Cách làm mồi câu cá linh

Kinh nghiệm câu cá của người miền Tây Nam Bộ xưa [Phần 1]

Câu cá, nghe có vẻ giản đơn nhưng thực ra là cực kỳ phức tạp. Không phải loài cá nào cũng giống nhau về cách câu, cách ăn mồi. Người miền Tây Nam Bộ xưa câu cá rất tinh tế, đặc biệt là người sống ở thôn quê. Từng thời điểm, từng loại cá họ đều có cách câu khác nhau tương ứng với điều kiện mùa vụ và hệ thống sông rạch chằng chịt.

Câu cá Chốt tháng TưVào tháng tư, mùa mưa đã đi được một chặng đường. Nước bùn từ những con đường quê chảy xuống sông rạch khiến nước sông mùa này ngầu đục. Thời gian này, cá chốt giấy bắt đầu sinh sản. Dân quê thường dùng dế cơm, dế nhũi để câu cá chốt giấy, chốt trâu, chốt chuột. Nhưng có một loại mồi rất độc đáo và rất nhạy đó là trứng kiến vàng. Mùa mưa, trên các thân cây xoài, gáo, bằng lăng, bần có nhiều kiến vàng trú ngụ và đẻ trứng. Dân quê dùng một cây sào dài, buộc loại vợt làm bằng vải mùng vào đầu cây sào rồi đưa sào vào phá ổ lấy trứng.

Có hai cách câu cá chốt là câu bằng cần trúc và câu quăng. Câu quăng phức tạp hơn, nhiều lưỡi câu được tóm vào một đầu của rường câu dài 30-40 thước [tức mét] mỗi lưỡi cách nhau 8 tấc [8cm]. Đầu kia buộc một cây sắt hoặc đá để khi quăng, sức nặng của đá sẽ kéo rường câu thẳng ra và chìm xuống lòng rạch.

Sau khi móc mồi, người câu đứng trên cầu hay các bến sông, cầm cục đá quăng rường câu ra giữa sông. Xong, họ buộc đầu rường còn lại vào cái sào dài và cắm xuống nước cho chìm sát lòng rạch rồi ngồi chờ cá đến ăn mồi. Chỉ chừng tàn điếu thuốc là họ nhổ cây sào lên, đưa rường vào bờ để gỡ cá.

Người có xuồng thì bơi xuồng thả câu sau khi móc mồi vào rường. Kiểu câu xuồng này ít bị rối, có thể thả được nhiều rường câu rất nhanh.

Những năm 1940, 1950 của thế kỷ trước, ở vùng sông rạch Long Xuyên Châu Đốc có rất nhiều cá chốt. Những con chốt giấy, chốt trâu, chốt chuột béo tốt, to bằng ngón chân cái đem kho tiêu, cho thêm tóp mỡ là ngon hết biết. Hàng ngày, người ta thả câu lúc nước đứng lớn hoặc nước đứng ròng, khi đó nước chảy yếu, cá rất chịu ăn và rường câu cũng ít đứt. Vào mùa, chỉ cần quăng vài ba lượt là đủ cá ăn cả ngày. Trẻ nhỏ nhà quê thời ấy đứa nào cũng mê câu cá chốt.

Cắm tép tháng 5: Vào tháng năm, tháng sáu nước sông càng đục, trẻ nhỏ thích câu cắm bắt tép. Những nhánh trúc dài cỡ 8 tấc được buộc dây bố làm dây câu, đầu kia buộc mồi trùn. Khi nước lớn, chúng men theo mé sông, mé rạch để cắm hàng chục cây cần câu không lưỡi này rồi cầm rổ đi theo. Thấy sợi dây nào lay động thì đưa rổ thật nhẹ xúc lên nhanh, thế nào cũng được vài con tép rong, tép đất, tép bạc đang ngậm mồi. Kiểu câu này chỉ có trẻ nhỏ là thích còn người lớn thì ít ai đoái hoài, họ còn bận với nhiều kiểu câu khác bắt nhiều cá hơn.

Những nhánh trúc dài cỡ 8 tấc được buộc dây bố làm dây câu [ Ảnh ST ]

Tháng Bảy nước nhảy khỏi bờ: Tháng 7, nước lớn tràn bờ, vượt qua vườn tược, tràn qua đám nưa, ngập theo các giồng mía khiến cho đám trùn trú trong những giồng mía cao bắt đầu di chuyển lên gò. Theo lệ thường, nước tràn tới đâu thì cá tép theo tới đó. Chúng cũng biết các chỗ cao sẽ có trùn nên men theo các giồng mía, giồng khoai, giồng nưa để ăn mồi trùn. Vậy nên nếu thấy cá quẫy ở những giồng mía lấp ló nước là dân quê làm cần câu cắm. Họ cắm dọc theo những nơi thấy cá quẫy. Những loài ăn cạn như vậy thường là cá trê trắng, trê vàng, cá chạch, cá lóc, cá chốt nhỏ còn cá lớn thì không lên cạn kiếm mồi theo kiểu này. Nhiều người không cắm mà giăng thành luồng, mỗi luồng khoảng 5-10 lưỡi câu cách nhau khoảng một thước [1 mét] hoặc gần hơn. Họ không tóm hai lưỡi câu quá gần nếu không, khi lưỡi này dính cá thì cá khác sẽ không dám đến ăn mồi ở chỗ có hai lưỡi câu gần hai bên.

Mồi câu cắm hoặc câu giăng theo các vạt đất gò vào mùa nước mới bò vào vườn thường là mồi trùn vì đa phần cá lóc, cá trê kiếm mồi ở thời gian này là kiếm trùn. Mùa này, trùn dồn lên gò cao tránh nước nên cũng dễ đào. Hai loại trùn mà cá ưa nhất là trùn hổ và trùn huyết. Trùn cơm thì chúng không thích bằng, hơn nữa trùn cơm không dai như hai loại trùn kia, cá rỉa mau hết, hao mồi nên dân câu ít sử dụng.

Giăng câu tháng 8: Tháng 8, nước đã ngập đồng. Lúc này dân quê mới thực sự vào mùa câu giăng bắt cá lóc, cá trê trên những cánh đồng lúa mùa. Đồng lớn, nước sâu nên ít ai câu cắm bằng cần mà giăng những luồng câu rất dài, băng qua nhiều vạt đất, qua nhiều lung, vũng, đìa, bàu đầy cá là cá. Muốn câu loại cá gì thì dùng lưỡi đó: cá lóc thì lưỡi đúc, cá trê hợp với lưỡi câu dấu ó, còn cá thác lác, cá trèn người ta dùng lưỡi câu dấu ó có vọng nhỏ hơn loại câu cá trê. Dân câu chuyên nghiệp người ít thì cũng có năm, bảy trăm câu, nhiều thì đến cả vài thiên câu là thường. Gần thì chiều chiều chống xuồng ra đồng móc mồi, thả câu rồi cột xuồng ngủ chờ thăm câu lần thứ nhất; móc mồi lại cứ vậy cho đến khi thấy đủ thì chống xuồng về nhà. Còn xa thì chuẩn bị cà rèm, gạo, thóc, nồi niêu, củi đuốc, mắm muối, cà ràng, đèn dầu, mồi câu cho chuyến giăng câu một tuần hoặc mười ngày. Mồi câu cũng được mang đủ theo số ngày ở lại trên đồng. Họ thường giăng ở những cánh đồng lớn ở Bình Di Bắc Nam, Luỳnh Quỳnh, Tám Ngàn, Đồng Tháp Mười Ngày cắm xuồng ngủ, chiều bủa câu, tối thăm câu một lượt và thay mồi, đến sáng thì cuốn câu. Cá giăng được nếu còn sống thì rộng trong xuồng, nếu đã bị ngợp thì xẻ muối làm khô, làm mắm. Cũng có nhiều xuồng ghe đến mua cá, người câu giăng trúng lớn thì đem bán bớt cho nhẹ xuồng. Thời xưa, người câu giăng dài ngày ít ai bán cá còn sống, họ thường rộng cho cá sống rồi mang về nhà, chỉ bán nếu nhiều quá không còn chỗ chứa. Cá giăng được mùa này thường là cá lóc, cá trê trắng, cá trê vàng.

