Cải cách giáo dục của vua Quang Trung được đánh gia là tiến bộ vì

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA SƯ PHẠM BỘ MÔN SƯ PHẠM LỊCH SỬ Luận văn tốt nghiệp sư phạm Lịch Sử K35 ĐỀ TÀI: CÔNG CUỘC CẢI CÁCH TRONG TRIỀU ĐẠI QUANG TRUNG: THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ GVHD: Ths. Khoa Năng Lập SVTH: Lê Minh Đủ MSSV: 6095928 Cần Thơ, 5/2013 Lời cảm ơn Khoảng thời gian của 4 năm Đại học sao mà trôi qua nhanh quá. Mới ngày nào còn là một cậu học sinh phổ thông bở ngỡ và xa lạ với môi trường Đại học, phải khó khăn lắm mới tìm được tài liệu cho những học phần đầu tiên, thế mà giờ đây đã sắp ra trường, sắp kết thúc quãng đời sinh viên với bao kỉ niệm vui, buồn bên lớp, bạn bè và Thầy Cô. Đúng là thời gian thật vô tình, nó trôi qua là đi mãi không bao giờ đợi chờ một người nào cả, khiến chúng ta phải suy nghĩ lại những tháng ngày đã qua. Trong 4 năm học tập tại Trường Đại Học Cần Thơ, mặc dù chưa phải là khoảng thời gian dài để tôi có thể trưởng thành, nhưng đó cũng là khoảng thời gian đã giúp tôi có những bước đi vừng vàng và chững chạc hơn. Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy Cô của trường, của Khoa, và đặc biệt là Bộ môn sư phạm Lịch Sử, những người đã giảng dạy và truyền đạt cho tôi kiến thức và kinh nghiệm sống thật vững vàng để làm hành trang bước vào đời. Cảm ơn Thầy Trần Minh Thuận, tập thể lớp sư phạm Lịch Sử khóa 35, những người bạn đã cùng tôi vượt qua những tháng ngày khó khăn, vui buồn trong học tập và cuộc sống. Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình, tôi xin chân thành cảm ơn Thầy Khoa Năng Lập, người Thầy đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài, để tôi có thể hoàn thành tốt bài làm của mình. Đồng thời tôi cũng xin cảm ơn Thầy Cô, anh chị trong thư viện Khoa, Trung tâm học liệu, thư viện Thành phố cần Thơ, đã tạo điều kiện để tôi có thể tìm kiếm tài liệu tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn! NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ PHẢN BIỆN .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... Mục lục PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................. 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................... 5 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 5 5. Bố cục luận văn ................................................................................. 5 PHẦN NỘI DUNG .................................................................................... 7 CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH ĐẠI VIỆT THẾ KỶ XVIII VÀ SỰ THÀNH LẬP VƯƠNG TRIỀU TÂY SƠN ........................................................... 7 1.1. Sự khủng hoảng và suy vong của chế độ phong kiến trong phạm vi cả nước ........................................................................................... 7 1.2. Quá trình thành lập vương triều Tây Sơn ...................................13 CHƯƠNG 2. CÔNG CUỘC CẢI CÁCH CỦA TRIỀU ĐẠI QUANG TRUNG ..................................................................................................29 2.1. Xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền ................................29 2.2. Khôi phục và phát triển kinh tế ..................................................34 2.3. Nâng cao và phát triển văn hoá giáo dục ...................................40 CHƯƠNG 3: NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG CÔNG CUỘC CẢI CÁCH CỦA TRIỀU ĐẠI QUANG TRUNG ......................48 3.1. Những thành tựu .....................................................................48 3.2. Những hạn chế ..........................................................................56 PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................60 TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................64 GVHD Ths. Khoa Năng Lập Luận văn tốt nghiệp – SP. Lịch Sử K35 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Lịch sử trung thế kỉ Việt Nam, là một giai đoạn lịch sử thăng trầm và chứa đựng nhiều biến động kéo dài. Nhất là vào cuối thế kỉ XVII – XVIII, khi mà tình hình