Chiến dịch Hồ Chí Minh là loại hình chiến dịch gì

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Quân ủy Trung ương duyệt phương án tác chiến Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ảnh: TTXVN

Nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam từ xưa đến nay về cơ bản là nghệ thuật tổ chức lực lượng toàn dân đánh giặc và buộc đối phương phải đánh theo cách của Việt Nam.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước 21 năm, nghệ thuật quân sự truyền thống ấy được thừa kế và phát huy ngày càng cao, đem lại hiệu quả đánh lui địch từng bước, giành thắng lợi từng bước, tiến tới đánh bại hoàn toàn âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của địch, giành thắng lợi hoàn toàn.

Đặc biệt là đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, nghệ thuật quân sự Việt Nam được phát triển lên đỉnh cao mới, trong đó độc đáo nhất là việc giải phóng Sài Gòn gần như nguyên vẹn.

Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 giải phóng Sài Gòn là chiến dịch kết thúc một cuộc chiến tranh hiện đại, đánh bại cuộc chiến tranh thực dân mới sau 20 năm Mỹ đầu tư lớn vào chiến trường miền Nam Việt Nam. Theo quy luật và yêu cầu của nó, sức mạnh quân sự là quyết định nhất cho vấn đề thắng - thua trong chiến tranh, đặc biệt là trong trận cuối cùng. Sức mạnh quân sự trong trận này thể hiện nghệ thuật quân sự độc đáo của quân và dân ta.

Nét độc đáo đầu tiên là sự chỉ đạo chiến dịch tài tình, sáng suốt của Đảng mà hạt nhân là Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh thông suốt từ Trung ương đến từng cánh quân trong trận cuối cùng ở cửa ngõ Sài Gòn khi tổ chức lực lượng quân sự, chính trị tập trung áp sát địch, sẵn sàng đánh tiêu diệt, vì thế có thể buộc địch phải chấp nhận lối kết thúc cuộc chiến theo cách của chiến tranh cách mạng Việt Nam.

Với lực lượng tập trung đủ các quân binh chủng, 5 cánh quân tiến vào Sài Gòn thực hiện phương án đánh nhanh, dứt điểm nhanh theo phương châm “thần tốc, táo bạo”, nhằm vào những mục tiêu quân sự trọng điểm đã lựa chọn, bảo đảm chắc thắng; làm cho đối phương dù còn rất đông quân và vũ khí phương tiện chiến tranh rất hiện đại cũng không thể “tử thủ” được nữa, không thể tiến thoái và không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đầu hàng không điều kiện để tránh cái mà phương Tây gọi là “một cuộc tắm máu”.

“Một cuộc tắm máu” mường tượng ấy thực chất chỉ là logic của luận điệu tuyên truyền chống cộng trong quá trình chiến tranh thực dân mới của Mỹ. Từ sau Hiệp định Paris, khi chỉ còn “một mình” chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa đối phó với chiến tranh cách mạng Việt Nam, việc thất bại về quân sự là điều không tránh khỏi, nhưng đầu hàng không điều kiện thì lại là điều cả Mỹ và chính quyền Sài Gòn không dự kiến, càng không thể nghĩ tới một sự “bất ngờ” nào giống như thực tế lịch sử đã diễn ra.

Nét độc đáo thứ hai trong nghệ thuật quân sự truyền thống được thể hiện ngay trong trận cuối cùng giải phóng Sài Gòn: Đội quân cách mạng lúc này đủ sức đánh tiêu diệt toàn bộ lực lượng còn lại của địch, hình thành thế trận bao vây, tiêu diệt, làm tan rã chủ lực của địch ở vòng ngoài; nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các địa bàn then chốt ven đô, đập tan lực lượng địch tại vòng trong; đột kích bằng cơ giới hóa mạnh đánh thẳng vào các mục tiêu quan trọng nhất trong nội đô. Nhưng trước giờ phút sinh tử của chính quyền và quân đội Sài Gòn, đội quân chiến thắng ấy đã thực hiện “Mở đường hiếu sinh”[như Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã viết], bắt buộc và cho phép đối phương “cởi giáp ra hàng”.