Câu giăng, một kiểu câu đặc trưng miền sông nước Tây Nam Bộ [ Ảnh ST ]

Giăng câu ở những cánh đồng lớn vào mùa nước ngập lút đầu, lút cổ này thường thì hai ba xuồng giăng chung một cánh đồng. Họ tìm chỗ đậu xuồng cùng nhau để giúp được nhau khi cần. Nguy hiểm xảy ra trên đồng muôn hình vạn trạng nhưng nguy nhất là rắn. Rắn hổ đất bơi trong nước thường tấp vào xuồng và trốn trong những bó củi, bó lá dừa mà dân câu mang theo sau để ở sau xuồng hay đầu mũi xuồng. Người đi giăng câu xa mùa này rất cẩn thận khi lấy củi. Họ cũng mang theo cục mật hội phòng khi bị rắn táp sẽ rút nọc độc cứu nguy giữa đồng nước bao la mông quạnh này.

Tháng 9, tháng 10: Vào tháng 9, tháng 10, ai muốn câu cá thác lác, cá trèn thì chuẩn bị mồi tép cùng loại lưỡi câu dấu ó có vọng câu nhỏ. Loài cá này rất thích mồi tép và tép cũng dễ tìm vào mùa này. Cho đến khi có lúa thần nông, dân quê đặt lọp tép để lấy tép làm mồi câu giăng, tiện lợi hơn nhiều so với việc đi xúc tép.

Đến mùa nước giựt [tức nước rút], dân câu chuyển sang câu giăng bằng mồi cua. Lúc này lúa đang trổ bông nên rong đuôi chồn và mã đề mọc rất dày, muốn câu giăng bằng mồi cua người ta phải cắt cỏ, dọn luồng. Mỗi luồng câu chiếm một diện tích có chiều ngang ước chừng cỡ lọt lòng chiếc xuồng bơi tới, còn chiều dài thì tùy thuộc vào người câu chọn luồng ngắn hay luồng dài. Giăng câu cách này là giăng ngầm, luồng câu bủa sát mặt đất ruộng, mồi là cua còn sống, do vậy mục đích dọn luồng là để cua có chỗ bò tới bò lui cho cá dạn ăn mồi. Muốn con mồi sống lâu, người ta móc lưỡi câu vào càng áp út, tránh móc vào yếm hoặc hai mắt của con cua nếu không sẽ làm cua mau chết, cá lóc chê không chịu ăn. Cá dính câu mồi cua thường là cá lóc gần cả ki-lô-gam, hiếm khi thấy cá lóc nhỏ mắc câu mồi cua, điều này cho thấy cá lớn thường ăn ngầm [ăn đáy] còn cá nhỏ ăn mồi nổi, giống như lúc giăng câu vào đầu mùa nước.

Nước giựt cũng là lúc sắp có gió bấc, cá lạnh, ê răng nên thích ăn mồi cắt lát hơn. Người câu dùng cá linh cắt đôi làm mồi hoặc ốc bươu, ốc lác lớn cắt lát. Còn các mùa khác thì mồi chủ yếu là nhái hoặc mồi chạy [cá linh, cá ròng ròng, cá sặt, cá rằm]. Các loại này cả cá trê và cá lóc cùng ưa thích.

Tháng 11, tháng Chạp:Những tháng này nước trên đồng đã cạn, lúa mùa cũng sắp chín, người dân không còn bơi xuồng lên đồng giăng câu được nữa mà chuyển sang thả câu đón cá ở kinh, rạch vì cá cũng đã bắt đầu kéo xuống. Thời gian này, cá lóc lớn vẫn còn rất nhiều ở trên đồng. Chúng bám theo các lung, vũng nên dân câu lại trở vể kiểu câu cắm với mồi cua và mồi ốc. Những con cá lớn sau khi mắc lưỡi thường quấn mình vào gốc rạ nên ít khi bị sẩy.

Những tháng nước giựt, cá bắt đầu xuống sông, kinh, rạch. Người câu giăng thì chọn giăng câu ở sông, rạch còn dân chuyên câu bằng cần thì chọn câu ở mấy gốc gáo, gốc bần, mấy đống chà. Họ câu cá rô đồng, cá rô biển, cá thác lác, cá chạch lấu. Mồi câu là tép đất vì đây là món ăn khoai khẩu của các loài cá này. Nhưng nói đến câu sông bằng cần không thể không nhắc đến mùa câu nước đục, câu cá mè vinh, cá dảnh, cá he tháng 5, tháng 6 âm lịch. Với cá dảnh, cá mè vinh thì câu bằng mồi rong đuôi chồn, loại rong mọc nhiều ở các ruộng lúa, rất dễ tìm. Còn câu cá he thì có loại mồi lá cứt quạ, hạt gòn rang. Nhiều lão nông kể rằng dân câu xưa thường cắt một nắm dây cứt quạ, buộc lại thành bó rồi đem treo ở góc có mấy đám chà để nhử cá. Cá mè vinh, cá he, cá dảnh cứ nghe mùi là bâu lại. Đến khi chúng bâu thật nhiều, rúc rỉa làm lay động đám lá cứt quạ, người câu mới móc mồi rong đuôi chồn, hột gòn rang, lá cứt quạ, thả xuống bên cạnh. Cá liền xông tới đớp, người câu chỉ cần giật cần là dính cá.

Sang tháng chạp, tháng giêng, cá gần như đã xuống sông hết. Nếu còn thì chỉ là cá lóc, cá trê, cá rô còn mắc kẹt trên các đìa bàu, lung, vũng. Khu vực này có nhiều cỏ lác, những loài cá này rất mê cái chất rong bùn ở đồng ruộng nên chưa vội xuống sông rạch. Con nào xuống sớm thường bị các cụ già mê câu nhắp, câu rê chờ sẵn đón đường ở nơi có nhiều chà, các gốc cây lớn như gáo, bần Họ câu bằng những chiếc cần dài, dây ngắn khoảng 3 thước [mét]. Mồi câu mùa này là cá rằm, cá rô đồng, cá rô biển chiều ngang bằng hai ngón tay. Chỉ cần ngồi ở mũi xuồng mà thả câu, mỗi ngày có thể kiếm được 5-10 ki-lo-gam cá. Nếu không có xuồng, họ đi trên bờ rạch, rê cần ở mấy lỗ trống hoặc các gốc cây cũng rất nhiều cá lóc.

Mùa câu cá rô bắt đầu từ tháng 8, tháng 9. Những tháng này, trên những cánh đồng lúa mùa nước rất trong. Một chiếc xuồng vừa lướt qua thôi là đã thấy một bầy cá lòng tong, cá rô đồng ùa theo ăn phấn lúa rơi rớt trên mặt nước. Dân câu cá rô thường bơi xuồng đi câu, câu từ sáng đến chiều về có khi đầy cả một khoang xuồng. Mồi câu là trứng kiến vàng, gạch cua, cua ướm lột, cào cào, châu chấu, váng nhện giăng trên lá lúa. Do câu cá rô dễ vậy nên mùa tháng tám, tháng chín ở các chợ làng, chợ quê bán nhiều cá rô câu và cá sặt đặt lờ. Thời trước cá tôm bắt dễ nên cũng rẻ mạt.

Người không có xuồng lên đồng thì đem rổ xuống kênh, rạch, tìm nơi nào có bóng mát và không vướng cây cỏ để câu cá lòng tong, cá mại, cá thiểu béo ngậy. Mồi nhử là cám rang thật thơm, mồi câu là một hạt cườm màu đỏ hoặc vàng, đem xỏ qua lưỡi câu rồi dùng chỉ buộc chận lai không để cườm vuột ra. Câu bằng loại lưỡi không ngạnh, vọng nhỏ, mũi ngắn được uốn từ cây kim may vá áo quần. Mồi cám rang thơm được xả trên mặt nước, cá nghe mùi thơm bâu lại. Không cần phải chờ cá rỉa mồi, dân câu chỉ nhấc, hạ cần lên xuống liền tay, đều nhịp. Cá thấy hạt cườm tưởng là miếng mồi, chúng nuốt vội và mắc vào lưỡi câu. Khi cá dính câu, họ cũng không ngừng lại gỡ cá mà chỉ cần hạ nhẹ đầu cần xuống cái rổ đặt vừa với tầm của ngọn cần là cá dính câu tự động rơi ra.