đất nước không ổn định, chiến tranh xảy ra liên miên do việc tranh giành quyền lực giữa các thế lực phong kiến cát cứ. Đặc biệt vào thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, đã dẫn đến thế cục đất nước bị chia cắt thành hai chính quyền Đàng Trong – Đàng Ngoài. Từ đó, chiến tranh nổ ra và kéo dài từ năm 1627 đến năm 1672 khiến cho đất nước lâm vào khủng hoảng và khó khăn. Ruộng đất bị bỏ hoang ngày một nhiều, nông dân phiêu tán khắp nơi, công thương nghiệp thì bị đình đốn bởi chính sách bế quan, đóng cửa của các chính quyền Trịnh – Nguyễn, làm cho nhân dân phải sống trong cảnh cùng cực, chịu sưu cao thuế nặng và luôn bị bọn quan lại, ác bá hạch sách đủ điều. Trong khi đó, giai cấp thống trị đua nhau ăn chơi hưởng lạc, từ vua chúa cho đến bọn quan lại, cường hào địa phương đều sống cuộc sống sa đọa, không còn quan tâm đến đời sống nhân dân như trước, tình trạng đói kém, hạn hán, lũ lụt xảy ra luôn luôn, làm cho nhân dân thêm sầu oán. Chính điều này đã dẫn đến nhiều phong trào đấu tranh của nhân dân nổ ra khắp nơi, từ miền xuôi cho đến miền ngược nhằm chống lại chính sách cai trị hà khắc của các chính quyền phong kiến Trịnh – Nguyễn, như các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất, Lê Duy Mật, Lý Văn Quang,… đã gây nhiều khó khăn cho các chính quyền đương thời. Mặc dù, các phong trào nông dân trong giai đoạn này đều bị dập tắt, nhưng nó đã tạo điều kiện và mở đường cho phong trào nông dân rộng SVTH Lê Minh Đủ - 6095928 Trang 1 GVHD Ths. Khoa Năng Lập Luận văn tốt nghiệp – SP. Lịch Sử K35 lớn sau này. Đặc biệt là phong trào nông dân Tây Sơn, do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo. Xuất phát từ thành phần nông dân, nên trong quá trình khởi nghĩa, phong trào Tây Sơn đã đưa ra những khẩu hiệu phù hợp lòng người như “lấy của người giàu chia cho người nghèo”, “đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan ủng hộ hoàng tôn Phúc Dương”, hay “phù Lê diệt Trịnh”,… Chính vì vậy, phong trào vừa cô lập được kẻ thù, lại vừa tập hợp và nhận được sự ủng hộ của nhiều tầng lớp nhân dân trong xã hội. Với mục đích đấu tranh ban đầu là đánh đổ các chính quyền phong kiến thối nát đương thời giành lấy cơm áo, ruộng đất cho giai cấp mình, phong trào ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong công cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Phong trào Tây Sơn không chỉ có công trong việc xóa bỏ ranh giới sông Gianh, chia đôi đất nước hàng mấy thế kỉ, không chỉ đặt nền tảng cơ bản cho việc thống nhất quốc gia dân tộc, mà còn lãnh đạo nhân dân đấu tranh, đánh đuổi kẻ thù xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ cha ông để lại trước âm mưu “cõng rắn cắn gà nhà” của các chính quyền phong kiến đương thời và dã tâm xâm lược, cướp nước ta của các thế lực bên ngoài. Công lao của triều đại Tây Sơn không chỉ dừng lại ở đó, mà nó còn được thể hiện rõ ràng hơn trong công cuộc chấn hưng và khôi phục lại đất nước sau thời kì khủng hoảng kéo dài. Triều đại Quang Trung đã đưa ra và tiến hành những chính sách cải cách tiến bộ, nhằm góp phần xây dựng đất nước thịnh vượng, mang đến cuộc sống no đủ cho nhân dân. Những chính sách của triều đại Quang Trung được tiến hành trong bối cảnh lúc bấy giờ đã đạt được những thắng lợi nhất định, từng bước phục hồi nền kinh tế nước nhà về nhiều mặt như nông nghiệp, công thương nghiệp, hay trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục đã nâng tầm văn hóa nước nhà tiến thêm bước mới. Nhưng những chính sách cải cách tiến bộ đó lại không được thực hiện một SVTH Lê Minh Đủ - 6095928 Trang 2 GVHD Ths. Khoa Năng Lập Luận văn tốt nghiệp – SP. Lịch Sử K35 cách triệt để, phải bỏ dở cùng với cái chết đột ngột của vua Quang Trung, cũng như những hạn chế trong quá trình thực hiện cải cách. Từ một phong trào nông dân khởi nghĩa như bao phong trào nông dân khác, nhưng phong trào Tây Sơn đã thành lập một triều đại phong kiến tiến bộ mà những phong trào trước đó không làm được, đưa ra những chính sách cải cách tiến bộ nhằm chấn hưng và khôi phục đất nước, nhưng rồi cùng với những hạn chế cả khách quan lẫn chủ quan, đã