Cyclothyme là gì
CHUYÊN ĐỀ BỆNH TÂM THẦN 1/ RỐI LOẠN LƯỠNG CỰC : NHỮNG KHÍ CHẤT QUÁ MỨC CẦN KỀM CHẾ Từ vài năm nay rối loạn lưỡng cực được truyền thông nói đến, nhưng cuối cùng vẫn không được biết rõ : bằng cớ, trung bình chẩn đoán rối loạn lưỡng cực cần 10 năm, trong đó những người bệnh bối rối thường sống trên con đường xuống địa ngục. Thật vậy, căn bệnh thường nhất được phát hiện bởi một đợt trầm cảm (épisode dépressif), đối với bệnh nhân điều này đau khổ hơn so với cực kia của lưỡng cực, sự tăng hoạt động bất thường và đôi khi mê sảng (hyperactivité anormale et délirante). Nếu chẩn đoán không được thiết đặt một cách đúng đắn, chứng trầm cảm ban đầu này thường được điều trị với những thuốc chống trầm cảm, điều này làm bệnh nặng thêm, kéo người bệnh vào trong những vòng xoắn ốc của những rối loạn và những hành vi có hại cho sức khỏe. Những thuốc duy nhất có hiệu quả là những thuốc điều hòa khí chất (régulateur de lhumeur), cùng với tâm lý liệu pháp, cho phép ổn định 85% bệnh nhân. Những rối loạn lưỡng cực là những rối loạn khí chất (trouble de lhumeur) mà não bộ không biết điều hòa nữa. Chúng gây bệnh cho 1% đến 2,5% dân chúng, ở đàn ông bằng với đàn bà và thường nhất xuất hiện giữa 17 và 25 tuổi. Những rối loạn lưỡng cực được phát hiện thường nhất ở người thiếu niên và người trưởng thành trẻ tuổi, một lứa tuổi mà khí chất đã được thử thách. Khí chất là một chức năng bình thường thích ứng với môi trường, như nhiệt độ, đường huyết hay huyết áp. Ta không lưỡng cực ngay khi ta có khí chất thay đổi, GS Jean-Pierre Kahn đã nhắc lại như vậy. Phải tự vấn khi những thay đổi của mình là quá mức so với những thay đổi trong cuộc sống của mình. Thế thì, nếu việc phấn khởi khi một dự kiến mới được thiết đặt là chuyện bình thường, thì ngược lại không phải là bình thường khi trong nhiều ngày liên tiếp, ngày và đêm, vẫn trong một trạng thái khoái trá. Vậy dùng thời gian để bàn bạc với những người thân cận là một yếu tố chẩn đoán quan trọng, nhất là khi bệnh lưỡng cực (mà những thành phần di truyền từ nay đã được nhận diện) thường là một bệnh gia đình. Đứng trước một đợt trầm cảm, mặc dầu bệnh nhân không nói một cách ngẫu nhiên về đợt hưng phấn (épisode maniaque), phải luôn luôn hỏi bệnh nhân về một căn bệnh lưỡng cực ở một người bà con gần , GS Thierry Bougerol đã chỉ rõ như vậy. Đồng hồ sinh học (horloge biologique) cũng là một yếu tố quan trọng trong sự điều hòa khí chất (xem bài dưới) và tính lưỡng cực (bipolarité) có thể thấy thường hơn ở những người làm việc với giờ giấc không đều (y tá, công nhân, phải di chuyển thường xuyên trong những vùng giờ khác). Đối với các bệnh nhân, điều hữu ích là thiết đặt một lối sống đều đặn, để tạo điều kiện cho sự ổn định của khí chất. Chẩn đoán sớm là thiết yếu để không thêm vào gánh nặng của 10 năm chậm trễ này : những nghiện ngập, ly dị, thất nghiệp, những bệnh kèm theoNgoài ra nếu không được điều trị, bệnh tự nó có thể trầm trọng bằng cách in lên não những circuit de fonctionnement không thích đáng, trong khi não có thể tự sửa chữa nhờ điều trị. Trong trường hợp nghi ngờ vào lúc chẩn đoán, trước khi thiết đặt một điều trị có thể có những tác dụng âm tính, luôn luôn có thể đi khám một trong 9 centre expert hiện có ở Pháp Chúng tôi trả lời