Người miền Tây còn có nhiều kiểu câu rất độc đáo, ví như vào mùa nước, vì nước rất trong nên ai ở nhà sàn sẽ thấy từng đàn cá trê trắng bơi, núp quanh mấy cái nống nhà. Trẻ con chỉ cần ngồi trên sàn, khoét một cái lỗ, câu cá trê trắng bằng mồi trùn. Cá trê dính nhiều vì chúng rất dạn ăn. Phụ nữ thì câu cá vồ [cá tra], cá sát bằng mồi gián cánh: Trời vừa chạng vạng, họ bơi xuồng xuống bến sông hoặc ở ngay trong góc sân, nơi có cái lẫm chứa lúa. Một tay họ cầm cần câu, tay kia cầm cái mủng dừa [tức gáo dừa cắt đôi đã nạo hết thịt dừa, thường được người quê làm gáo múc nước] chứa đầy nước, rồi rót nước chảy xuống để nhử cá bu lại. Khi nghe mùi hôi của con gián cánh, chúng xúm nhau giành mồi và người câu tha hồ giật.

Vào mùa nước nổi, chỉ cần ngồi trên sàn là có thể câu cá được [ Ảnh ST ]

Dân câu xưa còn có phương thuốc làm mồi câu cá lăng rất độc đáo mà theo như những người đã từng câu loại mồi này thì con cá dính câu bị kéo lên xuồng, đem chặt đuôi thả lại, một lúc sau sẽ lại bị bắt vì mê mồi. Phương thuốc được truyền từ năm 1957 bao gồm: Cá linh làm thật sạch, thái lấy hai miếng thịt hai bên lưng, đem trộn với thịt ba rọi xắt bằng ngón tay. Tất cả phần thịt cá linh và thịt heo này được ủ trong một cái hũ cải tù xoại với món thuốc bắc gồm đại hồi, tiểu hồi, cam thảo. Mồi ủ khoảng 5-7 ngày là đem ra câu cá lăng được. Sau này, người ta cũng dùng ba loại thuốc bắc này trộn với xác mắm cá linh đã lượt lấy cốt làm nước mắm, làm mồi đặt lọp tép, cá chạch rất đắc ý.

Đến mùa câu, tùy theo địa hình lung, vũng mà dân quê sáng chế thêm kiểu thả câu bằng phao. Kiểu này đơn giản hơn, rường câu không cần dài, chỉ cần một cái phao làm bằng ống sậy dài 4-5 cm. Giữa ống sậy tóm một nhợ câu dài khoảng 8 tấc với lưỡi câu đúc hoặc dấu ó ở cuối nhợ. Mồi trùn hoặc mồi cắt được móc vào lưỡi, sau đó căng nhợ câu, gài vào hai đầu ống sậy thật gọn để các lưỡi câu không dính, rối vào nhau. Tất cả các ống sậy có lưỡi câu, có mồi này được chứa trong một cái túi. Người câu mang túi trên vai, hoặc bỏ trên khoang xuồng, đến các lung- vũng có cá. Họ dọn cỏ một chỗ thật trống, lấy ống sậy ra, gỡ lưỡi câu đặt vào chỗ mới dọn, rồi tiếp tục dọn chỗ khác dành cho ống câu tiếp theoCá mắc câu kiểu này ít khi bị sẩy, vì chúng nuốt xong mồi, biết dính lưỡi, theo bản năng sinh tồn sẽ quấn mình vào gốc cỏ tìm cách thoát thân. Nhưng càng quấn vào thì càng mắc kẹt. Kiểu câu này gần giống câu ngầm nên cá câu được thường là cá lóc, trê vàng, trê trắng.

Sự tìm tòi sáng tạo qua cuộc mưu sinh hàng trăm năm đã góp phần làm nên nét văn hóa câu cá chỉ có ở Tây Nam Bộ.

Kinh nghiệm câu cá của người miền Tây Nam Bộ xưa[Phần 2]

Nói đến cá vùng nước ngọt là nói đến cả loại cá sông [sống ở khu vực sông, rạch] và cá đồng [sống trên các lung vũng, đìa bàu]. Người dân miền tây nam bộ xưa còn cho rằng cá sông nghĩa là cá trắng còn cá đồng là cá đen. Cách hiểu này chỉ mang tính tương đối vì vùng sông nước đồng ruộng miền tây nam bộ có cả mùa nước lên và mùa nước giựt. Khi nước lên thì cá đen hay cá trắng đều tràn lên đồng ruộng. Mùa nước giựt thì cá trắng về sông nhưng cá đen cũng theo nước xuống các con kênh, rạch như cá trắng, chỉ còn một số ít kẹt lại ở lung, vũng, đìa, bàu, mương, rạch

Cá trắng

Cá sông thường có thân thể nhỏ, tròn, mồm nhọn, thoạt nhìn ngỡ là không vảy nhưng kỳ thực là vảy rất nhỏ ví như loài cá lìm kìm con lớn nhất có đường kính chỉ bằng đầu đũa ăn, con nhỏ thì bằng cây tăm, cây nhang.

Cùng loài với cá lìm kìm, nhưng lớn hơn là cá nhái. Cá nhái có con dài đến 2 tấc, thân tròn, vảy rất nhỏ. Con lớn thì bằng ngón chân cái. Đến mùa nước cỏ tháng 11 âm lịch, cá nhái nổi thành bầy trên mặt nước. Dân ruộng ở miền tây xưa làm chỉa xà di bằng kèo dù hoặc bằng căm xe đạp, 3-5 mũi tra vào 1 cái cán dài, rồi đi dọc theo bờ kênh, rạch nào có cá nổi, rình đâm cá nhái.

Ngoài cách đâm cá nhái bằng xà di, người ta còn dùng đăng kéo heo cá nhái. Bắt cá bằng cách kéo heo này khá cực, các dụng cụ cần có là một chiếc xuồng, một tay đăng trải dài một bên be xuồng. Hai người lội xuống nước nắm hai đầu đăng cho chiếc xuồng nằm theo chiều ngang và kéo một khoảng dài chừng 10-12 thước thì cất đăng lên một lần. Bao nhiêu cá vướng đăng đều bị hai người kéo cá đưa miệng đăng lên và trút hết vào xuồng, hết mẻ này đến mẻ khác. Cách đây gần 70-80 năm, cách bắt cá nhái bằng đăng như thế này [còn gọi là kéo heo] của người nam bộ xưa được rất nhiều cá. Đi một chặp có khi được cả giạ cá nhái.

Cá Nhái

Có cách bắt cá nhái khác nữa là xúc bằng vợt: ban đêm người ta ngồi ở mũi xuồng cùng với cái vợt bằng gai hoặc bằng nilon có tra cán ngắn vừa tầm với mũi xuồng. Một người có thể vừa bơi xuồng vừa xúc cá vào vợt hoặc một người bơi, một người ngồi ở mũi xuồng, theo dõi nơi nào có cá nổi thì hạ vợt xuống xúc cá.

Cách xúc cá bằng vợt còn được dùng cả với cá lòng tong, cá chốt. Ngoài ra, các cách bắt cá bằng vó gạt, vó cất hoặc đóng đáy, tuy phần chính là nhằm vào cá linh, nhưng các loài cá khác trong đó có cá nhái bị dính đáy rất nhiều. Thời điểm cá ra sông, trên sông người ta đặt rất nhiều đáy, vó

Cách chế biến món cá nhái ngon nhất có lẽ là kho tiêu với tóp mỡ. Nhiều người còn rất chuộng cá nhái phơi khô vì khô cá nhái nướng với lửa than thơm ngào ngạt một vùng, đem ăn với cơm gạo mới thì cho dù đi giáp vòng trái đất, mất mấy mươi năm, đều thấy nhớ thấy thèm.

Ngoài cá nhái ra, cá lòng tong và cá chốt là hai loại cá khác mà vùng sông nước nào ở miền tây nam bộ đều có cả, chính vì thế dân gian mới có câu: nước chảy tới đâu cá lòng tong lội tới đó. Cá lòng tong có mấy loại chính: Cá lòng tong bay: rất nhỏ, mình hơi dẹp, vảy nhỏ, hai vi trước dài, thường di chuyển theo từng bầy, ăn mồi trên mặt nước. Hễ nghe tiếng động của xuồng, ghe bơi gần hay ếch, nhái, rắn, chuột chạy ngang là chúng vụt nhảy lên khỏi mặt nước hoặc phóng tới phía trước.Thời xưa cá, tôm còn nhiều nên ít ai bắt cá lòng tong bay để ăn vì chúng quá nhỏ và nhiều xương.

Cá lòng tong đá thì mình tròn, vảy trắng, con lớn bằng ngón tay cái, có sọc đen ánh bạc chạy dài hai bên hông. Người ta bắt cá lòng tong đá bằng nhiều cách như câu bằng mồi gạch cua, bằng trứng kiến vàng hay chận hầm, làm mùng [màn], đặt dớn dọc theo kênh, rạch hoặc sông cái lớn, nơi nước chảy chậm.