Việc lấy đại nghĩa làm trọng, thực hiện khoan dung đã giải thích rõ bản chất sự việc đầu hàng không điều kiện của Tổng thống Dương Văn Minh trưa ngày 30/4/975  là việc làm cần thiết, kịp thời, không chỉ có ý nghĩa logic đến việc giải phóng Sài Gòn gần như nguyên vẹn mà còn trực tiếp kết thúc cuộc chiến nhanh nhất, làm mất ý chí và điều kiện của những thế lực chống đối muốn “tử thủ”, đồng thời dập tắt mọi hy vọng về “thương lượng đàm phán” vốn đã bị Mỹ và chính quyền Sài Gòn chà đạp, phá hoại ngay sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực.

Rõ ràng điều này phản ánh một trình độ mới của nghệ thuật kết thúc chiến tranh nhân dân Việt Nam thời hiện đại, buộc đối phương phải kết thúc chiến tranh theo cách của chiến tranh cách mạng có lợi cho phát triển về sau.

Đương nhiên đây là kết quả của quá trình xây dựng và rèn luyện của Quân đội nhân dân Việt Nam trong suốt cuộc kháng chiến; đến Chiến dịch Hồ Chí Minh đã thể hiện thành quá trình phát triển lối đánh thần tốc, táo bạo.

Quá trình đó cũng đồng thời là quá trình quân đội ta thường xuyên xây dựng và rèn luyện cả ý thức chính trị và trình độ tác chiến quân sự, từng cán bộ, chiến sĩ thường xuyên học tập, hiểu biết lịch sử, trau dồi truyền thống, kinh nghiệm của cha ông đánh giặc giữ nước; trở thành người lính có ý thức và bản lĩnh chính trị.

Khi đánh giặc, không sợ hy sinh gian khổ, sẵn sàng xung phong thực hiện nhiệm vụ, xông thẳng vào mục tiêu được phân công và áp sát đối phương. Khi xuất hiện hoàn cảnh và tình huống đặc biệt trong dinh Tổng thống chính quyền Sài Gòn, ai cũng có khả năng trở thành người đại diện cho đội quân cách mạng như Bùi Quang Thận, Phạm Xuân Thệ, Bùi Văn Tùng và nhiều cán bộ chiến sĩ khác trong ngày 30/4.

Cách xử lý để Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng không điều kiện [hoặc bất cứ ai trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa lúc ấy cũng phải làm như thế] để kết thúc chiến tranh nhanh chóng và tức thời; hạn chế tổn thất trong trận cuối cùng cũng là thực tế giữ cho Sài Gòn còn gần như nguyên vẹn khi kết thúc cuộc chiến.

Nét độc đáo thứ ba chỉ chiến tranh nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mới có được, đó là sự kết hợp tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng với nổi dậy của quần chúng nhân dân Sài Gòn trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975, ở hầu khắp các quận nội thành, ngay cả ở địa bàn trung tâm và các cửa ngõ quan trọng của Sài Gòn, nhất là các khu vực: Bàn Cờ, Vườn Chuối, Đa Kao, Tân Định, Phú Nhuận, Khánh Hội-Vĩnh Hội, Tân Phú, Bảy Hiền, Gò Môn, Bình Tân, lực lượng quần chúng đông đảo gồm nhiều thành phần dân cư. Họ là những người dân thuộc đủ tầng lớp, lứa tuổi hướng theo và vững tin vào thắng lợi của cách mạng, mong đợi ngày hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc và tạo nên những căn cứ lòng dân vững chãi; họ sẵn sàng hành động nổi dậy và tiếp sức cho hàng chục sư đoàn quân cách mạng ập vào từ 5 hướng đánh chiếm Sài Gòn.

Trong 5 ngày [từ chiều 26/4/1975 đến trưa ngày 30/4/1975], lực lượng nổi dậy từ các căn cứ “lõm” đã tiếp ứng cho 5 cánh quân có đầy đủ binh chủng và trang thiết bị hiện đại chiếm lĩnh tất cả các vị trí mục tiêu ở Sài Gòn từ trong ra ngoài, làm sụp đổ toàn bộ bộ máy chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa, buộc họ phải đầu hàng vô điều kiện và giữ cho Sài Gòn còn gần như nguyên vẹn.

