Chức năng giáo dục của thư viện trường học

Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, Ths Hồ Quốc Phú đã nêu ra những vai trò to lớn của thư viện, đặc biệt là đối với giáo dục Đại học ở nước ta hiện nay.

Cung cấp học liệu phục vụ quá trình giảng dạy và học tập

Nguồn học liệu luôn có vị trí quan trọng trong giáo dục ở bậc Đại học. Bởi nguồn học liệu phong phú sẽ giúp cho giảng viên chuẩn bị và cập nhật bài giảng được đầy đủ, sinh viên có thể khai thác tài nguyên đó một cách tối ưu.

Do đó, sinh viên muốn học tập tốt thì cần tìm đến các nguồn học liệu do giảng viên cung cấp, giới thiệu. Để làm được điều này, thư viện sẽ là địa chỉ hữu ích và tin cậy, là môi trường giúp sinh viên có thể tìm tài liệu phục vụ cho việc học tập hiệu quả.

Khi bàn về hoạt động cung cấp nguồn học liệu phục vụ cho giáo dục đại học, trước hết phải khẳng định, thư viện là nơi cung cấp nguồn học liệu quan trọng nhất. Ở thư viện, sinh viên có thể tiếp cận với nhiều nguồn thông tin đầy đủ, toàn diện, phong phú và đa dạng nhất.

Đó là những thông tin đã được sàng lọc, đảm bảo tính pháp lý, được thực tiễn kiểm nghiệm và đáp ứng cơ bản nhu cầu của sinh viên. Thư viện hiện nay không chỉ là một trung tâm tri thức, mà còn trở thành một trung tâm thông tin, ở đó không chỉ có sách, báo, tạp chí in trên giấy mà còn có các thông tin tư liệu đã được số hóa và kể cả thông tin từ mạng Internet.

Một số thư viện đại học tiêu biểu có thể kể ra như Trung tâm học liệu Thái Nguyên, trung tâm học liệu Cần Thơ đã từng bước đáp ứng được yêu cầu của giáo dục đại học hiện đại. Trung tâm học liệu Đà Nẵng hiện nay bên cạnh hệ thống tài liệu truyền thống đã hình thành kho tài liệu số với “trên 2000 tài liệu điện tử” , thư viện đã thực hiện việc kết nối mạng LAN, WAN, Internet…

Trở thành một một yếu tố của quá trình đào tạo Đại học

Công tác thư viện không chỉ tham gia vào hoạt động hỗ trợ giáo dục Đại học, nó còn được xem là một yếu tố của quá trình đào tạo Đại học. Có thể xem thư viện là giảng đường thứ hai của sinh viên, nơi trực tiếp diễn ra các hoạt động tự đào tạo, tự tích lũy kiến thức.

Yêu cầu đặt ra cho công tác thư viện là phải có các hoạt động nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng là “giảng đường thứ hai” này. Cần thiết phải đồng bộ hóa hoạt động đào tạo của thư viện với hoạt động đào tạo của nhà trường, tạo điều kiện thuận lợi nhất để người học thực sự coi thư viện là nơi học tập hiệu quả.

Với tư cách là “giảng đường thứ hai” của giáo dục Đại học, thư viện góp phần hình thành năng lực độc lập trong việc khám phá và tư duy sáng tạo của sinh viên. Việc tiếp cận, chiếm hữu và sở hữu tri thức chỉ thật sự có hiệu quả trên tính tự giác của sinh viên.

Không có một người thầy nào, không có một ngôi trường nào có thể thay thế người học trong quá trình tự chiếm lĩnh tri thức, biến tri thức nhân loại thành kiến thức của bản thân. Sách giáo khoa và giáo trình chỉ là các khung cơ bản của chương trình đào tạo, chính nguồn tài liệu phong phú đa dạng trong thư viện mới thật sự đóng góp vào quá trình hoàn thiện nhận thức, hình thành hệ thống tri thức một cách đầy đủ nhất mà vẫn phản ánh đậm nét dấu ấn của mỗi cá nhân.

Công tác thư viện nếu thực hiện tốt sẽ tạo ra một môi trường tri thức rộng lớn, đa dạng để sinh viên có thể tự mình học tập, tự mình nghiên cứu.