dẫn đến sự thất bại của những cải cách đó và sau này là sự sụp đổ của cả vương triều Tây Sơn. Tuy rằng, triều đại Tây Sơn và những chính sách cải cách của Quang Trung, thất bại trước cuộc phản công của Nguyễn Ánh nhưng triều đại Tây Sơn và người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ vẫn tồn tại trong lòng người dân Việt Nam, và đó là thời kì của những trang sử vẻ vang và hào hùng của dân tộc. Điều đó đã cuốn hút tôi đi vào tìm hiểu và góp phần nhỏ kiến thức của mình, để có thể phần nào nói lên được những nguyên nhân đưa đến sự thành công, cũng như nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của những chính sách cải cách của Quang Trung. Từ đó, người viết đã chọn đề tài “Công cuộc cải cách trong triều đại Quang Trung: Thành tựu và hạn chế” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Vương triều Tây Sơn, cùng với người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ, là một đề tài nghiên cứu rất sâu rộng, đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu, và đã cho xuất bản nhiều tác phẩm rất nổi tiếng và có giá trị. Vì vậy, với nguồn tài liệu phong phú và đa dạng, nên trong quá trình thực hiện đề tài “Công cuộc cải cách trong triều đại Quang Trung: Thành tựu và hạn chế” người viết đã gặp nhiều thuận lợi trong việc tìm kiếm tài liệu. Tuy nhiên, việc thừa tài liệu SVTH Lê Minh Đủ - 6095928 Trang 3 GVHD Ths. Khoa Năng Lập Luận văn tốt nghiệp – SP. Lịch Sử K35 cũng khiến người viết ít nhiều cũng bị chi phối trong cách viết của mình. Mặc khác, người viết cũng gặp nhiều khó khăn trong việc thu nhặt những tài liệu có liên quan, vì viết về những chính sách cải cách của Quang Trung không được nhiều tài liệu đề cập đến. Do đó, để thực hiện đề tài của mình, người viết đã tìm hiểu và trích dẫn một số nguồn tài liệu như sau: Quyển Tìm hiểu thêm về phong trào nông dân Tây Sơn của giáo sư Phan Huy Lê, ra đời năm 1961. Trong tác phẩm tác giả đã trình bày một số vấn đề, về tính chất và đặc điểm của phong trào nông dân Tây Sơn, những cống hiến lịch sử của nông dân Tây Sơn. Tác dụng và ý nghĩa của những chính sách cải cách của vua Quang Trung. Đồng thời, tác giả cũng nói lên những nguyên nhân đã dẫn đến sự thất bại của phong trào nông dân Tây Sơn. Năm 1967 Văn Tân đã cho ra đời tác phẩm Nguyễn Huệ con người và sự nghiệp. Đây là một chuyên đề nghiên cứu về sự nghiệp đánh giặc cứu nước, sự nghiệp thống nhất đất nước và sự nghiệp kiến thiết đất nước của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ. Quyển Quang Trung anh hùng dân tộc 1788 – 1792 của tác giả Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm xuất bản năm 1998. Tác phẩm nói về sự nghiệp oanh liệt của người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ, qua đó cho bạn đọc thấy được vua Quang Trung là người có thiên tài về quân sự, với lối hành quân thần tốc, táo bạo đã làm nên những chiến công rực rỡ của ông. Bên cạnh đó, Quang Trung còn đưa ra những chính sách cải cách tiến bộ trong công cuộc kiến thiết đất nước, nói lên ông là người có chí khí hào hùng, hoài bão lớn lao và khát vọng cao cả. Tác phẩm Tìm hiểu thiên tài quân sự Nguyễn Huệ của Nguyễn Lương Bích – Phạm Ngọc Phụng xuất bản năm 2003. Qua tác phẩm đã cho người SVTH Lê Minh Đủ - 6095928 Trang 4 GVHD Ths. Khoa Năng Lập Luận văn tốt nghiệp – SP. Lịch Sử K35 đọc thấy được tư tưởng và nguyên tác chỉ đạo chiến thuật, chiến lược, chiến dịch của nghĩa quân Tây Sơn, cùng với tài năng quân sự của người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Về đối tượng nghiên cứu: Vì đây là một đề tài nghiên cứu sâu rộng trong và ngoài nước nên trong đề tài nghiên cứu của mình, người viết chủ yếu tìm hiểu về công cuộc cải cách, chấn hưng đất nước của vua Quang Trung, với việc ban hành và thực hiện những chính sách tiến bộ, nhằm khôi phục nền kinh tế nước nhà sau thời kì khủng hoảng kéo dài. Từ đó, người viết đưa ra những mặt tích cực, tiến bộ, cũng như những hạn chế trong những chính sách cải cách của vua Quang Trung. Về phạm vi nghiên cứu: Đề tài chủ yếu tìm hiểu về thời gian thực hiện những chính sách cải cách của triều đại Tây Sơn từ khi vua Quang Trung lên ngôi hoàng đế, và đến khi vua Quang Trung đột ngột qua đời, tức là trong giai đoạn từ năm 1788 đến năm 1792. