Chủ nghĩa xã hội khoa học dựng sai

Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội khoa học có chức năng và nhiệm vụ trang bị những tri thức khoa học, đó là hệ thống lý luận chính trị - xã hội và phương pháp luận khoa học mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã phát hiện ra và luận giải quá trình tất yếu lịch sử dẫn đến hình thành, phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chức năng này cũng thống nhất với chức năng của triết học Mác-Lênin và kinh tế chính trị học Mác-Lênin, nhưng trực tiếp nhất là trang bị lý luận nhận thức về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Không làm được chức năng này, chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ không thể cung cấp cơ sở lý luận và phương pháp nhận thức về chính trị - xã hội cho người nghiên cứu và hoạt động thực tiễn trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là cho các đảng cộng sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa với chức năng lãnh đạo và quản lý xã hội.

Thứ hai, chủ nghĩa xã hội khoa học có chức năng và nhiệm vụ trực tiếp nhất là giáo dục, trang bị lập trường tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân cho đảng cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động – lập trường xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Chính các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đã có công lớn là xây dựng hệ thống lý luận phản ánh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân rồi tuyên truyền, giáo dục trở lại cho giai cấp công nhân hiện đại hiểu về sứ mệnh lịch sử và bản chất của chính mình. Hệ thống lý luận đó đã trở thành hệ tư tưởng của giai cấp công nhân hiện đại.

Không có hệ tư tưởng cách mạng và khoa học, không có lập trường và bản lĩnh chính trị xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân, đảng của nó và nhân dân lao động không thể tiến tới giành chính quyền và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản; không thể đấu tranh với các hệ tư tưởng và các hoạt động thù địch chống chủ nghĩa xã hội, chống nhân dân lao động.

Thứ ba, chủ nghĩa xã hội khoa học có chức năng và nhiệm vụ định hướng về chính trị - xã hội cho mọi hoạt động của giai cấp công nhân, của đảng cộng sản, của nhà nước và của nhân dân lao động trên mọi lĩnh vực, sao cho sự ổn định và phát triển của xã hội luôn luôn đúng với bản chất, mục tiêu xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa; tức là qua từng nấc thang phát triển, tính chất xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa thuộc mọi lĩnh vực của xã hội thể hiện ngày càng rõ hơn và hoàn thiện hơn.

Về mặt lý luận: Việc nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin là phải chú ý cả ba bộ phận hợp thành của nó. Nếu không chú ý nghiên cứu, học tập, vận dụng, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ làm cho triết học, kinh tế chính trị học Mác-Lênin dễ chệch hướng chính trị - xã hội, trước hết và chủ yếu là chệch hướng bản chất, mục tiêu là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, giải phóng hoàn toàn xã hội và con người khỏi các chế độ tư hữu, áp bức, bất công, chiến tranh, nghèo nàn lạc hậu và mọi tai họa xã hội khác... mà thực tế lịch sử nhân loại đã từng chứng kiến.

Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học còn có ý nghĩa lý luận là: trang bị những nhận thức chính trị - xã hội [như đối tượng, chức năng, nhiệm vụ và phương pháp của chủ nghĩa xã hội khoa học đã nêu trên] cho đảng cộng sản, nhà nước và nhân dân lao động trong quá trình bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội... Vì thế, các nhà kinh điển Mác-Lênin có lý khi xác định rằng, chủ nghĩa xã hội khoa học là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân hiện đại và đảng của nó để thực hiện quá trình giải phóng nhân loại và giải phóng bản thân mình. Cũng như triết học và kinh tế chính trị học Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học không chỉ giải thích thế giới mà căn bản là ở chỗ cải tạo thế giới [cả tự nhiên, xã hội và bản thân con người] theo hướng tiến bộ, văn minh.

Đội ngũ trí thức và thế hệ trẻ nước ta hiện nay là những lực lượng xã hội có trí tuệ, có nhiều khả năng và tâm huyết trong quá trình cải tạo và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nếu chỉ thuần tuý chú trọng về khoa học và công nghệ, phi chính trị, hoặc mơ hồ về chính trị và vi phạm pháp luật, họ càng không thể góp tài góp sức xây dựng Tổ quốc của mình. Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học chính là việc được trang bị trực tiếp nhất về ý thức chính trị - xã hội, lập trường tư tưởng chính trị và bản lĩnh cho mỗi cán bộ, đảng viên và mọi công dân Việt Nam góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng đề ra.

Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học cũng làm cho ta có căn cứ nhận thức khoa học để luôn cảnh giác, phân tích đúng và đấu tranh chống lại những nhận thức sai lệch, những tuyên truyền chống phá của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động đối với Đảng ta, Nhà nước, chế độ ta; chống chủ nghĩa xã hội, đi ngược lại xu thế và lợi ích của nhân dân, dân tộc và nhân loại tiến bộ.

Về mặt thực tiễn, bất kỳ một lý thuyết khoa học nào, đặc biệt là các khoa học xã hội, bao giờ cũng có khoảng cách nhất định so với thực tiễn, nhất là những dự báo khoa học có tính quy luật. Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học lại càng thấy rõ những khoảng cách đó, bởi vì chủ nghĩa xã hội trên thực tế, chưa có nước nào xây dựng hoàn chỉnh. Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, cùng với thoái trào của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, lòng tin vào chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa Mác-Lênin của nhiều người có giảm sút. Đó là một thực tế dễ hiểu. Vì thế, nghiên cứu, giảng dạy chủ nghĩa xã hội khoa học càng khó khăn trong tình hình hiện nay và cũng có ý nghĩa chính trị cấp bách.

Chỉ có bình tĩnh và sáng suốt, kiên định và chủ động sáng tạo tìm ra những nguyên nhân cơ bản và bản chất của những sai lầm, khuyết điểm, khủng hoảng, đổ vỡ và của những thành tựu to lớn trước đây cũng như của những thành quả đổi mới, cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta mới có thể đi tới kết luận chuẩn xác rằng: không phải do chủ nghĩa xã hội – một xu thế xã hội hoá mọi mặt của nhân loại; cũng không phải do chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học... làm các nước xã hội chủ nghĩa khủng hoảng. Trái lại, chính là do các nước xã hội chủ nghĩa đã nhận thức và hành động trên nhiều vấn đề trái với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác-Lênin... đã giáo điều, chủ quan duy ý chí, bảo thủ, kể cả việc đố kỵ, xem nhẹ những thành quả chung của nhân loại, trong đó có chủ nghĩa tư bản; đồng thời do xuất hiện chủ nghĩa cơ hội – phản bội trong một số đảng cộng sản và sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình đã làm cho chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào.

Thấy rõ thực chất những vấn đề đó một cách khách quan, khoa học; đồng thời được minh chứng bởi thành tựu rực rỡ của sự nghiệp đổi mới, cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, chúng ta càng củng cố bản lĩnh kiên định, tự tin tiếp tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.

Do đó, việc nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, lý luận chính trị - xã hội nói riêng và các khoa học khác... càng là vấn đề thực tiễn cơ bản và cấp thiết. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chống mọi biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, dao động, thoái hoá, biến chất trong đảng và cả xã hội, giáo dục lý luận chính trị - xã hội một cách cơ bản khoa học tức là ta tiến hành củng cố niềm tin thật sự đối với chủ nghĩa xã hội... cho cán bộ, học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên và nhân dân. Tất nhiên đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và mở rộng hợp tác quốc tế; tiến hành hội nhập quốc tế, toàn cầu hoá về kinh tế; xây dựng "kinh tế tri thức", thực hiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa... đang là những vận hội lớn, đồng thời cũng có những thách thức lớn đối với nhân dân ta, dân tộc ta. Đó cũng là trách nhiệm lịch sử rất nặng nề và vẻ vang của cả thế hệ trẻ đối với sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa trên đất nước ta.

1/11/2021 2:34:31 PM

“Đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sai lầm lịch sử” mà một số người thường rêu rao là luận điệu sai trái. Trước thềm Đại hội XIII của Đảng, họ càng tăng cường đưa ra luận điệu này. Chúng ta cần nhận diện, đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái đó.