Thời trước, mỗi lần đi thăm dớn vùng từ rạch Trà Ôn chạy dài xuống Long Xuyên với khoảng vài ba chục nền dớn, cá có khi đầy các khoang xuồng.

Cá lòng tong mương: con lớn bằng ngón chân cái, dài hơn một tấc tây, mình tròn, có hàng vảy hai bên hông màu khá sậm, miệng rộng, thường sống ở vùng kênh có nước chảy mạnh. Có lẽ vì chúng thích sống khu mương, kênh có nước chảy mạnh nên thức ăn của loại cá lòng tong mương này là cá lòng tong bay hoặc các loài cá nhỏ khác. Dân quê hay câu cá này bằng mồi cá lòng tong bay hoặc dùng miếng thiếc mỏng gắn vào lưỡi câu rồi kéo rê ngược nước nơi các vàm mương. Cá lòng tong mương thấy miếng thiếc lấp lánh tưởng cá lòng tong bay nên chúng nhào theo táp miếng mồi giả này và dính câu. Vào mùa nước lên, nhất là vào tháng tám, tháng chín âm lịch, cá lòng tong mương rất béo. Cá câu được đem kho khô cho thêm tiêu, chút mỡ heo, nồi cá kho này ăn với cơm gạo sóc so mới xay về là ngon không gì bằng.

Có một loại cá nước ngọt khác, cũng có thân mình nhỏ, dẹp, vảy nhỏ và cũng béo như cá lòng tong đó là cá thiểu. Khác với cá thiểu là loài cá lành canh, có thân mình giẹp, vảy trắng như cá thiểu nhưng vảy nhỏ hơn, lại có mùi tanh hơn nên ít người thích. Cả hai loài cá này thường được câu bằng lưỡi câu uốn bằng kim may quần áo, gắn hột cườm màu đỏ vào lưỡi câu. Mồi nhử là món cám rang thơm. Dân quê chỉ cần chọn chỗ nào vừa êm, vừa mát và nhất là không có nhánh cây làm vướng nhợ câu là có thể ngồi câu. Cá nghe mùi thơm của cám rang ùn ùn bơi đến từng bầy, thấy hột cườm đỏ tưởng mồi ngon cứ thế lao vào nuốt mồi.

Nói về cá chốt, có thể phân ra làm ba loại: cá chốt trâu [hay còn gọi cá chốt sọc], cá chốt giấy và cá chốt chuột.

Cá Chốt Giấy

Cá chốt trâu chiếm đa số. Loại cá này mình không vảy, đầu hơi giẹp, dưới hai mép có bốn sợi râu, hai bên mang có hai ngạnh và dọc theo hai bên hông có sọc màu sậm chạy dài từ mang tới đuôi cá. Cá chốt giấy thân hơi giẹp, da láng màu trắng bạc, dài hơn cá chốt sọc. Vào tháng ba, tháng tư âm lịch sắp đến mùa mưa, loại cá này ở các sông con nào cũng mang một bụng trứng vàng lớn. Cá chốt chuột thân hình ống tròn, ngắn hơn cá chốt sọc và cá chốt giấy; trên mình có các chấm đen và vàng, loài cá này thích ở các sông sâu hơn là lên trên đồng.

Vào tháng ba, tháng tư, dân ở ruộng thường câu cá chốt bằng kiểu câu quăng với mồi trùn. Ngoài ra, họ còn xả mồi, chận đăng ở các miệng hầm, vàm mương, hoặc chận đăng dọc theo các mép cỏ [còn gọi là đăng mé] vào tháng cá sắp lên đồng. Trong các cách này thì cách đăng mương là được cá chốt nhiều nhất. Có hai cách đăng mương là đăng cố định và đăng lưu động. Trong cách đăng cố định, người ta chọn vàm mương nào có nhiều nhất là cá chốt để trải đăng tại đó, khi trải, họ không trải ở cửa mương để xuồng ghe ra vào. Buổi chiều nước lớn, đến nửa đêm thì nước bắt đầu ròng, người ta xả mồi cá vào lúc chạng vạng tối cho cá ngửi mùi vào mương kiếm mồi. Chờ cá vào cho đến khi nước gần đứng ròng mới lội xuống trải đăng ra, đăng kín cửa vàm mương lại cũng như kiểm tra các chân đăng sao cho chắc chắn là không bị trống để cá không thoát ra được. Xong, họ đi ngủ, chờ đến sáng nước ròng là bắt cá. Họ bắt cá đăng mương bằng tay hoặc bằng nơm, bắt cá lớn như cá trê, cá kết, cá lóc. Sau đó lấy rơm đánh thành con cúi, giống như bó đuốc, dài vừa bằng bề ngang lòng mương, để hai, ba người căng ngang, đẩy sát mặt bùn cho cá dồn về phía vàm mương. Theo sau là những người có nhiệm vụ bắt lại những con cá lớn đang còn sót lại trong bùn.

Còn cách đăng mương lưu động là không trải đăng cố định ở một vàm mương nào, mà chọn vàm mương nào có nhiều cá là người ta chở đăng cùng dụng cụ tới đó để trải. Họ cũng chờ nước lớn, xả mồi, chận đăng và bắt cá như cách đăng mương cố định nhưng khác là sau khi bắt cá xong, họ nhổ đăng đưa về nhà, tối mai lại tìm vàm mương khác đăng tiếp.

Cất vó cũng là cách bắt cá chốt rất hữu hiệu vào những ngày mưa. Thuở trước, các vùng thuộc Long Xuyên, Châu Đốc có rất nhiều cá chốt. Ở làng Mặc Cần Dưng [Bình Hòa] và các vùng lân cận, những năm còn làm lúa mùa, đến mùa mưa tháng tư, tháng năm, người ta thui vài con chuột cho cháy khét rồi đem xuống bến sông. Một tay họ cầm cái rổ, tay kia cầm con chuột đưa qua đưa lại dưới nước, cá chốt bâu lại cả bầy và cứ thế lấy rổ xúc cá. Chúng rất dạn mồi, dù bị xúc như vậy nhưng vẫn lao đến miếng mồi. Người ta tiếp tục xúc cho đến khi nào cá hết bâu vào con chuột nữa mới thôi và dời đi bến khác.Trong ba loại cá chốt vừa nêu thì cá chốt giấy là loại cá ngon hơn cả.

Nhảy hùm, quậy đìa cũng là những cách bắt cá chốt rất hiệu nghiệm. Nhảy hùm là cách làm cho cá chốt nghe tiếng động [do có người quấy nước] mà bâu lại. Người ta cứ cầm rổ. Quậy cho nước động năm, mười lần rồi mới bắt đầu úp rổ xúc. Còn quậy đìa là để cho nước đục, các loài cá, tép bị nước bùn làm cay mắt sẽ nổi lờ đờ trên mặt nước. Cá chốt nổi quơ râu qua lại rất chậm nên người ta cứ việc lấy rổ xúc là xong. Mỗi miệng đìa vào mùa sắp mưa, cá vào đìa rất nhiều nên theo cách quậy đìa như vậy có khi thu được cả thùng thiếc cá.

Cá trê cũng được chia ra làm hai loại: cá trê trắng và cá trê vàng. Gọi là cá trê trắng vì chúng có bụng hơi trắng, cũng như cách gọi theo màu ngã vàng trên thân và bụng cá trê vàng. Cả hai loại cá trê này vừa sống ở đồng vừa ở sông. Trên đồng, chúng thường cư trú ở các khu nước cạn bao gồm đìa, bàu, lung, vũng. Mùa nước lên thì chúng lội khắp các cánh đồng nhưng ưa nhất là chỗ có bờ kênh hoặc đất gò vì chúng thích ăn trùn ở những nơi này. Cả cá trê trắng và cá trê vàng thích sinh đẻ trong hang ở hồ, ao, hoặc các miệng đìa, trái ngược với loài cá lóc hay làm tổ nơi có các bụi cỏ cặp theo bờ, những nơi giáp ranh giữa hai mảnh ruộng.

Cá Trê Vàng

Cá trê cũng như cá lóc, lúc chúng mới đẻ, cá con quây quần thành một mảng đen hình tròn như cái nón. Nếu là ổ cá lớn thì cá con rất đông, có khi bằng miệng thúng. Dân quê gọi hai giống cá mới đẻ này là cá đóng khói đèn. Đến khi lớn, cá lóc con bơi đi kiếm ăn, những con cá ròng ròng, theo cách gọi con cá lóc con to bằng đầu đũa, lội kiếm ăn chung thành từng bầy.