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong đề tài của mình, ngoài hai phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp lôgic và phương pháp lịch sử, thì người viết còn sử dụng một số phương pháp khác như phân tịch, liệt kê, tổng hợp, so sánh,… để bài nghiên cứu của mình được mạch lạc và rõ ràng hơn. 5. Bố cục luận văn Người viết chia nội dung đề tài của mình làm 3 chương: Chương 1: Trình bày khái quát về bối cảnh đất nước Đại Việt trước khi vương triều Tây Sơn thành lập, cùng với quá trình khởi nghĩa của anh SVTH Lê Minh Đủ - 6095928 Trang 5 GVHD Ths. Khoa Năng Lập Luận văn tốt nghiệp – SP. Lịch Sử K35 em nhà Tây Sơn, và công cuộc chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Chương 2: Đây là chương quan trọng của đề tài. Người viết tập trung trình bày những chính sách cải cách tiến bộ về các mặt như kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa giáo dục,...của vua Quang Trung đã tiến hành trong công cuộc khôi phục, chấn hưng đất nước. Chương 3: Gồm một số nhận định và đánh giá về những mặt thành tựu, tiến bộ, cũng như những hạn chế đã dẫn đến sự thành công và thất bại trong những chính sách cải cách mà vua Quang Trung đã tiến hành. SVTH Lê Minh Đủ - 6095928 Trang 6 GVHD Ths. Khoa Năng Lập Luận văn tốt nghiệp – SP. Lịch Sử K35 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH ĐẠI VIỆT THẾ KỶ XVIII VÀ SỰ THÀNH LẬP VƯƠNG TRIỀU TÂY SƠN 1.1. Sự khủng hoảng và suy vong của chế độ phong kiến trong phạm vi cả nước 1.1.1. Chế độ phong kiến Đàng Ngoài tiếp tục khủng hoảng và suy vong trầm trọng Sau khi trấn áp xong các phong trào nông dân khởi nghĩa kéo dài gần nửa thế kỉ, các chúa Trịnh cho tiến hành một số chính sách nhằm cứu vãn nguy cơ ngày càng suy thoái của chế độ phong kiến. Những chính sách của họ Trịnh mặc dù cũng có được những tiến bộ nhất định, nhưng những mâu thuẫn về kinh tế, chính trị, xã hội lúc bấy giờ đã quá gay gắt, đã làm cho chế độ phong kiến Đàng Ngoài càng trở nên khủng hoảng và nghiêm trọng hơn. Giai cấp thống trị từ vua – chúa, quan lại cho đến bọn cường hào, địa chủ ngày càng lao sâu vào con đường ăn chơi sa đọa, thoái nát đến cùng cực. Chúng ra sức bóc lột nhân dân bằng các thứ thuế nặng nề, phiền nhiễu, làm cho “không khí chính trị từ trong cung vua, phủ chúa đến ngoài dân gian ngày càng ngột ngạt và xáo động”[1]. Năm 1767, Trịnh Doanh chết, con là Trịnh Sâm lên nối ngôi chúa. Trịnh Sâm là người hoang dâm vô đạo, tàn bạo, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc và tìm mọi cách bóc lột nhân dân hà khắc hơn. Cuối năm đó, em ruột của Trịnh Sâm là Trịnh Đệ, âm mưu lật đổ Trịnh Sâm cướp ngôi chúa, nhưng sự việc bị lộ, Trịnh Đệ bị Trịnh Sâm bắt tống vào ngục. Năm 1769, Trịnh Sâm mưu lật đổ thái tử Duy Kỳ, con vua Lê Hiển Tông, người có ý định khôi SVTH Lê Minh Đủ - 6095928 Trang 7 GVHD Ths. Khoa Năng Lập Luận văn tốt nghiệp – SP. Lịch Sử K35 phục lại quyền lực và địa vị cho nhà Lê. Là người ham mê tửu sắc, nên Trịnh Sâm say mê cung phi Đặng Thị Huệ. Vì vậy, Trịnh Sâm đã phế truất ngôi thế tử của con trưởng là Trịnh Khải, lập con của Đặng Thị Huệ là Trịnh Cán, khi đó mới 2 tuổi lên ngôi thế tử, gây nên nhiều mâu thuẫn giữa các phe cánh trong phủ chúa. Bên cạnh đó, việc Quận công Hoàng Đình Bảo, cận thần của chúa Trịnh thông gian với Đặng Thị Huệ càng làm cho những mâu thuẫn trong phủ chúa trở nên gay gắt hơn. Sau khi Trịnh Sâm chết năm 1782, con trưởng là Trịnh Khải đã dựa vào quân tam phủ giết chết Quận công Hoàng Đình Bảo, phế truất Trịnh Cán và tự lập làm chúa. Từ đó, quân tam phủ ngày càng lộng quyền. Chúng cho người vào phá phách nhà cửa, dinh thự của Hoàng Đình Bảo và những người thân cận cùng phe cánh với Đặng Thị Huệ làm náo động cả kinh thành. Chúng lại kéo nhau đi cướp bóc, phá phách các phố phường trong nhân dân, không ai có thể chế ngự nổi, nhà chúa cũng phải bó tay, người dân đương thời gọi đó là “loạn kiêu binh”[2]. Loạn kiêu binh chứng tỏ chỗ dựa cuối cùng của phủ chúa là quân tam phủ đã hoàn toàn tan