Hà Minh Hồng

[Bqp.vn] - Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mang đầy đủ những nét độc đáo, sáng tạo và đánh dấu bước phát triển vượt bậc của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Nghệ thuật chỉ đạo tác chiến tiến công độc đáo, sáng tạo: “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” là một nét đặc sắc về nghệ thuật dùng binh của ông cha ta từ xưa tới nay. Đây vừa là tư tưởng chỉ đạo, vừa là phương châm hành động quân sự nổi bật của Bộ Tổng Tham mưu [BTTM] trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Sở Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. [ảnh tư liệu]

Tháng 7/1973, khi Hội nghị lần thứ 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đang diễn ra, BTTM đã tập trung nỗ lực chuẩn bị kế hoạch tác chiến chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam. Sau khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21, BTTM tiếp tục chỉ đạo Tổ Trung tâm [1] tiếp thu nội dung Nghị quyết để bổ sung, hoàn chỉnh kế hoạch chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Kế hoạch được nghiên cứu rất công phu, có sự tham gia của nhiều cán bộ chủ chốt, các tướng lĩnh, lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường và được bổ sung nhiều lần trước khi trình lên Quân ủy Trung ương và Bộ Chính trị. Một trong những vấn đề lớn và khó khăn nhất của kế hoạch là phải tìm hiểu khả năng can thiệp trở lại của đế quốc Mỹ và sự can thiệp của các nước khi ta mở cuộc Tổng tiến công chiến lược... BTTM đã chỉ đạo các chiến trường thực hiện một số chiến dịch để thăm dò phản ứng của Mỹ và sức mạnh của Quân đội Sài Gòn như: Chiến dịch Nông Sơn - Thượng Đức [17/7 - 25/8/1974], La Sơn - Mỏ Tàu [28/8 - 28/9/1974], Đường 14 - Phước Long [17/12/1974 - 6/1/1975]...

Ngày 9/1/1975, sau khi đánh giá tình hình mọi mặt, Thường trực Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch tiến công vào Nam Tây Nguyên, mục tiêu chủ yếu là Buôn Ma Thuột. Chiến dịch Tây Nguyên diễn ra với ba trận then chốt gần như đồng thời và liên tục. Bộ Chính trị cử đồng chí Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng cùng một số cán bộ BTTM và các tổng cục vào giúp Bộ Tư lệnh Tây Nguyên [B3] điều hành chiến dịch. Quá trình chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch, BTTM đã theo dõi sát diễn biến tình hình, lực lượng và thế trận của địch, tham mưu cho Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm chính xác, kịp thời chuyển sang tổng tiến công chiến lược, tạo và thúc đẩy thời cơ để giành thắng lợi, nhanh chóng và liên tiếp mở các chiến dịch tiếp theo.

Sau Chiến thắng Tây Nguyên có ý nghĩa chiến lược, ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị hạ quyết tâm chuyển “Kế hoạch cuộc tiến công chiến lược 1975” thành cuộc “Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường, giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong năm 1975”. Trong khi Chiến dịch Tây Nguyên đang diễn ra, BTTM đã chỉ đạo các địa phương ở Trị - Thiên và Quân khu 5 thực hiện các đợt hoạt động mạnh của các địa phương, coi đây là hướng phối hợp chiến lược quan trọng. Tiếp đó, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm mở Chiến dịch Trị Thiên - Huế, Chiến dịch Đà Nẵng nhằm tạo điều kiện cho Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định.

Ngay sau chiến thắng Chiến dịch Tây Nguyên và Chiến dịch Trị Thiên - Huế, Chiến dịch Đà Nẵng, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn, hàng chục tỉnh, thành phố, thị xã được giải phóng, gần một nửa binh lực của Quân đội Sài Gòn trên toàn miền Nam đã bị tiêu diệt và tan dã. Âm mưu co cụm chiến lược của chúng bị phá sản. Khả năng tập trung lực lượng để tăng cường phòng thủ Sài Gòn bị hạn chế. Tình hình đó đã tạo ra một thời cơ chiến lược hết sức thuận lợi để quân và dân ta bước vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 23 nhận định: “Cả về thế chiến lược và lực lượng quân sự, chính trị, ta đã có sức mạnh áp đảo quân địch, còn địch thì đang đứng trước nguy cơ sụp đổ và diệt vong. Mỹ tỏ ra bất lực, dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn được tình thế sụp đổ đến nơi của nguỵ” [2]. Bộ Chính trị khẳng định: “Nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian ngắn nhất, tốt nhất là trong tháng 4/1975, không thể để chậm” [3].

Trung ương Đảng, BTTM cùng quân và dân cả nước với tinh thần quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu, giải phóng hoàn toàn miền Nam trong một thời gian ngắn nhất đã phát huy truyền thống quân sự độc đáo, sáng tạo của dân tộc, khi có thời cơ và điều kiện thuận lợi, thực hiện thành công lối đánh thần tốc, táo bạo, bất ngờ.