Thư viện phải trở thành “thao trường cần thiết để sinh viên từng bước tập dượt trên con đường trở thành người có ích, có năng lực và trên con đường chinh phục đỉnh cao trí tuệ sau này”.

Thiết chế đào tạo phi chính thức

Chúng ta đang chứng kiến sự ra đời và mất đi nhanh chóng của các loại hình lao động do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nó buộc con người phải có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp.

Với quan điểm tiếp cận mới, đào tạo đại học bên cạnh việc trang bị kiến thức cơ bản, hàn lâm cũng cần phải trang bị kỹ năng để người học có thể tồn tại được trong một thời đại có nhiều sự biến đổi.

Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và xu hướng hình thành những “công dân toàn cầu” cũng đặt ra yêu cầu buộc sinh viên hiện nay cần phải được trang bị những kỹ năng cần thiết để tồn tại được ở nhiều dạng môi trường xã hội – văn hóa khác nhau.

Điều đó gợi mở cho chúng ta về một vai trò mới của thư viện hiện nay. Hoạt động thư viện cần ngày càng đóng một vai trò tích cực hơn trong quá trình thiết kế, tổ chức các hoạt động văn hóa, góp phần hình thành những kỹ năng cần thiết cho sinh viên.

Thư viện như vậy sẽ là một môi trường đào tạo thứ hai, độc lập với hệ thống các trường đại học, dần dần trở thành một thiết chế đào tạo phi chính thức. Vai trò này tuy chưa định hình rõ song sẽ là xu hướng tất yếu của công tác thư viện trong tương lai.

Thư viện trước đây chỉ là nơi chứa sách, cho bạn đọc tìm kiếm, tìm đọc. Thư viện bây giờ ngoài việc cung cấp thông tin nó còn có những chức năng là một trung tâm văn hóa, thông tin, và sinh hoạt cộng đồng. Mô hình thư viện mở, thân thiện với người đọc mà nhiều trường đại học xây dựng đã làm thay đổi nhận thức và thói quen của sinh viên, giảng viên đối với việc đọc sách và tổ chức các hoạt động trong không gian thư viện.

Thư viện đang dần trở thành một không gian sáng tạo cho cả sinh viên và giảng viên. Bằng việc tổ chức nhiều hoạt động cung cấp dịch vụ, tổ chức các sự kiện như: ngày sách Việt Nam, các buổi hội thảo, thông tin chuyên đề, các hoạt động văn hóa đọc… thư viện từng bước đã trở thành nơi mang chức năng giáo dục kiến thức, kỹ năng sống và làm việc, giao lưu và hợp tác cho tất cả mọi đối tượng, trong đó có sinh viên.

Thông qua các hoạt động văn hóa ở thư viện, sinh viên có cơ hội mở rộng kiến thức, kỹ năng, cơ hội trong học tập và chia sẻ các hệ giá trị nhân văn của cuộc sống.

                                                                                                                                                                 [Theo Báo mới]      

1. Chức năng văn hóa:

– Thư Viện thu thập, lưu trữ, bảo quản và truyền bá di sản văn hóa của nhân loại cũng như của đất nước trong kho tài liệu

– Thư Viện là trung tâm sinh hoạt văn hóa và nâng cao dân trí

 2. Chức năng giáo dục:

– Góp phần xóa mù chữ cho nhân dân. Đồng thời, Thư viện còn nâng cao trình độ dân trí, chuyên môn cho các tầng lớp.

3 Chức năng thông tin:

Thư Viện cung cấp thông tin đến mọi người thông qua:

– Phục vụ thông tin thư mục theo phương thức truyền thống cũng như hiện đại ngay ở thư viện như: Hệ thống mục lục, thư mục,CSDL, phổ biến thông tin chọn lọc, bản tin điện tử.

– Tiếp cận qua mạng để với tới nguồn lực của các TV khác và đảm bảo sự tiếp cận đó tới các nguồn thông tin điện tử cho bạn đọc ở bất kỳ nơi đâu.

=> Như vậy phát triển các dịch vụ thông tin của TV chính là để đáp ứng nhu cầu thông tin từng ngày của cá nhân hoặc các nhóm người sử dụng TV.

