng yêu cầu dạy học Ngữ văn được tổ chức thường xuyên, định kì hằng năm đã giúp cho chất lượng giảng dạy bộ môn được cải thiện.

Nhìn chung, SGK môn Ngữ văn đã cơ bản phù hợp với chương trình, với trình độ của học sinh

Tuy nhiên, chương trình dạy ngữ văn ở trường phổ thông vẫn còn những hạn chế cần khắc phục

Thứ nhất, chương trình chưa nhất quán theo một trục qua các cấp học, nội dung còn nhiều trùng lặp, tính tích hợp giữa các hợp phần càng lên các lớp trên càng mờ nhạt. Việc tách biệt các hợp phần Tiếng Việt và Làm văn trong CT là không hợp lý. CT và SGK vẫn nặng tính hàn lâm, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực học sinh – nhất là phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo.

Nhiều bài học trong SGK, nhất là ở các lớp trên, nặng về lý thuyết, ít có tác dụng rèn luyện kỹ năng cho HS. Một số nội dung còn cao đối với khả năng tiếp thu của HS, nhất là HS nông thôn, miền núi và những HS có ở những vùng kinh tế - xã hội khó khăn. Thời lượng dành cho một số nội dung học tập chưa hợp lý. Hầu hết tác phẩm dạy trong SGK THCS, THPT tuy có vị trí trong lịch sử văn học nhưng đã ra đời quá lâu, nhiều tác phẩm không phù hợp với tâm lý của HS hiện nay, do đó không khơi gợi được hứng thú học tập của các em.

Việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá vẫn chưa thực sự chuyển biến, nhiều khi còn dừng ở hình thức, chưa có chiều sâu. Phương pháp dạy đọc hiểu chưa có hiệu quả, giáo viên chưa chú ý đến việc hình thành cho học sinh phương pháp đọc văn bản. Việc kiểm tra đánh giá vẫn chủ yếu là kiểm tra kiến thức nhớ, tái hiện, làm theo, chép lại,... học tác phẩm nào thi đúng tác phẩm đó, chưa đánh giá đúng được sự vận dụng kiến thức, chưa chú trọng việc đánh giá thường xuyên trên lớp học và sử dụng kết quả đánh giá để điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy và học.

Chất lượng đầu ra của sinh SV chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn mặc dù điều kiện học tập ngày càng tốt hơn. Nhiều SV sau khi ra trường lúng túng trong việc dạy học bởi khoảng cách giữa việc học tập - thực tập ở nhà trường và thực tế dạy học. Kiến thức Văn, kĩ năng nghề của SV ngày càng sa sút, chưa coi trọng học tập và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Công tác tuyển sinh còn nhiều vấn đề cần bàn, CT đào tạo chưa xác định rõ các tiêu chí cho các học phần cơ bản/lựa chọn/bắt buộc; các tổ bộ môn trong khoa Ngữ văn chưa có sự phối hợp tốt, việc cấp chứng chỉ sư phạm chưa được quản lí chặt chẽ, phương pháp đào tạo lạc hậu, chưa phát huy tính tích cực và năng lực tự học của sinh viên.

Đội ngũ GV thụ động trong việc đáp ứng những đòi hỏi của việc thay đổi của chương trình, sách giáo khoa do ý thức tự học, tự nghiên cứu, nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế. Công tác bồi dưỡng GV tuy được tổ chức thường xuyên, nhưng chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu của giáo viên, hiệu quả thấp.

Lan Anh

Page 9

[GD&TĐ]-Bộ GD&ĐT vừa ban hành thông tư quy định về cộng tác viên [CTV] thanh tra giáo dục. Theo quy định này, một trong các tiêu chuẩn của CTV viên thanh tra giáo dục thường xuyên là phải có thời gian công tác trong ngành GD từ 5 năm trở lên.