Cá trê con cũng lội từng bầy nhưng ăn ngầm dưới mặt nước. Cá trê trắng lúc nhỏ bằng ngón tay, người ta còn gọi là cá trê đỉa [có lẽ vì chúng còn nhỏ nên dáng bơi lội lăng quăng như con đỉa]. Ít ai bắt cá trê trắng nhỏ để ăn, khi câu được cá trê nhỏ người ta thả trở lại xuống nước cho nó lớn rồi mới bắt. Thời xưa, cá trê trắng sống lâu năm có con lớn cỡ hơn một hoặc hai ki-lo, dân ruộng gọi những con cá lớn này là cá trê dừa.

Cá lóc vùng Châu Đốc

Quay lại con cá lóc, khi con cá ròng ròng lớn lên bằng ngón chân cái thì được gọi là cá lóc con hoặc cá cò cững. Lớn cỡ cẳng tay, cán mác thì dân quê gọi cá theo tên mà người ta mường tượng với các vật vừa kể, ví như cá lóc cán mác, cá lóc đầu gối Có những con cá lóc sống lâu năm nơi các lung, vũng, nơi nước không bao giờ khô cạn, có thân thể rất lớn, vảy đen ngòm, có thêm cặp râu ở ngay miệng, được gọi là cá lóc cối, hoặc cá lóc biết nói.

Ở các vùng nước ngọt còn có hai giống cá rất gần với cá lóc, đó là cá dầy và cá bông. Cá dầy có đầu giẹp, mỏ dài, vảy nhuyễn, mình màu nâu, thân nhỏ, con lớn nhất chỉ khoảng 500 gram. Vùng Long Xuyên, Châu Đốc ngày xưa cũng có cá dầy, chúng thường sống nơi đìa, bàu nhưng không nhiều bằng các vùng nước trầm thủy khu rừng tràm địa phận Cà Mau, Rạch Giá

Cá bông có hình dạng giống cá lóc, mình rất lớn có vằn đen, vảy lớn, đầu hơi nhọn, miệng rộng, ăn tạp và bơi rất mạnh, con lớn nhất có khi bằng cái gối ôm. Những năm nước lụt lớn, vùng Mặc Cần Dưng [Long Xuyên] vào tháng nước cỏ trong vắt, dọc theo hai bờ rạch Mặc Cần Dưng- Xà Tón người ta thường lựa những gốc cây gáo lớn rồi lấy lá chuối che một cái chòi làm tum ngồi chờ cá bông bơi vào tum nghỉ mát. Họ cầm cái chỉa xà búp ba mũi để đâm cá bông. Mỗi ngày ngồi tum gặp lúc cá vô tum nhiều, có người đâm cả chục ký là thường. Vào mùa vó gạt lúc cá ra, không có cách nào bắt cá bông nhiều bằng cách này vì vó gạt căng ngang mặt sông nên cá ít khi lọt vó.

Trong ba giống cá lóc, cá dầy, cá bông thì cá lóc là ngon nhất, kể cả các loài khô của ba giống cá này thì khô cá lóc vẫn là số I so với hai loại khô cá dầy và cá bông.

Kinh nghiệm câu cá của người miền Tây Nam Bộ xưa[Phần 3]

Vùng sông rạch nước ngọt, còn có nhiều cá chạch. Có hai loại cá chạch là cá chạch cơm và cá chạch lấu. Cá chạch cơm bụng trắng, thân nhỏ, con lớn nhất bằng ngón chân cái, dài cỡ gang tay. Cá chạch lấu khá lớn, thân mình có bông rằn ri, dài cỡ 3-4 tấc, có con dài 5 tấc, cân nặng từ 500gram trở lên. Cả hai loại cá chạch này đều rất béo, nhất là cá chạch lấu. Cá chạnh nướng, kho cà ri hoặc kho nghệ là món ngon trong các bữa cơm gia đình ở miền thôn dã.

Vào tháng Hai, tháng Ba âm lịch, dân quê thường bắt cá chạch cơm bằng bàn cào. Bàn cào được làm bằng sắt, tra vào cán tầm vông dài. Người cầm cào đưa bàn cào ra xa, ghì mạnh tay cho bàn cào bấu sâu xuống đất bùn, giữ cho bàn cào ở tư thế đó rồi kéo mạnh hướng vào trong chỗ đang đứng. Bàn cào bấu sâu như vậy để khi gặp phải cá chạch lẫn trong bùn sẽ bị mắc vào các răng sắt của bàn cào, người ta chỉ cần gỡ cá bỏ vào xuồng. Một con nước ròng, dùng bàn cào có khi được nửa thùng thiếc cá chạch hoặc nhiều hơn.

Cá chạch cơm được bắt bằng cách đặt lọp vào mùa nước lên trên các cánh đồng. Đặt lọp khá công phu nhưng cũng nhàn hạ. Dân quê cứ xế chiều là lo làm mồi. Mồi thì chỉ có cám rang thật thơm hoặc cua đồng tách ra rồi trộn với xác mắm cá linh, vò với đất sét. Cá chạch rất thích món mồi này. Về sau, người ta còn thêm đại hồi, tiểu hồi trộn chung với cám rang, xác mắm, cua, trùn Chuẩn bị mồi xong, đến chiều muộn thì bắt đầu đưa lọp xuống xuồng. Họ chèo xuồng đến vạt đất nào muốn đặt lọp, rồi rời xuồng, lội xuống nước và kéo xuồng theo. Họ vừa dắt xuồng vừa lấy bàn chân dọn nền lọp bằng cách chà cho nền lọp trũng xuống một chút, sau đó lấy lọp đặt xuống chỗ nền vừa mới chà xong, cắm một cái cây ghìm cho lọp không trôi. Trở miệng lọp xuôi theo dòng nước chảy để mồi đặt trong lọp trôi theo nước đưa mùi thơm đi xa. Cá bắt được mùi sẽ lội ngược nước tìm miệng lọp chui vào. Người đặt lọp không quên gom cỏ hoặc lúa làm thành cái gù nhằm làm dấu để khi dỡ lọp không bị bỏ sót, nếu không làm dấu như vậy lọp dễ bị lạc vì mỗi người có đến vài trăm lọp.

Sang tháng Tư, tháng Năm âm lịch, dân ruộng chuyển sang bắt cá chạch cơm bằng cách buộc một chùm lá chuối khô để xúc cá chạch. Họ cũng xúc cá chạch dọc theo các dề lục bình trôi trên các kênh, rạch vào mùa nước cỏ lúc cá ra sông tháng mười một, tháng chạp.

Bắt cá chạch lấu thì có hai cách, đó là đặt rù hay câu bằng cần. Tháng nước giựt người ta câu cá chạch lấu bằng mồi tép. Cá chạch lấu thích dựa vào các gốc cây lớn như cây gáo, cây bảy thưa, cây bần, dân quê neo xuồng cặp theo các gốc cây này. Họ móc mồi tép vào lưỡi câu. Dùng chì neo cách lưỡi câu chừng vài ba tấc để cho lưỡi mau chìm xuống nước và không bị trôi. Cá chạch lấu rất dạn ăn, hễ gặp mồi là lao tới ăn câu liền. Cá chạch lấu cũng rất khỏe nên khi chúng bị mắc lưỡi, nếu giật chậm một chút là chúng có thể kéo dây chạy vào gốc cây rất khó bắt lại.

Bắt cá chạch bằng cách đặt rù [hay còn gọi đặt lu, đặt khạp, đặt bộng], hoặc kéo bò là gọi theo các vật dụng dùng để bắt cá chạch. Dân quê chỉ đặt rù hoặc kéo bò bắt đầu từ tháng nước giựt đến hết tháng tư âm lịch, vì thời gian này mưa nhiều và liên miên, cá bỏ sông về đồng nên dùng phương pháp rù sẽ không có cá. Dùng rù bắt cá chạch lấu cũng bắt được cá rô biển, cá trê, cá lóc vì các loài cá này thích ở nơi có nhiều chà, có thể chúng cảm thấy những cái rù này êm quá nên vào chơi cho vui. Ngày xưa, nhiều cá nên mỗi ngày người ta dỡ rù một lần, nhưng chắc nhất là cách hai ba ngày dỡ một lần vì rù êm, ít ai động đậy, cá dạn sẽ vô trú ẩn nhiều hơn.