 4. Chức năng giải trí:

– Thư Viện tham gia vào tổ chức sử dụng thời gian nhàn rỗi cho nhân dân bằng cách cung cấp sách báo và các phương tiện nghe nhìn khác để đáp ứng nhu cầu giả trí. Chức năng giả trí thể hiện rõ nhất ở các TV công cộng.

– Thực tiễn công tác TV trên thế giới chứng minh rằng rất nhiều bạn đọc: đọc sách báo sử dụng các phương tiện nghe nhìn ở TV nhằm mục đích giải trí để làm phong phú đời sống tinh thần, thư giãn sau những giờ phút làm việc, học tập căng thẳng.

[Sưu tầm]

//www.nypl.org/about/locations/castle-hill

Thứ Tư, 13/05/2020 | 15:13

Ngày nay, cuộc sống của chúng ta đang thay đổi chóng mặt với rất nhiều những cải tổ về công nghệ ở mọi lĩnh vực và sự bùng nổ thông tin. Những thay đổi này đặt ra những thách thức về việc định hướng, chọn lọc thông tin và ảnh hưởng trực tiếp tới văn hóa đọc, văn hóa nghe - nhìn của học sinh. Chính vì vậy, cán bộ thư viện [CBTV] trường học phải là người năng động và sáng tạo, nắm giữ nhiều vai trò quan trọng với nhiều kỹ năng khác nhau mới có thể thực hiện tốt công việc của mình.

1. Vai trò của một giáo viên

Công việc thể hiện vai trò giáo viên của CBTV chính là việc cùng phối hợp và hỗ trợ quá trình dạy và học của giáo viên và học sinh.

CBTV phải là người xây dựng chương trình hướng dẫn, phối hợp với giáo viên để lên kế hoạch và lồng ghép các bài học kỹ năng thông tin trong từng môn học; là người nắm được chương trình học để có thể đáp ứng được nhu cầu đọc của học sinh, của từng khối lớp.

Đối với từng môn học hoặc bài học cụ thể, CBTV có thể tìm hiểu trước về nội dung bài học/ môn học và cung cấp các danh mục tài liệu phù hợp cho môn học đó. Danh mục này có thể bao gồm cả tài liệu hiện có tại thư viện và cả các tài liệu miễn phí trên mạng.

Một phương thức lý tưởng cho quá trình dạy học trong nhà trường là giáo viên đứng lớp sẽ dạy các nội dung của môn học cho học sinh, còn CBTV sẽ truyền đạt những kỹ năng tìm kiếm thông tin về những nội dung mà học sinh đã được học.

Như vậy, sự tham dự trực tiếp của CBTV trường học vào chương trình giảng dạy và học tập sẽ làm thay đổi tình trạng của CBTV trường học từ một người trung gian, thụ động, trở thành một tham dự viên tích cực trong nỗ lực giáo dục. CBTV trường học ngày nay phải là một giáo viên được đào tạo, được chứng nhận, một giáo viên trong công việc và thái độ.

2. Vai trò của người quản lý

Thông thường, mỗi thư viện trường học chỉ có một cán bộ đảm nhiệm công tác thư viện, hiếm hoi mới có trường có hai cán bộ làm công tác này. Công việc thì nhiều và vất vả, đòi hỏi phải người cán bộ phải lên kế hoạch một cách khoa học mới có thể thực hiện tốt mọi công việc của mình. Chính vì vậy, CBTV cũng chính là người quản lý, điều hành mọi công việc trong thư viện, mang trách nhiệm tương tự như người quản lý một bộ phận trong nhà trường.

CBTV phải quản lý ngân sách hoạt động thư viện, trang thiết bị, cơ sở vật chất của thư viện, lịch làm việc, các hoạt động và quy định của thư viện. Trong trường hợp thư viện có cộng tác viên hoặc nhân viên làm việc hợp đồng bán thời gian thì CBTV sẽ là người quản lý những nhân sự này.

Ngoài ra, CBTV phải là người quản lý tốt nội dung của hệ thống thông tin, biết thu thập, sử dụng và trao đổi một cách hiệu quả những nguồn thông tin học liệu và tài liệu giảng dạy để từ đó cung cấp được những thông tin có giá trị và chọn lọc, đáp ứng nhu cầu tin của giáo viên và học sinh trong trường.