Ngoài ra, phải đạt chuẩn về trình độ đào tạo theo quy định của Luật Giáo dục, được đánh giá xếp loại khá trở lên theo chuẩn nghề nghiệp, chuẩn cán bộ quản lý đối với từng cấp học và trình độ đào tạo; là giáo viên dạy giỏi cấp huyện trở lên [đối với giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở]; giáo viên dạy giỏi cấp trường trở lên [đối với giáo viên trung học phổ thông]; công chức, viên chức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ [đối với các trường hợp không xếp loại giáo viên giỏi]; đã được bồi dưỡng nghiệp vụ về thanh tra giáo dục theo chương trình do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành.Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn chung của CTV thanh tra GD là phải có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt; có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, công minh, khách quan. Am hiểu pháp luật và có trình độ chuyên môn phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ thanh tra giáo dục.Giấy chứng nhận cộng tác viên thanh tra giáo dục có giá trị trong thời hạn 3 năm kể từ ngày cấp. Chánh Thanh tra Bộ, Chánh Thanh tra sở đề xuất số lượng cộng tác viên thanh tra giáo dục thường xuyên, đảm bảo đủ thành phần ở các môn học, cấp học và trình độ đào tạo.

Cộng tác viên thanh tra giáo dục sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở cơ quan quản lý giáo dục, cơ sở giáo dục hiện đang công tác, được hưởng chế độ đãi ngộ khi tham gia Đoàn thanh tra [không bao gồm thanh tra các kỳ thi] . Cụ thể:

CTV thanh tra giáo dục là cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông hoặc giáo viên mầm non, giáo viên phổ thông, thời gian làm việc một buổi được tính bằng 3 tiết [hoặc giờ dạy] định mức;CTV thanh tra giáo dục là giáo viên, giảng viên ở các đại học, học viện, trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, thời gian làm việc một buổi được tính bằng 1,5 giờ chuẩn giảng dạy; CTV thanh tra giáo dục là công chức, viên chức thuộc Bộ GD&ĐT, sở GD&ĐT, phòng GD&ĐT, các đại học, học viện, trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, thời gian làm việc một buổi được tính bằng 6 giờ định mức. Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 8/2/2013, thay thế Thông tư số 16/TT/LB ngày 23/8/1995 Liên Bộ Giáo dục và Đào tạo - Tài chính “Hướng dẫn thực hiện chế độ đối với giáo viên được điều động làm nhiệm vụ thanh tra giáo dục”.

Thông tư cũng ghi rõ: Bãi bỏ điểm a khoản 2 Điều 11 Thông tư số 28/2009/TT-BGDĐT ngày 21/10/2009 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành Quy định về chế độ làm việc đối với giáo viên phổ thông; điểm a khoản 3 Điều 5 Thông tư số 48/2011/TT-BGDĐT ngày 25/10/2011 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành Quy định về chế độ làm việc đối với giáo viên mầm non.

Lập Phương

Page 10

- Dự kiến, sau năm 2015, hệ thống chương trình giáo dục phổ thông [GDPT] sẽ giảm số môn học bắt buộc, tăng số môn học tự chọn. Ở từng cấp học giảm số môn, tăng cường các hoạt động GD

GS.TS Đinh Quang Báo cho biết, cấu trúc chương trình phổ thông vẫn sẽ là 12 năm nhưng chương trình có trong số cho môn cốt lõi.

Cụ thể, cấp Tiểu học hiện hành có 11 môn học và 3 hoạt động GD, sau năm 2015 có 5 môn học và 4 hoạt động GD;

Cấp THCS hiện hành có 13 môn học và 4 hoạt động GD, sau năm 2015 có 10 môn học và 3 hoạt động GD;

Cấp THPT: Lớp 10 hiện có 13 môn học và 5 hoạt động GD, sau năm 2015 có 11 môn học với 2 hoặc 3 chủ đề tự chọn và 3 hoạt động GD; lớp 11 và lớp 12 hiện hành có 13 môn học với 5 hoạt động GD, sau năm 2015 còn 4 môn học [Ngữ văn, Toán, Giáo dục công dân, Ngoại ngữ] và 3 môn học tự chọn bắt buộc, 3 hoạt động GD.

Điểm mới nữa được ban soạn thảo đưa ra là phương án thay đổi toàn diện cách kiểm tra đánh giá. Theo đó, thang đo đánh giá năng lực không quy về một nội dung đã học mà được quy chuẩn theo mức độ phát triển năng lực người học. Việc đánh giá năng lực tập trung vào sự tiến bộ của người học hơn là mục tiêu đánh giá để xếp hạng giữa các người học với nhau.