Để bảo đảm thắng lợi lớn và nhanh chóng, BTTM Quân đội nhân dân Việt Nam đã giải quyết một loại các vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề điều động và cơ động lực lượng cho chiến dịch. Ngoài những lực lượng có sẵn trên địa bàn, phải sử dụng một lực lượng cơ động từ xa. Quân đoàn 3 phát triển tiến công xuống các tỉnh đồng bằng Nam Trung bộ rồi ngược Trường Sơn lên Tây Nguyên hành quân thần tốc vào Nam bộ. Quân đoàn 2 hành quân thần tốc gần 1.000 km trong 17 ngày đêm; tổ chức cho 2.376 xe các loại, trong đó có hơn 100 xe tăng, thiết giáp, gần 100 pháo lớn từ 85 - 155 mm và hơn 100 khẩu pháo phòng không các loại vượt qua nhiều sông, ngòi lớn nhỏ, lại phải vừa hành quân vừa tiến hành đột phá tuyến phòng thủ của địch từ Phan Rang, Phan Thiết đến Hàm Tân. Đưa các lực lượng kịp thời vào tham gia các trận đánh một cách nhịp nhàng, đúng kế hoạch trong thời gian ngắn, bảo đảm bất ngờ, đó là điều kỳ diệu chưa từng thấy trong tổ chức và hành quân thần tốc, táo bạo của Quân đội ta. Quân đoàn 1 cơ động vào Huế, Đà Nẵng sẵn sàng chờ lệnh rồi tiếp tục hành quân thần tốc vào tập kết ở Đồng Xoài - Đông Nam bộ để chuẩn bị bước vào chiến dịch. Tập trung được lực lượng trong một thời gian nhanh chóng như vậy là một thành công đặc biệt, thể hiện một quyết tâm rất cao của quân và dân ta nhằm chớp thời cơ, thần tốc xốc tới giành thắng lợi quyết định.

Quá trình, phát triển của cuộc Tổng tiến công và nhất là thắng lợi nhanh chóng của Chiến dịch Hồ Chí Minh đã khiến cho chính quyền và các nhà quân sự chiến lược Mỹ cũng như phương Tây và Quân đội Sài Gòn không sao hiểu nổi. Tướng Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Thủ tướng Chính quyền Sài Gòn, sau khi thoát thân ra được tàu Midway của Mỹ đã thốt lên rằng: “Điều tôi khó hiểu nhất là cuộc chiến đấu đã kết thúc quá nhanh... Cách đây chưa đầy một tuần tôi còn yêu cầu chính quyền để cho tôi được tiếp tục chiến đấu... Mới một tuần trước đây thôi, tôi còn cho rằng không thể chấm dứt mau chóng như thế được” [4]. Tại Oa-sinh-tơn, khi nghe tin Sài Gòn thất thủ, Kít-xinh-giơ ngậm ngùi nói: “Tôi cứ tưởng rằng họ có thể thương lượng một sự đầu hàng, chứ đâu lại... tuyên bố đầu hàng. Tôi không ngờ sự việc diễn ra nhanh chóng đến mức đó”. Còn tướng Oét-mo-len thì thú nhận: “Đó là một đòn đau đớn... Tôi phải nói rằng quá trình sụp đổ đã nhanh hơn thực tế tình hình mà tôi đã nghĩ”.

Thần tốc, mau lẹ là một phương châm giành thắng lợi của Đảng ta khi thời cơ đến trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc ta. Xét toàn bộ cuộc chiến tranh, trên cơ sở đánh lâu dài, đánh địch từng bước, giành thắng lợi từng phần, Đảng ta luôn năng động, sáng tạo và nắm vững thời cơ, tranh thủ thời gian giành thắng lợi càng sớm càng tốt. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã khẳng định điều đó. Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương cũng như các tướng lĩnh chỉ huy của BTTM trong Chiến dịch Hồ Chí Minh luôn theo sát tình hình, giải quyết thấu đáo các vấn đề chỉ đạo tác chiến chiến lược, chọn đúng phương hướng, tiến công thần tốc, táo bạo và bất ngờ; xác định đúng hình thức tác chiến và cách đánh linh hoạt, phát hiện thời cơ sau mỗi trận, sau mỗi chiến dịch để đôn đốc thực hiện tốt việc tổ chức chiến đấu, giành thắng lợi nhanh chóng và toàn diện. Một khi thời cơ xuất hiện thì yêu cầu thần tốc trở thành một nội dung trong phương châm chỉ đạo chiến lược, cũng như trong hành động quân sự của quân đội.