Cá Chạch lấu

Cá linh vùng sông nước Cửu Long như miệt Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Cao Lãnh có hai loại: cá linh ống và cá linh rìa. Cá linh ống có thân hình ống tròn, vảy nhuyễn. Cá linh rìa thì thân hình hơi giẹp, hai bên hông có lằn vảy màu sậm đen. Nói đến cá linh nghĩa là nhắc đến cá linh ống vì loại này chiếm phần lớn trong các bầy cá linh; cá linh rìa có số lượng ít hơn. Cả hai giống cá này khi còn nhỏ chỉ lớn bằng đầu đũa ăn, nên được gọi bằng tên chung là cá linh non. Chúng có thói quen sống thành đàn, ăn rong ngầm dưới mặt nước. Chính vì thế dân quê mới tìm cách bắt cá linh bằng đăng, đó, giăng lưới, đặt dớn, đóng đáy giữa sông lớn, lưới gạt, vó cấtVì cá linh cũng như cá sặt, có miệng rất nhỏ, ít ăn câu nên không ai đi câu hai loại cá này.

Cá Linh ống

Cá he có đuôi và kỳ màu đỏ. Khi cá he lớn, ngoài đuôi và kỳ màu đỏ chúng còn có mang và vảy ửng vàng nên dân quê thường gọi là cá he nghệ. Cá he nghệ ở các kênh, rạch miền Tây cũng nhiều nhưng so với các loại cá khác thì không đáng kể.

Ở các khu vực sông Cái như sông Tiền Giang, Hậu Giang, người ta thường chất từng bó chà ở những khúc sông không sâu lắm. Bằng kinh nghiệm, họ biết cá he thích trú ẩn trong những nhánh tre bó lại thành từng bó, to bằng một vòng ôm nên mới bó nhánh tre để dụ cá he vào ở. Mỗi tháng hoặc hai tháng họ dỡ chà một lần, tùy theo nơi cá nhiều hay ít. Cá he nghệ thích ăn cám rang, hột trái ké, dây cứt quạ, lúa rang. Người ta thường dùng những loại mồi vừa kể để câu cá he. Ở các vùng như Tân Châu, Châu Đốc, cá he được nuôi trong các bè nổi trên sông, mồi cho cá he ăn ngoài cám rang, các chủ bè còn cho ăn bí rợ, cà chua hoặc các loại rau cải vụn bán ở các chợ. Riêng các vùng Lấp Vò, Sa Đéc, cá he được nuôi chung với các loại cá trắng khác như cá mè vinh, cá dảnh, cá éc, cá hô trong các ao hồ trong vườn. Mồi cho cá he và các loại cá này là cơm nguội trộn với cám rang. Mùa tháng ba, tháng tư có chuột đồng thì ruột chuột, da chuột làm mồi cho cá trong ao hồ rất tốt. Những tháng mưa hoặc tháng nước lên có nhiều cua ốc, người ta bằm cua ốc cho cá ăn cho cá mau lớn.

Cá he nghệ

Ở sông rạch vùng Long Xuyên-Châu Đốc vào tháng nước giựt còn có loại cá heo với hai ngạnh rất sắc nằm ở hai bên mang. Thân cá có da láng, ửng vàng cùng vằn ngang màu đen, rất béo. Loại cá này phần nhiều bắt được bằng cách đóng đáy giữa sông hoặc dùng vó gạt. Các cách bắt cá khác như câu, lưới, kể cả vó cất, đặt dớn cũng chỉ bắt một số ít chứ không nhiều bằng hai cách vó gạt hay đóng đáy giữa sông, vì loại cá này cũng hiếm so với các loài cá khác trong vùng nước ngọt. Thêm vào đó, cá heo có đặc tính đi ngầm dưới nước và thích ăn rong nên bắt chúng bằng cách câu hoặc giăng lưới không hiệu quả lắm. Cá heo chế biến ngon nhất là kho tiêu.

Cá heo nước ngọt vùng Long Xuyên- Châu Đốc

Riêng về cá bống cũng có nhiều loại như cá bống mọi, cá bống trứng, cá bống cát, cá bống mú hay còn gọi là cá bóng tượng. Cá bống mọi thân nhỏ bằng ngón tay, con lớn nhất bằng ngón tay cái, dài chừng 4-5 phân, có vảy màu sậm. Cá bống trứng cũng nhỏ như cá bống mọi nhưng bụng nhạt màu hơn, có cặp trứng bên trong ửng vàng lộ ra bên ngoài. Cá bống cát mình dài có vảy thưa và thịt hơi trong. Cá bống mú [còn gọi cá mú hay cá bống tượng] là loại cá bống lớn, mình ngắn, trên mình vảy có bông hoa rất đặc biệt và là loài cá ngon trong các loài cá sông.

Cá bống tượng

Cá dảnh là loại cá trắng rất có tiếng trong các loài cá trắng vùng nước ngọt. Ngày trước lúc cá tôm vùng nước ngọt còn nhiều, cá dảnh câu được có con lớn bằng cái dĩa bàn. Cá dảnh có hình dạng hơi giẹp, vảy nhuyễn, nhiều xương nạng còn gọi là xương hom, lúc còn nhỏ thịt ít nhưng cá lớn có con nặng cả ki-lo-gram. Món cá dảnh nướng là món ăn rất ngon. Cũng như nhiều loại cá trắng khác, tuy là cá sông nhưng tới mùa nước lên cá dảnh cũng sống trên đồng và ưa cư ngụ ở những nơi có nhiều rong đuôi chồn hay mã đề.

Chúng rất thích ăn những loài rong ấy cũng như thích ăn lúa hột rang cho vàng hoặc dây cứt quạ. Biết được sở thích ấy nên dân quê thường nhử cá bằng cách rang lúa hoặc cắt dây cứt quạ, bó lại thành chum rồi đem buộc ở nơi đóng chà, cá sẽ tụ lại rút, tỉa là cứt quạ.

Cá dảnh

Cá mè vinh có những đặc tính giống như cá dảnh nhưng cá mè vinh vảy lớn hơn, thân cá dầy hơn và cũng có nhiều xương nạng. Kỳ cá dảnh màu trắng nhưng kỳ cá mè vinh màu hơi sậm hơn và ửng đỏ. Cá mè vinh càng lớn thì vảy càng đậm, khi chúng bơi lội dưới nước, lớp vảy lấp lánh trong nước như hột cườm chiếu sáng nên dân ruộng gọi cá mè vinh lớn lá cá mè vinh cườm, có con lớn gần bằng cái dĩa bàn. Giặng lưới vào mùa nước lên sẽ bắt được hai loại cá mè vinh và cá dảnh, đây cũng là cách thông dụng nhất nơi đồng ruộng. Các phương pháp khác như chất chà, vải chài, đóng đáy, vó cất, vó gạt cũng là những cách bắt cá dảnh, cá mè vinh mà dân quê thường áp dụng. Ai thích câu thì câu chúng bằng mồi rong đuôi chồn hoặc lá cứt quạ vào tháng cá ra sông.

Cá mè vinh

Sông nước miền Tây còn có loại cá lưỡi trâu cũng không kém phần hấp dẫn. Cá lưỡi trâu có vảy màu vàng nhạt ở trên lưng, vảy ở bụng màu trắng. Đóng đáy và vó gạt là hai cách bắt cá lưỡi trâu rất hữu hiệu được người xưa hay áp dụng. Ngoài ra còn có các cách bắt khác như câu, chài hoặc giăng lưới nhưng không được nhiều cá. Cá lưỡi trâu không được nhiều như các giống cá khác.

Cá lưỡi trâu

Cư ngụ ở các sông rạch nước ngọt có hai loại cá rô là cá rô biển và cá rô đồng. Cá rô biển ở sông nhiều, nhất là vào mùa nước giựt, chúng thường hay dựa theo các gốc cây lớn. Kỳ trên và kỳ dưới của cá rô biển đều rất sắc nhưng chúng không dùng để đâm kẻ thù, có thể nói cá rô biển thuộc loại cá rất hiền. Cá rô biển nhỏ bằng hai ba ngón tay trở xuống có tên là cá rô biển dăm, ngược lại với cá rô biển lớn cỡ bằng bàn tay hoặc có con lớn bằng cái dĩa bàn thì được gọi là cá rô biển bà. Cá rô biển dăm thường được làm mắm hoặc làm khô. Cá rô biển bà đem chiên chấm nước mắm gừng là ngon hết sẩy. Tùy theo mùa mà dân quê có cách bắt cá rô biển khác nhau. Tháng mười một, tháng chạp âm lịch là lúc cá dại, người ta đi đâm cá bằng chĩa xà di hoặc câu cá bằng mồi tép. Nhưng đến tháng giêng, tháng hai thì họ đặt rù, kéo bò. Cá rô biển thích dựa gốc cây, dựa chà nên chất chà cũng là cách bắt cá rô biển rất hữu hiệu. Tháng nước giựt gần khô đồng thì cá rô biển dính lưới giăng trên đồng rất nhiều, đây cũng là dấu hiệu đồng ruộng gần cạn nước . Điều đó cho thấy cá rô biển là loại cá ra sông sau cùng khi nước giựt.