Sau năm 2015, dự kiến kỳ thi tuyển sinh đầu vào THCS, THPT sẽ giao quyền tự chủ hoàn toàn cho các trường. Bộ GD-ĐT sẽ giao việc tổ chức và xử lý kết quả thi tốt nghiệp THPT cho các sở GD-ĐT, bộ chỉ giữ nhiệm vụ quản lý vĩ mô là ban hành quy chế thi, phôi bằng và xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập. Kết quả xếp loại bằng tốt nghiệp được xét trên cơ sở kết quả đánh giá cả quá trình học và kết quả thi. Để có cơ sở so sánh, đối chiếu sự tăng trưởng chất lượng theo thời gian, Bộ GD-ĐT cũng sẽ tổ chức đánh giá định kỳ quốc gia ở lớp cuối mỗi cấp học với các lớp 5, 9, 12.

GS Báo khẳng định, việc giảm một số môn không phải là giảm tải, cắt giảm chương trình đơn thuần mà giảm là để tích hợp tốt hơn. Học sinh thu nạp được lượng tri thức rộng hơn, sâu hơn, nhiều hơn.

"Về nguyên tắc học gì thi nấy. Chọn môn nào phải tính toán thể hiện được kiến thức tích hợp. Không thể làm/dạy theo kiểu đơn tuyến như hiện nay tức mà phải để học sinh vận dụng tất cả những kiến thức ấy" - GS nói.

Đề án đổi mới lần này hướng vào dạy học sinh năng lực. Để triển khai vấn đề chất lượng giáo viên là quan trọng nhất. Hiện đội ngũ của chúng ta còn lúng túng khi dạy theo năng lực. Nhưng có thể họ cũng chỉ là nạn nhân của cách đánh giá hiện nay. Đánh giá tập trung vào khối lượng kiến thức, chú trọng thành tích thì cách dạy/học khác.

Page 11

[GD&TĐ]-Hội thảo phổ biến kết quả nghiên cứu về giới và sức khỏe sinh sản cho thanh niên, học sinh, sinh viên và tập huấn kế hoạch tổ chức triển lãm về giới và sức khỏe sinh sản cho thanh niên, học sinh, sinh viên được tổ chức sáng nay [4/12] tại Hà Nội.

Đến dự có Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Trần Quang Quý; Trưởng Đại diện Văn phòng Unesco tại Việt Nam - bà Katherine Muller-Marin, Trưởng Đại diện Văn phòng Unesco tại Việt Nam; các chuyên gia tư vấn quốc tế; đại diện Bộ Lao động, thương binh và xã hội và đại diện 7 sở HD&ĐT khu vực phía Bắc...Tại hội thảo, báo cáo kết quả nghiên cứu về tình dục vị thành niên và giáo dục tình dục trên các đối tượng độ tuổi từ 14 đến 24 của Trung tâm Sáng kiến sức khỏe và dân số đã đưa ra những con số rất cụ thể về kiến thức cũng như thái độ của thanh niên, học sinh, sinh viên tham gia khảo sát đối với tình yêu và tình dục, trong đó có tình dục tiền hôn nhân; sự an toàn trong hẹn hò; vấn đề mang thai, HIV và tình dục an toàn; kiến thức về lây truyền và phòng chống HIV/AIDS; thái độ và sự hiểu biết của những đối tượng này đối với bao cao su, thuốc tránh thai nói riêng và sử dụng các biện pháp tránh thai nói chung; Sự tự chủ của vị thành niên trong việc lựa chọn hành vi tình dục; sự chia sẻ về tình yêu, tình dục đối với phụ huynh, giáo viên cũng như bạn bè; các yếu tố về môi trường ảnh hưởng đến thực tiễn tình dục của vị thành niên... Khuyến nghị từ nghiên cứu này đưa ra là, giáo dục giới tính phải được đưa thành một nội dung bắt buộc của chương trình giáo dục phổ thông. Đồng thời, việc giảng dạy nội dung này cần được bắt đầu trước khi học sinh nữ và học sinh nam bước vào giai đoạn dậy thì. Nội dung giáo dục giới tính không nên bắt đầu bằng hậu quả của tình yêu và tình dục mà thay vào đó là chú trọng đến sức khỏe giới tính lành mạnh. Giáo dục giới tính cần phải là một quá trình liên tục và tổng thể chứ không phải là các phần riêng lẻ, độc lập. Bên cạnh đó, chương trình giáo dục giới tính trong nhà trường cần được thảo luận với cả phụ huynh để họ có thể hỗ trợ hiệu quả trong quy trình này.... Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Trần Quang Quý cho biết, Bộ GD&ĐT đã chủ động từng bước đưa nội dung giáo dục sức khỏe sinh sản, giới, giới tính, truyền thông về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, giáo dục kỹ năng sống, phòng, chống HIV/AIDS vào Chỉ thị năm học và chỉ đạo toàn Ngành theo từng năm học thông qua các công văn hướng dẫn nhiệm vụ năm học về giáo dục thể chất và y tế trường học.