Tuy nhiên, muốn đánh nhanh, thắng nhanh cũng cần phải táo bạo, bất ngờ. Táo bạo là một phương châm trong tác chiến chiến lược, là một yêu cầu quan trọng của hành động quân sự, là nét đặc sắc của nghệ thuật chỉ đạo tác chiến tiến công. Trong cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, BTTM đã chỉ đạo cách đánh táo bạo, bất ngờ mãnh liệt - được thể hiện rất rõ không chỉ ở tư tưởng chỉ đạo mà cả trong hành động quân sự tiến công của quân và dân ta. Chưa bao giờ ta sử dụng một lực lượng quân sự lớn mạnh như ở Chiến dịch Hồ Chí Minh. Tham gia chiến dịch gồm 4 quân đoàn và Đoàn 232 [tương đương quân đoàn] tinh nhuệ cùng các LLVT nhân dân. Bên cạnh còn có hàng chục sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn thuộc các quân và binh chủng với nhiều vũ khí và phương tiện kỹ thuật tương đối hiện đại. Đây là một bước phát triển mới, một biểu hiện của cách đánh táo bạo của Bộ Chỉ huy về việc sử dụng tập trung lực lượng trong một chiến dịch tiến công, nhằm tạo thế và lực áp đảo, tiêu diệt và làm tan rã tập đoàn phòng ngự lớn có chuẩn bị trước của đối phương tại trung tâm đầu não của chúng.

Nếu như trước kia, trong Chiến dịch Thăng Long, Nguyễn Huệ đã mạnh bạo sử dụng cùng một lúc hàng trăm voi chiến mang trên mình hoả hổ, hoả pháo khiến kỵ binh của quân Thanh vô cùng khiếp sợ, thì thời hiện đại ở Chiến dịch Hồ Chí Minh, ta đã sử dụng khoảng 400 xe tăng và xe bọc thép, hơn hai chục trung đoàn, lữ đoàn, tiểu đoàn pháo binh, tên lửa và cả lực lượng không quân tham gia chiến đấu khiến quân địch hết sức ngạc nhiên.

Trong một thời gian ngắn ta đã thực hiện được một cuộc hội quân lớn như vậy chứng tỏ sự quyết tâm, táo bạo và trình độ tổ chức, chỉ huy chiến dịch của BTTM và các tướng lĩnh ta lúc đó. Tập trung lực lượng, bất ngờ tạo ưu thế tuyệt đối so với địch là một nhân tố cơ bản bảo đảm thắng lợi. Nhưng vấn đề quan trọng hơn chính là nét độc đáo, sáng tạo về cách đánh thần tốc, táo bạo và bất ngờ của nghệ thuật tiến công. Cả Quang Trung - Nguyễn Huệ khi tiến công Thăng Long và quân ta khi giải phóng Sài Gòn - Gia Định đều thực hiện thế trận tiến công toàn diện, trên nhiều mũi, nhiều hướng; thực hiện bao vây, chia cắt, thọc sâu nhanh chóng và mãnh liệt, tạo nên thế áp đảo; vừa tiêu diệt, làm tan rã, vừa bịt đường tháo chạy của địch.

Để thực hiện cách đánh “thần tốc, táo bạo và bất ngờ”, BTTM đã chỉ đạo các đơn vị bộ đội chủ lực sử dụng đại bộ phận lực lượng tinh nhuệ thọc sâu kết hợp các lực lượng tại chỗ đánh chiếm các địa bàn then chốt ven đô, mở đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới tiến nhanh theo các trục đường, đánh thẳng vào các mục tiêu đã lựa chọn, kết hợp các lực lượng đánh từ ngoài vào với đánh từ trong ra khiến cho quân địch bị chia cắt, phân tán và nhanh chóng bị đập tan. Đó là nét độc đáo sáng tạo về nghệ thuật chỉ đạo tác chiến tiến công thần tốc, táo bạo và bất ngờ. Cách đánh đó đã đưa lại hiệu quả chiến dịch lớn, giành thắng lợi trong một thời gian ngắn như chúng ta đã biết.