rã, họ Trịnh không còn có thế lực và chỗ dựa như trước nữa. Quyền lực của họ Trịnh ngày càng suy yếu, làm cho chính quyền thống trị từ bấy lâu nay của phủ chúa vốn đã thối nát, càng trở nên thối nát đến cùng cực hơn. Trước tình hình đó, bọn quan lại ở địa phương tha hồ vơ vét, đục khoét nhân dân. Còn ở làng xã, bọn cường hào, địa chủ ra sức hoành hành chiếm đoạt của cải người dân. Nhân dân Đàng Ngoài phải sống trong cảnh lầm than, đói kém. Ngoài tô thuế phải đóng hàng năm, người dân còn phải bỏ công sức ra phục dịch rất vất vả, nay xây chùa, mai dựng tháp. Từ năm 1774, khi họ Trịnh đem quân vào đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong, thì các khoản phục dịch và đóng góp của người dân còn tăng lên gấp bội. Tình trạng đồng ruộng bỏ hoang, xóm làng tiêu điều, nông dân phải bỏ làng xóm, quê SVTH Lê Minh Đủ - 6095928 Trang 8 GVHD Ths. Khoa Năng Lập Luận văn tốt nghiệp – SP. Lịch Sử K35 hương đi phiêu tán, tha phương cầu thực ngày càng nhiều và kéo dài mãi cho đến cuối thế kỉ XVIII. Theo Ngô Thời Sĩ, “trong số 9668 làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ thì có đến 182 làng xã phiêu tán hoàn toàn, 443 làng xã phiêu tán phần lớn, 373 làng xã phiêu tán nhập vào các xã khác, 78 làng xã nghèo túng cùng quẫn không nộp đủ thuế cho nhà nước”[3]. Bọn vua chúa, quan lại, cường hào ngày càng chiếm đoạt nhiều của cải, thì ngay lúc đó, nhân dân phải sống trong cảnh không có gạo ăn, “giá lúa cao vọt, một bát gạo nhỏ giá đến một tiền, chết đói đầy đường”[4]. Nhiều nơi, người dân “phải ăn rau cỏ để sống, nấu củ nâu để ăn nhưng cũng không sống nổi, dắt díu nhau đi đầy đường, thây chết đói chồng chất”[5] lên nhau. Chính vì thế, phong trào nông dân sau một thời gian lắng dịu, lại tiếp tục bùng nổ mạnh mẽ hơn nữa. Do không còn con đường nào có thể tồn tại dưới sự cai trị hà khắc của bọn vua chúa, tham quan ô lại nên người dân chỉ còn con đường là vùng dậy đấu tranh, giành lấy quyền sống cho mình. Từ những vùng đồng bằng ven biển đến các địa phương miền núi, nhân dân nổi dậy chống lại chính quyền họ Trịnh ngày càng nhiều, làm cho phủ chúa phải đối phó rất khó khăn và tốn kém. Đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa của nông dân ở An Quảng, Thái Bình hay của các tù trưởng dân tộc ít người miền núi,…vào các năm 1778, 1779, 1785,…càng làm cho chính quyền họ Trịnh suy yếu trầm trọng hơn. Những cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân Đàng Ngoài vào nửa cuối thế kỉ XVIII tuy tất cả đều bị thất bại, nhưng đã làm cho chính quyền phong kiến vua Lê – chúa Trịnh lung lay đến tận gốc, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho phong trào nông dân Tây Sơn giành thắng lợi sau này. SVTH Lê Minh Đủ - 6095928 Trang 9 GVHD Ths. Khoa Năng Lập Luận văn tốt nghiệp – SP. Lịch Sử K35 1.1.2. Cuộc khủng hoảng của chế độ phong kiến Đàng Trong Trong việc khai phá vùng đất phía Nam, các chúa Nguyễn trong giai đoạn đầu đã có nhiều đóng góp quan trọng cho công cuộc khai khẩn, mở rộng bờ cõi và củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Cùng với những ưu thế của đất Đàng Trong đã giúp cho các chúa Nguyễn giữ được tình trạng ổn định của xã hội trong khoảng thời gian khá dài. Nhưng từ giữa thế kỉ XVIII trở đi, giai cấp thống trị Đàng Trong ngày càng lao vào cuộc sống ăn chơi hưởng lạc, từ vua chúa cho đến bọn quan lại, còn bọn cường hào tăng cường cướp bóc, chiếm đoạt của cải trong nhân dân. Bọn chúng đua nhau ăn chơi xa xỉ, lún sâu vào con đường sa đọa, không còn quan tâm đến đời sống của nhân dân như trước. Nhiều cung điện, đền đài, nhà cửa của tầng lớp thống trị Đàng Trong nguy nga và tráng lệ được xây dựng. Chúa Nguyễn Phúc Khoát [1738 – 1765] đã cho xây dựng rất nhiều lâu đài, cung điện theo quy mô của một đế đô. “Cao nguy nga, rực rỡ, chạm khắc rất khéo, tường và nền nhà đều lát đá, cột nhà đều làm bằng gỗ kiền kiền, ống máng đều tráng thiếc”[6]. Nhà cửa của bọn quan lại, quý tộc cao cấp nằm “la liệt ở hai bên bờ thượng lưu sông Phú Xuân”[7] và ở Phù Cam có đến “hàng nghìn, hàng vạn nhà cửa”[8]. Trong phủ chúa và nhà bọn quan lại đều có nuôi những đội hát tuồng, ban