Kiến thức về giới và sức khỏe sinh sản không chỉ được phổ biến, tuyên truyền trong các hoạt động giảng dạy trong nhà trường; các hoạt động ngoại khoá; thông tin, phát thanh, phổ biến dưới cờ mà còn được tuyên truyền, phổ biến sâu rộng cho các em học sinh, sinh viên thông qua các hoạt động của các phong trào thi đua “Trường học thân thiện - học sinh tích cực”; phong trào “Hai không”. Các báo, tạp chí của ngành đã có hàng chục triệu trang chuyên mục về phòng, chống HIV/AIDS, sức khỏe giới tính và sức khỏe sinh sản, cung cấp kịp thời các thông tin bổ ích cho công tác phòng, chống HIV/AIDS, sức khỏe giới tính và sức khỏe sinh sản đến cán bộ, giáo viên các trường học trên khắp mọi miền đất nước.

Để tăng cường vấn đề giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh trong nhà trường, Thứ trưởng cho rằng, cần tăng cường tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và Chính phủ về giáo dục sức khỏe sinh sản, giới tính; truyền thông về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, giáo dục kỹ năng sống, bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong giáo dục. Hoàn thiện cơ sở pháp lý thông quan việc nghiên cứu, ban hành chiến lược, chính sách và mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới; Kiện toàn bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về giáo dục sức khỏe sinh sản, giới, giới tính, truyền thông về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, giáo dục kỹ năng sống, bình đẳng giới tại các cơ sở. Cùng với đó, xây dựng và tổ chức thực hiện Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược về bình đẳng giới; tăng cường hoạt động của hệ thống các Ban Chỉ đạo phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm trong các cơ sở giáo dục. Đặc biệt là thực hiện Kết luận của Phó thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân ngày 4/1/2012 giao Bộ GD&ĐT nghiên cứu đưa nội dung mất cân bằng giới tính khi sinh, giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản vào chương trình giáo dục trong nhà trường phổ thông.

Thứ trưởng Trần Quang Quý cũng yêu cầu nâng cao chất lượng dạy và học, hoạt động ngoại khoá về giáo dục giới tính, truyền thông về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, giáo dục kỹ năng sống, phòng, chống HIV/AIDS. Chú trọng phối hợp giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng trong giáo dục sức khỏe sinh sản, giới, giới tính, truyền thông về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, giáo dục kỹ năng sống, phòng, chống HIV/AIDS; chống kỳ thị và phân biệt đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS; đảm bảo an toàn, thân thiện trong các dịch vụ y tế trong các cơ sở giáo dục; tăng cường kiểm tra, giám sát và tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục giới tính, truyền thông về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, giáo dục kỹ năng sống, giáo dục phòng, chống HIV/AIDS...

Tại hội thảo, thông tin tổ chức triển lãm về giới và sức khỏe sinh sản cho thanh niên, học sinh, sinh viên cũng được công bố.

Hiếu Nguyễn

Page 12

[GD&TĐ] - Nhiều giáo viên chủ quan cho rằng, chỉ cần dốc tất cả sự nhiệt tình để truyền thụ kiến thức trong một tiết dạy, như thế là thành công. Thật ra, nghề dạy học là một trong những nghề công phu nhất. Một giờ dạy trên lớp có cho hiệu quả hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, mà chỉ khi nào, thầy chuẩn bị tốt ở vai trò chủ đạo, trò học tập trong tâm thế chủ động thì mới gọi là thành công...