Và cuối cùng, CBTV phải quản lý tốt vốn tài liệu của thư viện. Đó là việc cân đối giữa ngân sách và nhu cầu bổ sung tài liệu, lựa chọn và đánh giá các nguồn tài liệu, bảo đảm sao cho tài liệu phải phù hợp với nội dung chương trình giáo dục của nhà trường và nhu cầu của học sinh, giáo viên trong trường.

3. Vai trò chủ thể sáng tạo trong các hoạt động thư viện

Là người bạn đồng hành trong công việc, sức sống của thư viện có được duy trì và tồn tại hay không còn tùy thuộc vào lòng yêu nghề và sự sáng tạo trong công việc của người CBTV.

Ngày nay, thư viện không đơn thuần chỉ là nơi phục vụ việc đọc sách và cho mượn sách, mà thư viện phải là nơi trải nghiệm học tập ngoài lớp học đầy thú vị và bổ ích cho các em học sinh.

CBTV phải là người nắm bắt được nhu cầu của các em học sinh, linh hoạt và sáng tạo trong cách tổ chức các hoạt động trong thư viện theo nhiều mô hình khác nhau. Thư viện trường học có thể trở thành phòng tập tô, tập vẽ, chơi cờ hay phòng đọc to nghe chung cho các em học sinh tiểu học thông qua các góc hoạt động trong thư viện. Thư viện cũng có thể là nơi trưng bày của các cuộc thi vẽ tranh theo sách; là sân khấu - nơi diễn ra các cuộc thi kể chuyện sách, thi bình sách, đọc sách diễn cảm, đọc và làm theo sách, thi đố vui. Thậm chí, ở những thư viện trường học được trang bị đầy đủ các phương tiện, thư viện còn là phòng nghe nhạc, phòng chiếu phim… giúp học sinh THPT có thể được thư giãn lành mạnh sau những giờ học căng thẳng. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào óc tổ chức, sáng tạo của CBTV và sự quan tâm, đánh giá cao hoạt động thư viện của lãnh đạo và tập thể giáo viên nhà trường.

Ngoài ra, việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa cũng là một kênh hữu ích đưa các em học sinh đến với kho tài liệu, thông tin của thư viện.  

Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển, xã hội tràn lan những loại hình giải trí trên mạng rất thu hút. Văn hóa đọc dần bị mai một, học sinh sẽ nhàm chán với việc đọc sách vì quá đơn điệu và không có mục đích. Vậy, làm thế nào để giúp các em học sinh thư giãn, giải trí sau những giờ học căng thẳng, vừa cung cấp cho các em những kiến thức bổ ích về cuộc sống, xã hội và con người.

Để phát huy vai trò của thư viện, CBTV sẽ là người tham mưu và đề xuất với lãnh đạo nhà trường các kế hoạch hoạt động, giới thiệu và cung cấp nguồn lực thông tin cho các chủ đề hoạt động. CBTV cần chủ động phối hợp với Ban giám hiệu, tổ bộ môn trong các hoạt động, gợi ý hướng chủ đề nhằm mục đích khai thác có hiệu quả sách báo và những tư liệu khác có trong thư viện.

Có rất nhiều hoạt động ngoại khóa bổ ích hiện nay được các CBTV trường phối hợp thực hiện như: Giới thiệu sách hoặc điểm sách dưới cờ [thường được tổ chức vào thứ hai đầu tuần]; Hái hoa dân chủ; Chiếc nón kì diệu; Rung chuông vàng…; hoặc những hoạt động ngoại khóa dựa theo chủ đề của những ngày lễ trong năm.

Thực chất, hoạt động ngoại khóa chính là hoạt động nối tiếp và thống nhất hữu cơ với hoạt động giáo dục trong giờ học trên lớp, giúp học sinh củng cố, bổ sung những kiến thức đã được học qua các môn học, phát triển sự hiểu biết của các em trong các lĩnh vực xã hội, hình thành và phát triển ở các em các kỹ năng ban đầu [kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc tập thể, kỹ năng nhận thức, tính tự tin, mạnh dạn, năng động, sáng tạo…].