ca nhạc để phục vụ cho nhu cầu ăn chơi, hưởng thụ của họ. Nhân dân đương thời rất căm phẫn cuộc sống sa đọa của tầng lớp thống trị, vì tất cả mọi thứ đều do nhân dân gánh chịu và phải lao động rất vất vả mới có được, điều đó đã được thể hiện rất rõ qua câu ca dao: “Ai ơi ngẫm lại mà coi Ngọc vàng con hát, tôi đòi thằng dân”[9] Trong giai đoạn cuối sự cai trị của họ Nguyễn, quyền lực của vị chúa Nguyễn Phúc Thuần ngày càng rơi vào tay của quyền thần Trương Phúc SVTH Lê Minh Đủ - 6095928 Trang 10 GVHD Ths. Khoa Năng Lập Luận văn tốt nghiệp – SP. Lịch Sử K35 Loan. Trương Phúc Loan tự phong cho mình làm Quốc phó và tỏ ra tham lam, sa đoạ đến cùng cực. Trương Phúc Loan là kẻ tham tàn, chỉ biết vơ quét và bòn rút của cải trong nhân dân, tham ô của công, ăn nhận hối lộ, không việc gì mà không làm, việc mua quan bán tước diễn ra ngày càng nhiều. Vì thế trong nhà Trương Phúc Loan “vàng bạc, châu báo, gấm vóc,…chứa đầy nhà; nô bộc, trâu ngựa không biết bao nhiêu mà kể”[10]. Một lần bị nước lụt, Trương Phúc Loan đem vàng bạc ra phơi nắng “sáng chói cả một góc sân”[11]. Tầng lớp bên trên ăn chơi hoang phí bao nhiêu, thì tầng lớp quan lại bên dưới cũng đua đòi hoang phí bấy nhiêu. Trong nửa cuối thế kỉ XVIII, hệ thống quan lại cồng kềnh của họ Nguyễn trở thành bộ máy ăn bám, thối nát, đè nặng lên đời sống quằn quại, thống khổ của nhân dân đương thời. Bên cạnh đời sống sa hoa, trụy lạc của tầng lớp thống trị thì tình trạng chiếm đoạt ruộng đất của nông dân cũng diễn ra mạnh mẽ. Bọn tham quan ô lại tăng cường chiếm đoạt ruộng đất của nhân dân, chúng dùng uy quyền trong tay để chiếm đoạt thành quả lao động khẩn hoang của người dân, hoặc cướp đoạt ruộng công làng xã để làm ruộng tư. Bọn cường hào, địa chủ Đàng Trong cũng dùng mọi thủ đoạn để cướp đoạt, xâm chiếm ruộng đất của dân, chúng thường lấy cớ dân làng xã thường phải bù tô thuế thiếu cho nhà nước rồi đem ruộng công làng xã cầm cố cho nhau, nhân đó chiếm làm ruộng tư. Tình trạng này diễn ra mạnh vào nửa cuối thế kỉ XVIII, khiến cho nhiều làng xã ruộng công bị xâm chiếm hết, người dân không có ruộng để làm nghề sinh sống. Quá trình tập trung ruộng đất diễn ra mạnh nhất là ở vùng Thuận Quảng và Gia Định, càng làm cho người dân phải lệ thuộc, bị kẹp chặt vào bọn địa chủ và bị bóc lột nặng nề hơn trước. Ruộng đất ngày càng tập trung vào trong tay bọn địa chủ, nên đã hình thành một tầng lớp đại địa chủ đông đảo, đây là nguồn lực ủng hộ mạnh mẽ cho Nguyễn Ánh sau SVTH Lê Minh Đủ - 6095928 Trang 11 GVHD Ths. Khoa Năng Lập Luận văn tốt nghiệp – SP. Lịch Sử K35 này, càng làm cho mâu thuẫn giai cấp trong xã hội Đàng Trong diễn ra gay gắt và sâu sắc hơn. Chính sách thuế khóa của các chúa Nguyễn ngay từ đầu đã rất phức tạp, về sau lại càng nặng nề hơn trước, hàng năm có hàng trăm thứ thuế, mà trưng thu thì phiền phức, gian lận, nhân dân khốn khổ về cảnh một cổ hai tròng. Ngoài ra, các chúa Nguyễn còn cho trưng thu đủ thứ loại thuế, từ thuế công, điền thổ đến thuế thổ sản, thuế tuần, thuế đò, thuế chợ, thuế thuyền,… không biết bao nhiêu cho đủ. Ngoài thuế ra, người dân còn phải đóng các khoản tiền khác như tiền cung đồn, tiền nộp thóc vào kho, tiền phên tre, tiền khoán khố, tiền dầu đèn, tiền bao mây,... Trong tay nhân dân vốn đã không có ruộng đất để làm ăn sinh sống, mà lại còn chịu cảnh thuế khoá nặng nề, càng khiến cho đời sống nhân dân thêm phần điêu đứng, khó khăn lại càng khó khăn, không còn cách nào để làm kế sinh nhai. Đồng thời, để thực hiện chính sách thuế khoá nói trên, các chúa Nguyễn đã lập ra một hệ thống quan thu thuế rất cồng kềnh, gọi là Bản đường quan, đã gây ra không ít phiền hà trong nhân dân, khiến cho đời sống nhân dân càng khốn khổ hơn. Trước tình hình đó, Nguyễn Cư Trinh đã gửi lên chúa Nguyễn bài sớ với nội dung: “Thần trộm nghĩ, hiện nay tình trạng của nhân gian đã khốn lắm rồi, nếu cứ điềm nhiên như không biết theo thời châm chước, thêm bớt, lập lại kỉ cương thì trong một xã, một ấp còn cai trị không nổi, huống chi là một phủ, một xứ”[12]. Nạn thuế khoá nặng nề, đã đẩy nhân dân từ miền xuôi cho đến miền ngược vào cảnh điêu đứng, cùng kiệt. Đến