Tâm thế của người thầy giáo

Kinh nghiệm qua những lần đi dự giờ các giáo viên cho thấy, yếu tố đầu tiên đem đến thành công cho một giờ dạy trên lớp là tâm thế thoải mái, sự tự tin của người thầy giáo khi bước vào lớp học. Một là do chính thầy giáo chuẩn bị bài kỹ càng nên học sinh dễ tiếp thu bài; hai là chính sự tự tin của người thầy làm không khí lớp học thêm phấn chấn .

Một nữ giáo viên ở trường trung học phổ thông nọ kể lại: Có lần đã vào thời điểm gần kết thúc năm học, Sở Giáo dục và Đào tạo đột xuất thông báo xuống trường về việc đoàn thanh tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo đi thực tế, kiểm tra tình hình thực hiện chương trình ở cơ sở. Cả Ban giám hiệu và giáo viên đều lo lắng, vì không kịp chuẩn bị trước để đối phó như mỗi khi có thanh, kiểm tra, nề nếp cuối năm có phần trễ nải. Cuối cùng thì đoàn thanh tra vào dự đột xuất một tiết dạy lịch sử lớp 11 của đúng nữ GV nọ. Cô cho biết : “ Thú thật là lúc đó em vô cùng lo sợ, vì từ nhiều năm em chỉ chuyên dạy lịch sử lớp 10; nhưng vì sĩ diện của bản thân, của trường, em lấy hết can đảm bước vào lớp, trên môi nở một nụ cười thân thiện với tất cả. Học sinh nhìn cô giáo mới cũng với vẻ thân thiện và chờ đợi. Thế là em bình tĩnh tập trung tất vào bài giảng, cố nhớ những gì cần phải nhớ. Tuy tiết dạy hôm ấy không thật xuất sắc như mọi tiết khác, nhưng cũng diễn ra trôi chảy từ đầu đến cuối.”

Sự chi phối của tâm thế người thầy đối với hiệu quả lên lớp như vậy, nhưng khi chuẩn bị một giáo án lên lớp, người thầy đã không lường trước những tình huống sẽ xảy ra. Tại sao có hiện tượng một học sinh khi kiểm tra bài cũ ở môn học này luôn đủ điểm, còn ở môn học khác lại rất hay bị điểm yếu, kém? Hãy xem lại thái độ của người thầy giáo khi gọi em lên bảng để kiểm tra. Chính vì thế, có giáo viên đã dùng “ thủ thuật” tạo tâm thế trước khi kiểm tra bài cũ bằng cách khi vào lớp, khen một bình hoa tươi cắm khéo, hỏi han, trò chuyện một cách tự nhiên với học sinh. Tâm thế của người thầy giáo còn rất cần trong khi giới thiệu chuyển tiếp từ bài cũ sang bài mớí, làm cho lời giới thiệu bài mạch lạc, trôi chảy hơn.

Cải tiến khâu kiểm tra bài cũ

Khái niệm “cũ” và “ mới” ở phạm trù kiến thức không những không khác biệt nhau như xem xét hình thức của một vật thể, mà nó còn dung hoà trong một hệ thống. Trong một bộ môn, kiến thức mới là sự tiếp nối của kiến thức được gọi là “ cũ”. Hiểu được vấn đề này, người thầy giáo không thể xem nhẹ khâu kiểm tra bài cũ. Khi học sinh nắm chắc bài cũ tức là người thầy đã thành công 50%.

Muốn học sinh nắm vững bài cũ, có mấy thao tác giáo viên cần lưu ý: Chuẩn bị kỹ các câu hỏi ở phần củng cố lại bài học; Cho học sinh chuẩn bị bài ở nhà theo hệ thống câu hỏi đó; Chọn câu hỏi kiểm tra bài phù hợp với từng đối tượng; Mức độ kiểm tra ở mỗi lần tăng dần từ dễ đến khó với mỗi học sinh để các em có cơ hội tiến bộ. Không vội trách phạt, nhục mạ một học sinh không thuộc bài khi chưa hiểu rõ nguyên nhân. Tất nhiên không phải giáo viên nào cũng làm được như vậy. Nhưng nếu kiên trì và tính toán một cách khoa học từng thao tác như trên, nhất định sẽ thành công.