Cá rô đồng

Cá rô đồngnhư tên gọi là loại cá đồng để phân biệt với cá rô biển ở sông nhiều hơn. Khi nhỏ cá rô đồng có tên là cá rô cam tích hoặc cá rô non. Sở dĩ người dân quê gọi loại cá rô này như vậy là vì chúng tuy là cá nhỏ nhưng rất ham ăn nên cái bụng no tròn giống như trẻ nhỏ bị bệnh cam tích với cái bụng lớn. Ngoài ra, theo cách bắt cá rô mà người ta còn đặt thêm nhiều tên gọi khác nữa như cá câu thì có tên là cá rô câu, cá lưới lại có tên cá rô lưới. Gọi cá rô câu thì gồm có cá lớn, cá nhỏ lẫn lộn, nhưng gọi cá rô lưới nghĩa là cá cùng một cỡ với nhau, chẳng hạn lưới năm phân thì cá rô dính lưới có bề ngang đồng đều cỡ từ năm phân trở lên vì cá rô nhỏ hơn năm phân sẽ bị lọt lưới. Cá rô lớn sống lâu năm trong các đìa, bàu, lung, vũng có con gần bằng cẳng tay được dân quê gọi là cá rô mề.

Kinh nghiệm câu cá của người miền Tây Nam Bộ xưa [Phần Cuối]

Ở sông rạch miền Tây nam bộ, có một loại cá chiếm phần lớn trong các loại cá trắng, cá sông là cá thác lác. Cá thác lác rất thích cư ngụ ở các đống chà, nhất là chà tạo bỡi các nhánh me nước. Dù sống ở sông nhưng tới mùa nước lên cá thác lác cũng như nhiều loài cá sông khác cũng theo nước lên đồng. Vào mùa này, giăng lưới cá trắng với loại lưới có lỗ rộng 7-8 phân thì được rất nhiều cá, nhất là lúc nước gần giật xuống vào tháng 10, tháng 1, cá thác lác ra bờ kênh, dân quê đem lưới đến giăng ở những nơi nước đổ ra kênh, rạch, cá thác lác dính vào lưới trông rất mê.

Cá thác lác là tên chung chỉ giống cá mình giẹp giống như lưỡi dao, có kỳ dưới mỏng, vảy cá màu trắng và nhuyễn. Tuy vậy, dân quê cũng dựa vào hình dáng để phân biệt vài loại cá thác lác. Nếu cá thác lác còn nhỏ, đuôi cá rất mỏng, người ta gọi là cá thác lác lưỡi mèo. Loại cá thác lác có lưng cong xuống, hai bên hông có nhiều chấm đen [từ 7- 9 chấm hoặc nhiều hơn] xếp thành hàng dài từ chỗ cách mang cá vài phân đến gần đuôi cá, được gọi là cá thác lác còm hay cá còm.

Cá thác lác còm

Cá trèn là loại cá không vảy, thịt trong, đuôi mỏng, đầu cá có lớp sụn rất giòn, hai râu cá ở hai bên mép miệng. Vào những năm còn làm lúa mùa, cá trèn có rất nhiều. Những ngày cá dại tháng 11, tháng chạp âm lịch, cá trèn cùng các loài cá khác nổi đầy mặt nước. Trẻ con thời ấy thích đi đâm cá trèn với chỉa xà di làm bằng căm xe máy, đi chỉ một lát là được cả một xâu cá dài. Cá trèn có hai loại, loại đuôi rất mỏng gọi là cá trèn lá; loại bụng lớn thì được gọi là cá trèn bầu. Cả hai loại này đều thích mồi tép cho nên vào những ngày nước gần giật xuống người ta thường giăng câu cá trèn bằng mồi tép. Lưỡi câu giăng loại cá này có hình dạng như lưỡi câu dấu ó dùng để giăng cá trê nhưng vọng lưỡi rất nhỏ, vừa bằng miệng cá trèn. Thông thường người ta bũa câu từ chiều, có người bũa sớm hơn nếu câu nhiều [khoảng 300-500 lưỡi]. Bũa câu xong, họ mới móc mồi tép, tính toán sao cho vừa móc mồi xong là trời vừa sụp tối vì loại cá này cũng như cá trê, cá lóc thường ăn mồi vào ban đêm. Sau đó họ nghỉ ngơi khoảng vài tiếng đồng hồ rồi mới đi thăm câu và móc mồi lại một lượt nữa, cứ thế cho đến gần sáng thì cuốn câu chống xuồng về nhà.

Cá trèn

Vùng nước ngọt còn có các loài cá có cùng hình dạng như cá trèn, nhưng lớn hơn, đó là hai loại cá kết và cá leo. Cá kết mình giẹp, đuôi mỏng, ngược với cá leo mình đầy đặn hơn và lớn hơn. Hai loại cá này thích ăn mồi tép nhưng vào tháng bảy, tháng tám, ở các con rạch nhiều cỏ, người ta giăng câu hoặc cắm câu với mồi cá linh hoặc cá sặt non thường dính cá leo, cá kết và cá lăng. Những loại cá ăn câu vào mùa này đều lớn và nặng có khi cả ki- lô.

Cá leo

Cùng loại cá không vảy, các vùng sông rạch miền tây nam bộ còn có cá tra, cá vồ, cá bông lau, cá ba sa, cá bụng, cá soát [có người còn gọi là cá sát]. Các giống cá này lúc nhỏ trông rất giống nhau, rất khó phân biệt, đến khi cá lớn mới nhận ra rõ giống.

Chẳng hạn cá vồ thì mình ngắn hơn so với cá tra. Có nhiều con cá vồ sông Cái lớn có kỳ trên gương cao mà dân quê còn gọi cá vồ cờ; hoặc hai bên mang cá vồ có hai chấm đen người ta gọi là cá vồ đém. Riêng cá bông lau so với cá tra thì chiều dài cũng ngắn hơn nhưng có nét đặc trưng là có bụng rất béo; còn cá ba sa thì chiều dài ngắn hơn cá vồ và cá tra, da bụng dày đầy mỡ. Cá bụng, dù có tên gọi như vậy nhưng loại cá này không lớn như cá tra, cá vồ, cá ba sa, cá bông lau. Cá bụng lớn nhất cũng chỉ chừng nửa cẳng tay, ít khi lớn hơn.

Cá soát [hay cá sát] gần giống như cá bụng nhưng mình giẹp hơn. Loại cá soát và cá bụng thích ăn mồi gián. Vào mùa nước lên khoảng tháng tám, tháng chín, dân quê thường câu hai loại cá này bằng mồi con gián. Người ta chọn những bến sông nước chảy êm, ngồi trên mũi xuồng, tay trái cầm gáo dừa có khoét lổ nhỏ, múc đầy nước rồi cho nước chảy xuống mặt sông, tay phải cầm cần câu móc mồi gián thả chìm xuống nước. Cá nghe tiếng nước chảy sẽ bơi lại nơi có nước xao động để kiếm ăn. Ở bến câu này có bao nhiêu cá soát, cá bụng đều dính câu hết, vì chúng là loại vừa dạn ăn vừa thích mồi gián. Tóm lại, cá vồ, cá tra là hai loại cá lớn nhất trong các loại cá vừa kể nhưng cá bông lau là cá ngon nhất.

Nhắc đến sông Cái, những năm 1940-1950 vào tháng Hai, tháng Ba âm lịch, dân câu chuyên nghiệp thường thả câu hoặc thả lưới dọc theo sông Tiền hoặc sông Hậu và bắt được cá hô, có con lớn vảy bằng miệng chén. Cá hô khi còn nhỏ dân quê hay gọi cá hô đất, có lớp vảy phản chiếu nhiều màu sắc lấp lánh rất đẹp. Người ta có thể nuôi cá hô trong ao hồ. Chúng ăn cua, ốc, tấm cám rang. Cá hô đất lớn dần thành cá hô lớn, giống như loài cá hô sống trên các sông Cái, có con lớn bằng cái khạp đựng đường. Thịt cá hô rất ngon, ngon nhất là đầu cá hô với lớp sụn rất béo và giòn.