cuối thế kỉ XVIII, mâu thuẫn xã hội Đàng Trong đã hết sức gay gắt, chế độ phong kiến đã suy vong trầm trọng, vì thế mà nhiều phong trào nông đã nổ ra và phát triển mạnh mẽ để chống lại chính quyền chúa Nguyễn. Từ những năm 70 của thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến trong phạm vi cả nước đã rơi vào tình trạng khủng hoảng hết sức trầm trọng và gay gắt. SVTH Lê Minh Đủ - 6095928 Trang 12 GVHD Ths. Khoa Năng Lập Luận văn tốt nghiệp – SP. Lịch Sử K35 Mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân khác trong xã hội đã trở nên rất quyết liệt. Đó chính là những tiền đề của một phong trào nông dân rộng lớn chưa từng có trong phạm vi cả nước: “phong trào nông dân Tây Sơn”. 1.2. Quá trình thành lập vương triều Tây Sơn 1.2.1. Tây Sơn khởi nghĩa Tây Sơn là vùng đất thuộc huyện Phù Ly, phủ Quy Nhơn, dinh Quảng Nam, vốn gồm hai vùng: vùng rừng núi gọi là Thượng Đạo [nay thuộc Gia Lai – Kontum] và vùng đồng bằng gọi là Hạ đạo [nay thuộc Bình Định]. Ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ sinh ra và lớn lên tại vùng Tây Sơn – Hạ Đạo. Đây vốn là vùng đất rất trù phú và màu mỡ, đóng góp phần lớn cho việc thu thuế của họ Nguyễn. Nhưng do chính sách thuế khoá quá nặng nề và hà khắc của chính quyền đương thời, đã đẩy vùng đất Tây Sơn trở nên điêu tàn và đồng thời trở thành quê hương của phong trào đấu tranh nhân dân. Do thấu hiểu và đồng cảm với nổi khốn khổ của người dân trong vùng dưới sự cai trị hà khắc của chính quyền họ Nguyễn, cùng với việc nắm được những mâu thuẫn trong chính quyền đó, nên mùa xuân 1771, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đã hiệu triệu nhân dân phất cờ khởi nghĩa tại ấp Tây Sơn [Tây Sơn, Bình Định]. Ngay từ nhỏ, anh em nhà Tây Sơn đã theo học thầy giáo Hiến, một nho sĩ bất mãn quyền thần Trương Phúc Loan nên về mở trường dạy học. Nguyễn Nhạc lại là một lái buôn trầu đi từ miền thượng đến miền xuôi, có thời gian Nguyễn Nhạc làm biện lại [nhân viên thu thuế] tuần Vân Đồn, nên cũng ít nhiều nắm bắt được tình hình chính sự đương thời. Nên ngay từ buổi đầu khởi nghĩa, Nguyễn Nhạc và các thủ lĩnh đã khôn khéo đưa ra các khẩu hiệu nhằm phân hoá và cô lập SVTH Lê Minh Đủ - 6095928 Trang 13 GVHD Ths. Khoa Năng Lập Luận văn tốt nghiệp – SP. Lịch Sử K35 kẻ thù như khẩu hiệu “Đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Phúc Dương”[13]. Nhờ vào chính sách khôn khéo đó, mà nghĩa quân đã nhận được sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong xã hội và cô lập được tập đoàn phong kiến Trương Phúc Loan. Nhiều hào mục và các thổ hào ở địa phương đã nổi dậy ủng hộ phong trào Tây Sơn, tham gia chiến đấu cùng nghĩa quân, bỏ tiền bạc ra giúp đỡ cuộc khởi nghĩa như Huyền Khê vốn là một nhà giàu, Nguyễn Thông vốn là một thổ hào. Tiếp theo, Nguyễn Nhạc lại nêu lên khẩu hiệu “Lấy của người giàu chia cho người nghèo”[14], và trong suốt quá trình khởi nghĩa, nghĩa quân Tây Sơn đã hành động đúng như vậy, nên nghĩa quân đi đến đâu dân nghèo theo đến đó. Chính vì vậy, nghĩa quân đã nhanh chóng tập hợp được lực lượng đông đảo các tầng lớp nghèo khổ lúc bấy giờ. Ngoài ra, trong hàng ngũ nghĩa quân còn có một lực lượng đáng kể nhân dân các dân tộc ít người. Thủ lĩnh của họ thậm chí cả nữ chúa Chăm là Thị Hoả, một số thương nhân Hoa kiều đứng đầu là Tập Đình và Lý Tài cũng đi theo nghĩa quân chiến đấu hăng hái. Từ căn cứ Tây Sơn, nghĩa quân tỏa ra các địa phương, làng xã trừng trị bọn xã trưởng, bọn quan thu thuế, đốt các sổ sách về thuế khoá ruộng đất, tuyên bố bãi bỏ các thứ thuế. Của cải thu được của bọn quan lại, địa chủ, cường hào đem chia hết cho dân nghèo khổ. Họ chỉ giữ lại gạo và đồ ăn, nên nghĩa quân được xem như là “giặc nhân đức với người nghèo”[15]. Bấy giờ vùng Thuận Hoá đang trong tình trạng đói kém, nên cuộc khởi nghĩa của anh em nhà Tây Sơn có điều kiện thu được thắng lợi nhanh chóng. Khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ giữa lúc nhân dân Đàng Trong đang nghẹt thở dưới ách thống trị của chính quyền họ Nguyễn, và các thủ lĩnh Tây Sơn lại khéo đưa ra các khẩu hiệu và sách lược phù hợp với lòng dân, nên đã thu hút