Trong thực tế, giáo viên rất hay kêu ca học sinh lười học, hay là chậm tiếp thu bài. Nhưng bản thân giáo viên thì chưa chắc đã chu đáo khi soạn thảo bước kiểm tra bài cũ trong giáo án lên lớp của mình, có khi chỉ là soạn đối phó cho đủ 5 bước lên lớp mà thôi. Hệ thống câu hỏi kiểm tra bài cũ cũng phải đảm bảo tính tối ưu như hệ thống câu hỏi dẫn đắt tìm hiểu bài mới: Tính bao quát, tính trọng tâm, tính vừa sức.

Ngoài ra cũng cần phải chú ý các hình thức kiểm tra, không nhất thiết khi kiểm tra miệng cứ phải gọi học sinh lên phía trên bục giảng để đọc thuộc làu lý thuyết, mà có thể để học sinh đứng ở bên dưới trình bày bài hoặc chiếu lên bảng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm, bản đồ tư duy cho học sinh phát hiện nhanh. Trong vòng 10 phút kiểm tra bài cũ, vẫn có thể huy động được nhiều học sinh tham gia chứ không chỉ kiểm tra 1, 2 em. Chuẩn bị kỹ lưỡng khâu kiểm tra bài cũ như vậy, học sinh không bị cho điểm oan; không hao phí thời giờ cho sự khiển trách; kiến thức được củng cố vững chắc, nhanh tiếp thu bài mới...

Thay đổi “khẩu vị” trong khi giảng bài

Người thầy giáo có thể say mê giảng bài suốt gần cả tiếng đồng hồ của một tiết học mà không có cảm giác mệt mỏi. Nhưng với một học sinh, việc ngồi im để nghe thầy giảng bài suốt gần cả tiếng không phải là điều dễ dàng. Hiện tượng uể oải, ngáp vặt, ngủ gục, nói chuyện riêng trong lớp diễn ra khá phổ biến. Những giáo viên thiếu kinh nghiệm khi bắt gặp những hiện tượng như vậy thường hay nổi nóng, và buộc học sinh phải ngồi nghe một cách nghiêm túc mà không biết làm như vậy không những không mang lại hiệu quả gì mà còn gây thêm sự căng thẳng trong lớp học.

Để một tiết học diễn ra nhẹ nhàng, sinh động, giáo viên cần lưu ý những điểm sau đây: Lường trước đối tượng học sinh thiếu tập trung do tác động của hoàn cảnh khách quan [có chuyện không hay trong gia đình, sức khoẻ kém, cơ thể mệt mỏi] để có cách giảng bài thích hợp; Không rập khuôn theo một trình tự mà học sinh đã quá quen thuộc; Linh hoạt thay đổi khẩu khí, thay đổi cách thức hỏi, giảng giải đối với học sinh; Không tiếp tục giảng giải khi học sinh ở dưới lớp ồn ào... mà có thể bất ngờ gọi một học sinh kiểm tra lại kiến thức mà giáo viên vừa truyền đạt.

Có một vị phụ huynh than phiền về đứa con trai học lớp 11 không phải là đứa con hư hỏng không biết vâng lời cha mẹ, nhưng lại bỏ rất nhiều giờ học Toán. Tiếp cận, gần gũi em học sinh này một thời gian, chúng tôi mới biết em bị mất căn bản sau kỳ nghỉ ốm một tuần lễ vào năm học lớp 10, từ đó, mỗi khi vào tiết Toán lại có trạng thái lo lắng, thiếu tự tin vào bản thân mình. Nhưng thầy giáo dạy Toán ở lớp 11 đã không hiểu được tâm trạng đó của em và còn rất hay gọi em lên để kiểm tra bài cũ và sỉ mắng trước mặt bạn bè.

Tóm lại, để một tiết dạy thật sự thành công, đem lại hứng thú cho học sinh, trong một người thầy phải hội đủ cả 3 yếu tố: Nhà sư phạm, nhà khoa học và người nghệ sĩ. Sự hỗ trợ của công nghệ thông tin với những phần mềm và thiết bị nghe nhìn hiện đại là điều kiện vô cùng thuận lợi để các giáo viên có thể cải tiến lối dạy truyền thống, tạo nên những tiết dạy mới mẻ, sinh động, hạn chế tối đa tình trạng học sinh bỏ học chỉ vì chán học.