Cá hô

Vùng nước ngọt còn có hai loại cá trắng cũng khá lớn là cá mè hôi và cá chẽm. Cá mè hôi tương tự như cá mè vinh nhưng lớn hơn, mình dài hơn, có con cân nặng vài ki-lô, điểm đặc biệt của loại cá này là mỡ có mùi hôi cho nên mỗi khi làm cá người ta bỏ mỡ cá.

Cá mè hôi

Cá chẽm là loại cá ngon trong các loại cá trắng vùng nước ngọt. Cá chẽm dài khoảng 3 tấc, có con dài đến 4 tấc, thân có vảy nhuyễn, cá chẽm đặc biệt có hai mang rất sắc như lưỡi dao cạo. Mỗi khi dỡ chà, cá chẽm thường bơi lên phía trên đống chà mà dân chuyên nghiệp gọi là ổ cá, chúng cố bơi dựa vào mặt lưới và dùng hai mang sắc bén ấy rạch lưới chui ra ngoài. Do vậy, qua kinh nghiệm dỡ chà, người ta phân công một người canh phòng khi cá chẽm bơi gần mép lưới dùng mang chém lưới, vì nếu không canh chừng như vậy chẳng những cá chẽm chém lưới chui ra ngoài mà các loại cá khác cũng theo chỗ lưới rách ấy tìm đường thoát ra.

Cá chẽm

Ngoài các loại cá trắng lớn như cá chẽm, cá mè hôi, v.v, vùng nước ngọt còn có cá éc, cá cóc, cá chài, cá ngựa. Cả bốn giống cá này đều có đặc điểm chung giống nhau là có rất nhiều xương hom [còn gọi là xương nạng] nên dù thịt ngon nhưng ăn cả bốn loại cá này rất dễ bị mắc xương. Chỉ có cá éc có vảy màu đen sậm, còn lại ba giống cá kia vảy của chúng màu trắng.

Cá éc

Cá chài có môi và đuôi màu đỏ, rất thích mồi bắp hầm và hạt bưởi. Mùa nước lên tháng chín, người ta giăng câu cá chài bằng hai loại mồi này rất nhạy.

Cá cóc mình thon dài, vảy trắng nhuyễn, khi lên khỏi mặt nước, hai mang nó phát ra tiếng kêu như cóc kêu nên dân quê gọi là cá cóc. Cá éc khi lên khỏi mặt nước hai mang cá cũng thở và phát ra tiếng éc, éc nên dân quê cũng gọi loại cá này là cá éc. Còn cá ngựa có hình dáng giống cá cóc nhưng vảy to hơn, hai bên hông, cách mang cá khoảng chừng vài phân có hai hàng vảy nằm ngang màu sậm, bề ngang khoảng nửa phân, chiều dài hai phân. Cá ngựa thích đuổi theo cá lòng tong khi tìm mồi nên chúng thường nhảy lên khỏi mặt nước ở các vàm mương nước chảy mạnh, giống như ngựa bay, ngựa nhảy, có lẽ vậy nên dân quê đặt tên cho chúng là cá ngựa.

Cá cóc

Nói đến cá vùng nước ngọt, không thể không nhắc đến loài cá sặt và cá rằm. Cá sặt là giống cá đồng còn cá rằm là cá sông. Cả hai loại cá này có vảy trắng. Vảy của cá sặt rằn có sọc ngang màu khá sậm do chúng sống ở các vùng lung, vũng nước ngập quanh năm, còn hầu hết các loại cá sặt điệp, sặt bướm đều có vảy màu trắng. Hai giống cá này có điểm đặc biệt là ra sông sau cùng khi mùa nước trên đồng sắp cạn.

Cá sặt

Cá rằm theo nước xuống các kênh rạch, còn cá sặt một số cũng rút xuống kênh nhưng đa phần xuống các lung, vũng hoặc đìa, bàu và ở đó cho đến mùa tát đìa.

Cá rằm

Sông nước miền Tây phần nhiều là nước ngọt, chỉ trừ một vài tỉnh tiếp giáp với các vùng duyên hải thì nước thường bị pha chè, nghĩa là khi nước thủy triều dâng lên, nước biển tràn vào các cửa sông, nước mặn của biển và nước ngọt của sông pha trộn nhau nên dân quê gọi là nước pha chè. Vị của loại nước này hơi lờ lợ, nặng mùi nước biển, tuy không mặn lắm nhưng không hoàn toàn ngọt như nước các vùng Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc, Cao Lãnh Trong các vùng nước pha chè thường có nhiều cá đối, chúng ăn bọt nước và các sinh vật nhỏ, tập trung nhiều nhất ở các ngã ba Nước Trong, Hỏa Lựu, Long Mỹ [Chương Thiện], Vĩnh Thuận [Rạch Giá]. Ở các vùng nước pha chè này còn có loại cá nâu hình dạng giống như cá chim ở biển, hoặc cá rô biển ở sông rạch nhưng trên thân có những chấm đen. Loại cá nâu này có đặc điểm là có các kỳ nhọn, mỗi khi bị kỳ đâm, chỗ xước rất đau nhức giống như bị gai đâm. Trong vùng nước pha chè này cũng có nhiều cá ngác, loài cá có hình dáng giống cá trê trắng, chỉ khác là chúng có thêm kỳ trên rất sắc. Cả cá trê trắng và cá ngác đều có ngạnh, người nào chẳng may bị ngạnh cá đâm sẽ rất đau nhức, đặc biệt là ngạnh cá ngác gây đau hơn cá trê rất nhiều, một vết đâm có thể gây nhức 24 giờ còn vết sưng kéo dài cả tháng, trong các loài cá gai thì cá ngác là loài đâm gây đau nhức hơn bất kỳ loài cá nào. Người xưa trị chứng cá ngác đâm bằng cách ngâm tay hoặc chân bị cá đâm vào thau cơm mẻ đã đun ấm.

Còn nhiều loài cá nước ngọt sống ở các sông rạch miền Tây nam bộ khác nữa như cá nóc, cá sơn, cá bã trầu, cá lia thia, cá thòi lòi, cá vằn vện vân vân mà tên gọi của chúng được tạo ra bỡi các nét đặc sắc riêng của mỗi loài. Nói về cách đặt tên các loài động vật của người xưa, như cách đặt tên các loài chim, học giả Vương Hồng Sển có viết: Bởi ở xa triều đình nên lời nói mộc mạc quê mùa, cứ thấy con chim nầy đặc sắc có bộ lông đen thì gọi con chim lông ô, và cũng vì thấy đầu chim sói sọi, nên gọi đó là con chim gà sói, hoặc cũng gọi con chim già đãy, vì đã già mà chớ, thêm nơi cổ có kèm một cái túi đeo lòng thòng nhỏng nhảnh nơi cần cổ trụi lủi lông, trông dị hộm như lão thầy rùa đeo bầu trên sân khấu hát bội. Khi đặt tên cho các loài cá vùng nước ngọt cũng vậy, người dân gọi tên cá theo hình dạng lớn nhỏ, theo màu sắc trên vảy, theo thói quen kiếm ăn, theo từng giai đoạn cá sinh trưởng: mới nở, bắt đầu lớn, sống lưu niên. Ngoài ra, họ còn căn cứ vào cách bắt chúng như giăng câu, giăng lưới, đặt lọp, đặt lờ, tát đìa, làm lóng, v.v mà có thêm rất nhiều tên gọi. Từ thuở hồng hoang, người dân sống nơi thôn dã không có điều kiện học hành, khoa học kỹ thuật cũng đang buổi sơ khai nhưng họ nhận biết được các đặc tính riêng của từng loài cá để đặt tên, nhằm phân biệt được chúng, những cái tên dân dã, đầy đủ tượng thanh, tượng hình, rất phổ quát và giản dị. Các loài cá cùng những cái tên đó đã theo con người đi khai khẩn, làm nên một vùng đất phương nam vô cùng giàu đẹp, mang đậm bản sắc văn hóa không thể lẫn vào bất kỳ miền nào.

//www.vietnamfishingreview.com

Share this:

Video liên quan

Chủ Đề