tất cả những câu hỏi và, nếu bệnh nhận được gởi đến cho chúng tôi để thực hiện một bilan, chúng tôi thiết đặt một sự phối hợp với thầy thuốc điều trị biết rõ bệnh nhân trong môi trường hàng ngày của mình, GS Jean-Pierre Kahn đã nhấn mạnh như vậy. Các bệnh nhân vẫn lưỡng cực suốt đời nhưng, với một điều trị thích ứng, đại đa số các bệnh nhân có thể sống thoải mái, mặc dầu vài người thỉnh thoảng tiếc nuối năng lực mê sảng (énergie délirante) của các đợt hưng phấn. (LE FIGARO 29/5/2017) 2/ TÔI ĐÃ ĐÁNH MẤT 40 NĂM CỦA CUỘC ĐỜI Rồi một đợt mới xuất hiện khi tôi được 17-18 tuổi, làm rối loạn những năm cuối học hành của tôi. Tôi cảm thấy bị trầm uất nhưng không hiểu tại sao, nhưng bởi vì mẹ tôi và anh tôi cũng bị điều đó, nên thầy thuốc tâm thần gợi chẩn đoán trầm cảm và cho tôi thuốc điều trị : do đó tôi dùng những thuốc chống trầm cảm cho đến năm 48 tuổi (với những thời kỳ gián đoạn), nhưng điều đó không thật sự giải quyết vấn đề của tôi. Thật vậy, cưới chồng lúc còn rất trẻ (21 tuổi) và là mẹ của một cháu trai sau đó (năm 22 tuổi), rồi trở thành thư ký sau khi đi học lại, tôi cho ảo tưởng sống một cuộc sống bình thường, nhưng trên thực tế, tôi không ổn định. Khí chất có thể thay đổi đến 8 lần mỗi ngày, đi từ tình trạng hưng phấn qua trạng thái buồn rầu mà không có lý do nào. Có lẽ điều này giải thích tại sao tôi khó giữ được việc làm (mặc dầu không khó kiếm một việc làm mới). Vào khoảng năm 30 tuổi, sự chuyển biến bất ngờ, tôi cảm thấy đứng bên rìa của cuộc đời tôi, điều đó trở nên không chịu được đối với tôi và do đó tôi quyết định từ bỏ tất cả : chồng tôi, cái nhà của tôi, công việc của tôi. Tôi mang đứa con trai nhỏ đi và biến mất trong một thời gian, điều mà những người thân của tôi dĩ nhiên không bao giờ hiểu. Vì không được người ta hiểu mình, khó chịu trong đầu, tôi thật sự cảm thấy bên rìa xã hội. Vào lúc đó nếu tôi cố gắng để tìm lại một việc làm và do đó một vị trí trong xã hội, đó là chỉ vì để có thể ở với đứa con trai nhỏ của tôi. Những năm trôi qua, với những sai lầm tình cảm, những thay đổi nghề nghiệp, những toan tính tự tử và những buổi phân tâm học nhưng không chữa lành căn bệnh của tôi. Sau khi đã quyết định một lần nữa thay đổi con đường nghề nghiệp để trở thành art-thérapeute, tình cờ tôi tham dự một hội nghị về những rối loạn lưỡng cực và ở đó lần đầu tiên, tôi hoàn toàn nhận biết mình trong mô tả của thầy thuốc chuyên khoa tâm thần của căn bệnh này. Do đó tôi quyết định khám vị thầy thuốc này và sau 40 năm lầm lạc, sau cùng một chẩn đoán được xác định. Những thuốc chống trầm cảm của tôi, không có hiệu quả, được thay thế bởi những thuốc đặc hiệu cho những rối loạn khí chất và sau vài lần điều chỉnh, sau cùng tôi cảm thấy hài hòa với chính tôi. Tôi gia nhập một hiệp hội những người bị những rối loạn lưỡng cực, Argos 2001, có những antenne trên toàn nước Pháp và gặp những người bệnh lưỡng cực khác như tôi. Sự cô đơn là mẫu số chung cho tất cả những chặng đường của chúng tôi. Nhưng đối với vài người, sự đi xuống địa ngục đến độ rơi vào tình trạng ăn xin, cuộc sống từ chỗ ở này đến chỗ ở khác và sự sống còn nhờ trợ cấp cho những người trưởng thành tàn tật. Trông chừng mực một điều trị hiện hữu và có hiệu quả, tôi tự bảo rằng đó là một lãng phí to lớn, rằng