Uyên Phương

Page 13

[Bentre.gov.vn]-Dân tộc Việt Nam từ xa xưa vốn có truyền thống rất hiếu học và "Tôn sư trọng đạo”, “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” [học một chữ cũng là thầy, học nửa chữ cũng là thầy]. Gia đình có con học giỏi không chỉ vinh dự cho ông bà, cha mẹ,  mà còn cho cả dòng họ. Dù nhà nghèo khó đến đâu, cha mẹ cũng cố tìm mọi cách cho con cái được học hành “nửa bụng chữ bằng một hũ vàng”.

Bác Hồ của chúng ta, khi dạy học tại trường Dục Thanh - Phan Thiết, tuy thời gian dạy không dài, nhưng những ngày dạy học, Bác đã khêu gợi ở học sinh cách học, sự tìm tòi. Khi học khắc sâu vào tâm hồn non nớt của trẻ một lòng yêu nước. Bác là nhà sư phạm lớn, không những nêu ra những quan điểm mà còn chỉ ra nội dung cụ thể trong công việc “trồng người”.

Nhưng trong công việc này đòi hỏi sự chịu đựng gian khổ, tinh thần trách nhiệm, sự kiên trì, vừa khoa học, vừa tinh tế mà Bác gọi một cách hình ảnh nhưng rất gần gũi mà dễ hiểu là “sự nghiệp trồng người”.

Tư tưởng “trồng người” của Bác cho chúng ta thấy rõ vai trò của con người với sự hiểu biết, với năng lực đạo đức và phẩm chất chính trị trong sáng để phục vụ nhân dân.

Bác xác định rõ chức năng của người thầy giáo: “Nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục”. Nhưng để thực hiện được vai trò vẻ vang của mình, trước hết: “Thầy giáo phải xứng đáng là thầy, thầy phải được lựa chọn cẩn thận vì không phải ai cũng làm được”.

Tư tưởng về công tác giáo dục mang tính nhân văn và triết lý sâu sắc, chính vì quan tâm đến công tác giáo dục, trong lúc Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, Người đã viết bài in trên Tạp chí Cộng sản Pháp số 14 [năm 1921], Người đã căm phẫn lên án chính sách “làm cho dân ngu để dễ trị”, đầu độc dân bản xứ bằng rượu và thuốc phiện.

Người viết: “Người Đông Dương không được học, đúng thế, bằng sách vở và bằng diễn văn nhưng người Đông Dương nhận sự giáo dục bằng cách khác. Đau khổ, nghèo đói và sự đàn áp tàn bạo là người thầy duy nhất của họ. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”.

Sau 30 năm bôn ba khắp năm châu bốn biển tìm đường cứu nước, ngày 28/01/1941, Bác Hồ trở về Tổ quốc Việt Nam trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Trước hết, Người lo “diệt giặc đói khổ, diệt giặc dốt”. Ngày 01/02/1942, Người viết bài “Nên học sử ta”, in trên Báo Việt Nam độc lập:

“Dân ta phải biết sử ta

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”

Người căn dặn: Dân ta phải biết sử ta. Sử ta dạy cho ta chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân tộc ta là con Rồng, cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng để muôn đời.

Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 03/9/1945, Bác Hồ đã chủ trương “Mở một chiến dịch giáo dục”, đó là nhiệm vụ thứ hai trong những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Tiếp theo, ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh “Về việc thành lập Hội đồng cố vấn học chính”. Hội đồng gồm có Bộ trưởng Bộ Giáo dục và 30 hội viên chọn ở các ngành, các giới để nghiên cứu trình Chính phủ những chủ trương, chính sách về giáo dục.

Bác còn quan tâm đến việc tổ chức bồi dưỡng đội ngũ giáo viên – những chiến sĩ tiên phong chống nạn mù chữ. Bác viết thư gửi anh chị, em giáo viên bình dân học vụ – những nhà giáo làm việc mà không có lương bổng, thành công mà không có tiếng tăm. Lòng hăng hái và nỗ lực của anh chị, em đã mang lại kết quả là đồng bào ta nhiều người biết đọc, biết viết. Người khen ngợi: “Vinh dự đó thì tượng đồng bia đá nào cũng không bằng”.