Lợi dụng việc Đảng ta công khai, lấy ý kiến nhân dân tham gia, góp ý vào Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIII, các thế lực thù địch, phản động rêu rao rằng: “Kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội”, kiên định với “chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” là “lạc nhịp”. Thủ đoạn họ thường sử dụng là tạo dựng, xuyên tạc bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng. Phương thức chung là tuyệt đối hóa hiện tượng thay cho bản chất, “lập lờ đánh lận con đen”, hòng gây mơ hồ, mất niềm tin của nhân dân vào nền tảng tư tưởng của Đảng, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo. Họ triệt để lợi dụng công nghệ thông tin, internet, các trang mạng xã hội, website để đăng tải, chia sẻ, phát tán quan điểm sai trái nhằm chống phá chủ nghĩa xã hội nói chung và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng. Đặc biệt, lợi dụng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, họ cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam “bảo thủ” với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là trái quy luật, “nếu Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục kiên định với chủ nghĩa Mác thì đừng trông chờ gì vào đường lối Đại hội XIII”[!], v.v. Các luận điệu trên sai về khoa học và phản động về chính trị, bởi một số lý do sau:

Một là, chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ sự thay thế giữa các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử là hoàn toàn khách quan, tuân theo quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Khi quan hệ sản xuất lỗi thời, trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất mới thì tất yếu nó bị lực lượng sản xuất mới phá vỡ nhằm thay thế bằng quan hệ sản xuất phù hợp hơn. Và phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa ra đời sẽ tiến bộ hơn, tất yếu thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời. C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra: “Các lực lượng sản xuất mới đã vượt quá hình thức tư sản của việc sử dụng chúng; và sự xung đột ấy giữa các lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất hoàn toàn không phải là sự xung đột sinh ra chỉ từ đầu óc người ta,... mà là có thật, khách quan, ở bên ngoài chúng ta, không phụ thuộc vào ý chí hoặc hành động của chính ngay những người đã tạo ra nó”1. Vì vậy, “Chủ nghĩa xã hội hiện đại chẳng qua chỉ là sự phản ánh của sự xung đột có thật ấy vào trong tư duy, là sự phản ánh trên ý niệm của sự xung đột ấy, trước hết trong đầu óc của giai cấp trực tiếp chịu đau khổ vì sự xung đột ấy, tức là giai cấp công nhân”2. Theo đó, tính tất nhiên là chủ nghĩa xã hội sẽ ra đời, phát triển trong lòng xã hội tư bản cũ đang sụp đổ.

Lý luận Mác – Lênin cũng chỉ ra hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phải trải qua “một thời kỳ và hai giai đoạn”. Một thời kỳ là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Hai giai đoạn: giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội; giai đoạn cao là cộng sản chủ nghĩa. Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa sẽ phát triển cao hơn và khác về chất so với hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhưng nó không tự phát hình thành mà thông qua vận động của các quy luật về kinh tế, xã hội, con đường đấu tranh cách mạng xóa bỏ áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản để xây dựng xã hội mới. Đồng thời, chỉ rõ giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng vô sản để lật đổ giai cấp tư sản; giai cấp duy nhất có khả năng xây dựng và đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong những năm bôn ba ở nước ngoài, Người đã tiếp cận chủ nghĩa Mác – Lênin, cùng giá trị nhân văn của xã hội chủ nghĩa hiện thực ở nước Nga để tìm ra con đường đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột, xâm lược, đô hộ của chủ nghĩa thực dân, phong kiến. Bởi vậy, muốn giành được độc lập cho dân tộc thì phải tiến hành con đường cách mạng vô sản và xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Người đã để lại di sản vô cùng quý báu cho cách mạng Việt Nam, đó là hệ thống quan điểm cơ bản về con đường, phương pháp cách mạng đấu tranh giành độc lập dân tộc và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đường lối đổi mới nhưng không đổi màu, là phù hợp với xu thế thời đại và thực tiễn Việt Nam. Do vậy, những luận điệu cho rằng do chủ nghĩa Mác – Lênin đã sụp đổ, Đảng Cộng sản Việt Nam bị khủng hoảng về tư tưởng lý luận nên phải lấy “tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng” là không đúng.

Ba là, đường lối đúng đắn, sáng tạo hòa quyện “ý Đảng, lòng dân” về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ năm 1930, Chánh cương vắn tắt của Ðảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Ðảng thảo luận, thông qua, tuy rất ngắn gọn, nhưng đã xác định rõ đường lối của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Từ đó, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành mục tiêu chiến đấu nhất quán, xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng. Mỗi nhiệm kỳ Đại hội của Đảng là một chặng đường cách mạng có mục tiêu, đối tượng, yêu cầu, nhiệm vụ, kế hoạch khác nhau về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thành quả đạt được của nhiệm kỳ trước đã tạo tiền đề, thuận lợi cho nhiệm kỳ sau. Năm 1991, Đảng đã đưa ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó chỉ ra sáu đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đến Cương lĩnh năm 2011 phát triển sáng tạo thành tám đặc trưng. Mỗi kỳ Đại hội đều chỉ ra tính đặc thù của thời kỳ quá độ ở Việt Nam, đánh giá những thành quả to lớn về xây dựng chủ nghĩa xã hội và khẳng định sự kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn đúng đắn.