được sự tham gia của nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội về với nghĩa quân. SVTH Lê Minh Đủ - 6095928 Trang 14 GVHD Ths. Khoa Năng Lập Luận văn tốt nghiệp – SP. Lịch Sử K35 1.2.2. Đánh đổ chính quyền phong kiến chúa Nguyễn ở Đàng Trong Năm 1772, nghĩa quân Tây Sơn mở rộng căn cứ xuống vùng đồng bằng, thanh thế nghĩa quân lan rộng nhanh chóng. Lúc đó, Nguyễn Nhạc lĩnh chức đệ nhất trại chủ chỉ huy hai huyện Bồng Sơn và Phù Ly; cử Nguyễn Thông làm đệ nhị trại chủ chỉ huy huyện Tuy Viễn; cử Huyền Khê làm đệ tam trại chủ phụ trách việc quân lương. Mùa thu năm 1773, nghĩa quân đã đánh chiếm phần lớn phủ Quy Nhơn, nhân đó Nguyễn Nhạc dùng mưu kế chiếm trọn phủ Quy Nhơn rồi tiến lên chiếm nốt Quảng Ngãi. Nghĩa quân đã đánh bại quân của Trương Phúc Loan do các chưởng cơ Nguyễn Cửu Thống và Nguyễn Cửu Sách chỉ huy, làm cho triều đình Phú Xuân tỏ ra rất hoảng hốt trước sức tấn công của nghĩa quân. Cuối năm đó, nghĩa quân lại giành thắng lợi trong trận đặt phục binh đánh bại quân Nguyễn do tiết chế Nguyễn Phúc Hương chỉ huy. Như vậy chỉ trong vòng một năm, nghĩa quân Tây Sơn đã giành được nhiều chiến thắng liên tiếp, kiểm soát cả một vùng rộng lớn kéo dài từ phía nam Quảng Ngãi cho đến Khánh Hoà. Sang năm 1774, quân Nguyễn do Tống Phúc Hiệp chỉ huy, phản công chiếm lại Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang. Nghĩa quân vẫn giữ vững thành Quy Nhơn. Ở Đàng Ngoài, chúa Trịnh lợi dụng thời cơ quân Nguyễn đang chống chọi với Tây Sơn nên cử đại tướng Hoàng Đình Phúc cùng với các tuỳ tướng Hoàng Đình Bảo, Nguyễn Hữu Chỉnh đem 3 vạn quân vượt sông Gianh vào chiếm đóng Phú Xuân. Mất Phú Xuân, chúa Nguyễn buộc phải vượt biển vào Gia Định. Sau trận đụng độ với quân Trịnh tại Cẩm Sa [Quảng Nam], nghĩa quân bị thua to phải rút về Bến Ván phía nam. Trước tình thế bị uy hiếp cả hai mặt, Nguyễn Nhạc bèn dùng kế cho người mang vàng bạc và dâng thư xin hàng quân Trịnh, nộp đất ba phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên mà nghĩa quân đang kiểm soát cho quân Trịnh và xin làm SVTH Lê Minh Đủ - 6095928 Trang 15 GVHD Ths. Khoa Năng Lập Luận văn tốt nghiệp – SP. Lịch Sử K35 tướng tiên phong đánh quân Nguyễn. Dù biết đây chỉ là kế hoãn binh của Nguyễn Nhạc, nhưng do lực lượng quân Trịnh đang mỏi mệt và đang gặp bệnh dịch trong quân trại, nên Hoàng Ngũ Phúc đành chấp nhận và phong cho Nguyễn Nhạc làm tráng tiết tướng quân Tây Sơn hiệu trưởng. Tạm yên mặt Bắc, nghĩa quân Tây Sơn tập trung lực lượng để đối phó với quân Nguyễn ở phía Nam. Nguyễn Nhạc dùng mưu giả vờ liên kết với Tống Phước Hiệp, phò tá hoàng tôn Phúc Dương lên ngôi vua. Tống Phước Hiệp tin là thật xao lãng việc phòng bị, lợi dụng cơ hội đó Nguyễn Nhạc cử Nguyễn Huệ thống lĩnh đại quân đánh úp Phú Xuân. Đó là chiến thắng đầu tiên của Nguyễn Huệ khi chỉ mới 23 tuổi, sau Nguyễn Huệ được Hoàng Ngũ Phúc phong làm “Tây Sơn hiệu tiên phong tướng quân”. Đến năm 1776, Nhạc cử Lữ đem quân đánh vào Gia Định, quân chúa Nguyễn phải bỏ Gia Định chạy lên Trấn Biên, sau khi Nguyễn Lữ rút quân về Quy Nhơn, quân Nguyễn do Đỗ Thanh Nhơn chỉ huy chiếm lại Gia Định, nhưng quân Nguyễn phải bỏ các dinh phủ từ Diên Khánh đến Bình Thuận. Với những thắng lợi đã giành được thì đến năm 1777, Nguyễn Nhạc tự xưng Tây Sơn vương, phong cho Nguyễn Huệ làm phụ chính và Nguyễn Lữ làm thiếu phó, xây dựng thành Đồ Bàn làm thủ phủ, sau đổi lại thành thành Hoàng Đế. Tiếp đến, Nguyễn Nhạc cử Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đem đại quân tiến đánh quân Nguyễn ở Gia Định. Quân Tây Sơn đánh bại quân Nguyễn, bắt và giết được cả Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần và Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương, chỉ còn Nguyễn Ánh chạy thoát. Sau đó, Nguyễn Ánh lại dựa vào bọn đại địa chủ Gia Định tập hợp lực lượng quay lại chiếm lấy Gia Định. Năm 1778, Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Thái Đức, phong cho Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân, Nguyễn Lữ làm tiết chế. Một lần nữa, Nhạc cử tướng lĩnh đem thuỷ binh tiến đánh SVTH Lê Minh Đủ - 6095928 Trang 16

Video liên quan

Chủ Đề