Hay tại lớp học chính trị của các giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc vào ngày 13/9/1958, Bác nói lời tâm huyết: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây; vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.

Bác giao nhiệm vụ cho ngành giáo dục trực tiếp là các nhà giáo đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho Nhà nước. Người căn dặn các thầy giáo, cô giáo không ngừng tu dưỡng đạo đức, không ngừng học tập, nâng cao nghiệp vụ.

Tư tưởng “trồng người” của Bác là chỉ cho chúng ta mục tiêu mà nền giáo dục phải đạt tới, đó là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh. Bác luôn coi con người là vốn quý nhất, là nhân tố đảm bảo cho sự thành công của cách mạng. Đó là con người phải được phát triển toàn diện về các mặt đức, trí, thể, mỹ.

Lúc sinh thời Bác đã khẳng định vai trò của người thầy là phải có tâm hồn, kiến thức và sau cùng là phương pháp sư phạm. Tâm hồn của người thầy được xây dựng trên lòng yêu thương vô hạn, lòng quý mến và sự tôn trọng con người. Chính lòng tôn trọng đó là cội nguồn của mọi tình cảm cao đẹp, là khởi thủy của đạo đức. Lòng yêu thương của người thầy phải được gắn liền với sự tôn trọng con người. Những hành vi, cử chỉ đi ngược lại sự tôn trọng là xúc phạm đến sự nghiệp cao cả, sự nghiệp “trồng người”.

Thấm nhuần tư tưởng và lời dạy của Bác, Đảng và Nhà nước ta hơn bao giờ hết luôn coi trọng sự nghiệp giáo dục. Năm 1982 đã lấy ngày 20/11 hàng năm làm "Ngày Nhà giáo Việt Nam"; quan tâm và tạo điều kiện cho đông đảo đội ngũ thầy giáo, cô giáo được đào tạo chính quy, để họ thực sự là những “kỹ sư tâm hồn”; đồng thời chăm lo cho cơ sở vật chất của ngành giáo dục như trường lớp, phương tiện, đồ dùng dạy học ngày một tiến bộ, văn minh và hoàn thiện; đồng lương của nhà giáo từng bước được cải thiện, ngoài lương cơ bản, thầy cô còn được hưởng phụ cấp đứng lớp.

Tuy nhiên, những tiêu cực trong ngành giáo dục trong thời gian qua và hiện nay làm mọi người lo ngại, như: bệnh thành tích, tiêu cực trong thi cử, nạn dạy thêm, học thêm tràn lan, chạy điểm, chạy trường..., điểm thi môn lịch sử trong các kỳ thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh cao đẳng, đại học rất thấp khiến ta phải suy nghĩ.

Vài năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quan tâm của các cấp, ngành giáo dục đã có chuyển biến mạnh mẽ; mặt yếu kém được khắc phục, phong trào nhà trường thân thiện, học sinh tích cực, những tấm gương nhà giáo “vừa hồng vừa chuyên”, những học sinh – sinh viên chăm ngoan, vượt khó học giỏi, “học đi đôi với hành” ngày một nhiều hơn; nhiều học sinh đoạt giải cao trong các kỳ thi quốc gia và quốc tế.

Hy vọng ngành Giáo dục và Đào tạo sẽ sớm có biện pháp hữu hiệu khắc phục những yếu kém, bất cập hiện nay, xứng đáng với lời vinh danh của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng về giáo dục: "Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý, nghề sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo. Các thầy cô giáo không những dạy chữ mà còn dạy người, họ cứ như cây thông trên sườn núi, cây quế giữa rừng sâu thầm lặng toả hương dâng hiến trí tuệ, sức lực cho đời".

Đồng thời, bảo đảm thực hiện nghiêm túc tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, để giáo dục thật sự là "quốc sách hàng đầu", phục vụ đắc lực công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta.

[Tư liệu Hồ Chí Minh toàn tập. NXB Sự thật]

Người viết: Hoàng Chương   

Video liên quan

Chủ Đề