Thần tốc và táo bạo luôn gây cho địch những bất ngờ lớn, đồng thời đánh bất ngờ lại thường dẫn đến thắng lợi mau chóng. Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, bất ngờ là một phương châm đánh giặc truyền thống thể hiện trong tư tưởng chỉ đạo cũng như trong hành động quân sự. Đánh địch bất ngờ là một nguyên tắc mà dân tộc ta đã vận dụng một cách rộng rãi, thành thạo và sáng tạo. Trong điều kiện nước nhỏ, quân ít phải chống lại những kẻ thù xâm lược lớn, quân đông và tàn bạo thì vận dụng cách đánh bất ngờ “xuất kỳ bất ý” là hết sức cần thiết. Nguyễn Trãi đã tổng kết: “Yếu chống mạnh hay đánh bất ngờ” [Bình Ngô đại cáo]. Lê Lợi cho rằng, nắm thời cơ đánh bất ngờ là phương châm hành động để “dùng sức một nửa mà công được gấp đôi”. Nhân tố bất ngờ được quân đội thời Trần vận dụng thành công trong kháng chiến chống quân Mông - Nguyên, khi tập kích địch ở Đông Bộ Đầu giải phóng Thăng Long [tháng 1/1258], hoặc tiến công địch ở Bạch Đằng Giang [năm 1288].

Trong cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, điều kiện tương quan lực lượng đã khác trước. Quân ta đã vượt hẳn quân thù về cả thế và lực. Tuy nhiên trong bất kỳ tình huống nào, yếu tố bất ngờ cũng là một trong những yếu tố quan trọng, góp phần tạo nên thắng lợi trong chiến tranh. Đòn “điểm huyệt” ở Buôn Ma Thuột là một bất ngờ lớn đối với địch, dẫn tới sự tan rã dây chuyền nhanh chóng của chúng. Chiến dịch Hồ Chí Minh là một bất ngờ lớn hơn nữa mà địch tuy đã lường định nhưng vẫn không đoán được. Chúng đâu có ngờ ta đã sử dụng 4 quân đoàn và Đoàn 232 [tương đương quân đoàn] tiến theo 5 hướng khác nhau, trong đó có những mũi thọc sâu bằng các binh đoàn cơ giới. Chúng không ngờ ta đã huy động đến 400 xe tăng và xe bọc thép làm lực lượng đột kích, cùng 500 khẩu pháo lớn và hơn nửa triệu tấn vật chất kỹ thuật cho chiến dịch, chúng sửng sốt khi ta sử dụng cả lực lượng không quân. Và chúng càng không ngờ trận tiến công lại diễn ra và kết thúc nhanh chóng đến thế.

Trung đoàn Bộ binh 88 phối hợp đánh chiếm Bộ Tư lệnh Cảnh sát quốc gia Ngụy, ngày 30/4/1975. [ảnh tư liệu]

Như vậy, tác chiến tiến công “thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng” là tư tưởng chỉ đạo, là phương châm hành động quân sự, là nét độc đáo sáng tạo về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của BTTM, mang đậm tính truyền thống của dân tộc ta, trải qua một quá trình thừa kế, phát triển sáng tạo trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành. Tiến công thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng là một trong những bài học quí của nghệ thuật quân sự Việt Nam được BTTM Quân đội nhân dân Việt Nam vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong chỉ đạo tác chiến chiến lược, góp phần quan trọng làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Thắng lợi vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử [tháng 4/1975] chứng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo tài tình của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng, BTTM, của các tướng lĩnh chỉ huy và sự nỗ lực phi thường của quân và dân cả nước. Chiến thắng vĩ đại đó không những ghi vào lịch sử dân tộc ta như một mốc son rực sáng nhất trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc suốt 30 năm của quân và dân ta [1945 - 1975], mà còn là nét nổi bật và đặc sắc nhất của nghệ thuật chỉ đạo tác chiến tiến công “thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng”.

[1] - Tổ Trung tâm thành lập tháng 4/1973, gồm một số cán bộ chỉ huy Cục Tác chiến, do đồng chí Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng phụ trách.

[2] - Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 23 [số 240-NQ/TW] ngày 25/12/1974.

[3] - Hội nghị Bộ Chính trị quyết định phương án giải phóng miền Nam [từ ngày 18/12/1974 đến ngày 8/1/1975].

[4] - Lời thú nhận của vị tướng nguỵ Sài Gòn. Hồi ký Nguyễn Cao Kỳ, Nxb Thông tin, 1990.

Thượng tướng, Viện sỹ, Tiến sỹ KHQS Nguyễn Huy Hiệu, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng

Video liên quan

Chủ Đề