Bốn là, chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời đã thể hiện tính ưu việt hơn chủ nghĩa tư bản; sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự đổ vỡ của một mô hình cụ thể. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga sau là Liên Xô có thời gian chưa dài, nhưng đã giành được nhiều thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực. Liên Xô đã trở thành cường quốc kinh tế thứ 2 thế giới [sau Mỹ] với sản lượng công nghiệp chiếm 20% tổng sản lượng công nghiệp thế giới. Năm 1957, Liên Xô là quốc gia đầu tiên phóng thành công vệ tinh nhân tạo. Năm 1961, phóng tàu vũ trụ đưa nhà du hành Gagarin bay vòng quanh trái đất mở ra kỷ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người. Liên Xô là nước hàng đầu thế giới về trình độ học vấn của nhân dân với tỷ lệ dân số có trình độ từ trung học trở lên, có trên 30 triệu người “làm việc trí óc”, v.v. Rõ ràng, trong một thời gian ngắn, chủ nghĩa xã hội ra đời ở Liên Xô và nhiều nước xã hội chủ nghĩa tuy chưa hoàn thiện, nhưng đã phát triển lớn mạnh về nhiều mặt, khác hẳn về chất so với chủ nghĩa tư bản. Điều đó cho thấy, chủ nghĩa xã hội là một hiện thực, hoàn toàn không phải là “giấc mơ” cũng chẳng phải là “ảo tưởng”!

Hiện nay, các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam đang tiến hành sự nghiệp đổi mới, cải cách đạt được những thành tựu hết sức quan trọng, vững chắc, được thế giới ngưỡng mộ. Mặc dù, chủ nghĩa tư bản đã trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau, với sự điều chỉnh, thích nghi nhưng bản chất không bao giờ thay đổi, vẫn là xã hội áp bức, bóc lột, bất công. Chủ nghĩa xã hội tuy gặp phải khó khăn, khủng hoảng, song với những thành tựu ban đầu đã khẳng định tính chất ưu việt, tiến bộ hơn hẳn và tất yếu sẽ là tương lai của xã hội loài người. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam xuất phát từ những thành tựu mang tính tất yếu đó.

Thứ năm, Đảng Cộng sản Việt Nam có bản lĩnh chính trị, trí tuệ, khả năng lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ra đời trong phong trào cách mạng của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn thể nhân dân Việt Nam làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ giai cấp. Từ năm 1954 đến 1975, Đảng lãnh đạo nhân dân ta thực hiện đồng thời và thắng lợi hai chiến lược cách mạng là đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Sau giải phóng miền Nam, đất nước thống nhất, Đảng lãnh đạo cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Đảng ta vẫn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, kiên quyết thực hành đường lối đổi mới, giữ vững nguyên tắc, quyết “không đổi màu”.

Qua 35 năm tiến hành đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta đạt được những thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, được bạn bè quốc tế thừa nhận. Sự thực ấy không thể xuyên tạc, bác bỏ. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, đã khẳng định: đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực và vị thế như ngày nay; đồng thời, tạo nên thời cơ mới cho cả dân tộc vượt qua thách thức, tận dụng cơ hội để chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phát triển nhanh và bền vững hơn ở chặng đường tiếp sau.

Với những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, một lần nữa khẳng định: sự xuyên tạc và phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là vô căn cứ. Và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Nhân dân đã lựa chọn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn đúng; không một thế lực nào có thể ngăn cản được tinh thần cách mạng tiến công của nhân dân ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại tá, PGS, TS. LƯU NGỌC KHẢI, Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự
________________

1 - C. Mác và Ph. Ăngghen – Toàn tập, Tập 20, Nxb CTQG, H. 1994, tr. 372.

2 - C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 20, Nxb CTQG, H. 1994, tr, 372 - 373.

Video liên quan

Chủ Đề