4. Vai trò “cầu nối”, liên kết giữa nhà trường, gia đình và xã hội

Thư viện muốn hoạt động tốt thì CBTV không thể hoạt động một mình, phải biết thu hút sự cộng tác, liên kết các mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Đặc biệt, nếu biết chủ động tư vấn, tranh thủ sự ủng hộ của Ban giám hiệu trường và đội ngũ giáo viên là điều cơ bản nhất cho sự thành công của thư viện.

CBTV và giáo viên cần phải làm việc cùng nhau để xác định rõ mục tiêu và các vấn đề mà nhà trường mong muốn học sinh của mình cần đạt được, từ đó lập ra các kế hoạch và chương trình giảng dạy cho thích hợp. Các giáo viên sẽ cùng tham gia đánh giá các nguồn tài liệu cần thiết cho việc hướng dẫn học sinh học tập, cùng nhau thảo luận phương pháp phối hợp giữa việc học trên lớp và học tại thư viện, tự học cho học sinh.

Ngoài các thành viên trong nhà trường, CBTV còn nên thiết lập các mối quan hệ với CBTV trường bạn để trao đổi kinh nghiệm cũng như chia sẻ, tận dụng được nguồn lực của các đơn vị.

Ngoài ra, việc tạo mối quan hệ với các tổ chức xã hội hay với Ban phụ huynh nhà trường cũng là một cách làm hiệu quả để huy động sự quan tâm, đóng góp của họ vào việc tăng cường vốn tài liệu trong thư viện hoặc với các hoạt động khác của thư viện.

CBTV phải chủ động việc tuyên truyền, vận động các bậc phụ huynh học sinh hiểu được ý nghĩa, tác dụng của việc xây dựng tủ sách tại lớp và xây dựng thư viện nhà trường; vận động các tổ chức xã hội trong và ngoài trường, các mạnh thường quân cùng tham gia xây dựng các tủ sách thư viện. Ví dụ ở nhiều nước trên thế giới, những thành viên của Hội những người bạn của thư viện sẽ sẵn lòng tình nguyện tham gia vào việc sửa chữa, bổ sung tài liệu, làm các thiết bị hỗ trợ giảng dạy hoặc tổ chức những buổi giới thiệu sách.

Thực tế cho thấy đã có rất nhiều CBTV trường học làm rất tốt công tác xã hội hóa thư viện này, điển hình là việc thực hiện phong trào “Góp một cuốn sách nhỏ, đọc ngàn cuốn sách hay”. Từ phong trào này, rất nhiều thư viện trường học đã cải thiện được nguồn vốn tài liệu của mình, giảm tải cho nhà trường nguồn kinh phí không nhỏ cho việc bổ sung sách.

Khởi nguồn từ phong trào trên, rất nhiều cuộc vận động đóng góp, ủng hộ sách được CBTV trường học tuyên truyền và thực hiện hiệu quả. Các thư viện góc lớp hay còn gọi là tủ sách góc lớp ra đời dựa trên sự đóng góp của các em học sinh và gia đình, đem lại hiệu quả thiết thực trong việc đẩy mạnh văn hóa đọc tới từng lớp học. Các tủ sách góc lớp được luân chuyển, hoán đổi cho các lớp khác trong cùng khối và hết năm số sách đó sẽ được bổ sung vào các tủ sách chung của thư viện nhà trường, làm phong phú thêm cho nguồn vốn tài liệu của thư viện.

Trên thực tế, việc đào tạo nguồn nhân lực với năng lực và phẩm chất đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn đã đặt ra những nhiệm vụ cấp thiết cho các cơ sở đào tạo cán bộ thư viện - thông tin ở Việt Nam trong những năm sắp tới với việc tiếp tục đổi mới, cải tiến chương trình đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy có trình độ cao, đổi mới phương pháp giảng dạy và tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ việc giảng dạy và học tập.

Kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển cho thấy, diện mạo của CBTV trường học trong xã hội hiện đại đòi hỏi họ phải có đầy đủ các kiến thức, kỹ năng như một giáo viên thực thụ; bên cạnh đó là trình độ nghiệp vụ giỏi, khả năng giao tiếp linh hoạt, kỹ năng quản lý, tổ chức, thái độ nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm cao. Họ cũng phải là một đối tác ngang hàng với các giáo viên trong nhà trường và thực sự là “linh hồn” của thư viện trường học.

Nguyễn Ngọc Mỹ, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam

Video liên quan

Chủ Đề