ta không thể để 4% loại ra khỏi xã hội những người Pháp bị rối loạn này. (LE FIGARO 1/9/2014) 3/ RỐI LOẠN LƯỠNG CỰC : ĐIỀU TA BIẾT HÔM NAY Làm sao phát hiện những rối loạn này ? Đó là dễ dàng đối với những thể ồn ào nhất, một cơn điên rồ, một sự xâm phạm tiết hạnh, một cuộc gây gổ, ăn trộm, bởi vì bệnh nhân cuối cùng vào bệnh viện. Ngoài ra, trung bình phải cần 8 năm và đi khám 4 hay 5 thầy thuốc khác nhau trước khi đến chẩn đoán đúng. Nhưng vào những giai đoạn hypomanie, những người bệnh lưỡng cực loại II cảm thấy thông minh, phản lực, hiệu năngSau đó hiếm khi họ đi khám bệnh. Những bệnh nhân dễ vị thương tổn (patients vulnérables) Một nửa những bệnh nhân lưỡng cực bị một chứng nghiện, thường nhất là rượu hay cannabis. Những bệnh nhân lưỡng cục bị những bệnh tim mạch hai đến ba lần nhiều hơn. Hy vọng sống của họ bị giảm trung bình 10 năm. 15 đến 20% những bệnh nhân không được điều trị phạm những toan tính tự tử. Những thuốc của khí chất. Chúng thuộc ba họ : lithium, những thuốc chống động kinh và những thuốc chống loạn thần không điển hình (antipsychotique), tên để chỉ những neuroleptique moderne, có ít những tác dụng phụ hơn những neuroleptique cũ. Những điều trị này rất thường gây nên một sự lên cân, đôi khi run và khô miệng, hiếm hơn bệnh đái đường, những rối loạn giáp trạng, những biến chứng gan, do đó cần một sự theo dõi. Làm sao tránh những tái phát. Tất cả những lúc thuyên giảm giữa những đợt hưng phấn và những đợt trầm cảm được các thầy thuốc điều trị tận dụng để phòng ngừa. Giáo dục tâm lý (psycho-éducation) đã phát triển nhiều trong những năm qua , BS Marc Masson, thầy thuốc tâm thần ở Garches lấy làm mừng rỡ. Ta làm các bệnh nhân trở thành chuyên gia của căn bệnh của mình, điều này cho phép họ phát hiện và tránh những tình huống có thể gây cho họ nguy hiểm, cũng như yêu cầu chúng ta nếu cần thiết. Những người thân thuộc dĩ nhiên được mời tham gia, điều này cho phép họ cảnh giác và tìm những chữ đúng cho những dấu hiệu báo động nhỏ nhất. Tâm lý giáo dục này cho phép giảm một nửa những trường hợp nhập viện. Những bệnh nhân lưỡng cực có nguy hiểm không. Vâng, Raphael, thầy thuốc tâm thần ở Toulouse đã trả lời như vậy, nhưng trước hết đối với chính họ : họ có thể có những nguy cơ trong những quan hệ tình dục, những nguy cơ tài chánh, những nguy cơ nghề nghiệp. Tất cả các chuyên gia nhắc lại rằng tỷ lệ tự tử biến thiên từ 10 đến 15% ở những bệnh nhân không được điều trị. (LE POINT 14/11/2013) 4/ RỐI LOẠN LƯỠNG CỰC : 5 DẤU HIỆU BÁO ĐỘNG 5/ NHỮNG DẠNG LƯỠNG CỰC KHÁC NHAU
(LE POINT 14/11/2013) 6/ THUỐC, TÂM LÝ LIỆU PHÁP, ĐIỆN Điều trị sẽ phải được thích ứng với mỗi bệnh nhân để mang lại sự ổn định lớn nhất. Điều trị gồm có, hầu như luôn luôn, một thuốc điều hòa khí chất (régulateur de lhumeur) như lithium với liều được điều chỉnh một cách chính xác để tránh một sự nhụt đi của những cảm xúc. Khi đó nguy cơ là bệnh nhân, vi bị chìm ngập trong một nỗi vô vị nào đó, nên luyến tiếc những đợt hưng phấn, trong đó tất cả được điểm rực rỡ những cảm giác và do đó bệnh nhân ngừng điều trị mặc dầu điều trị này cũng tránh cho bệnh nhân những đợt trầm cảm nặng và sự mong muốn tự tử , GS Jean-Pierre Kahn, trưởng khoa tâm thần và tâm lý học của CHU de Nancy đã nhắc lại như vậy. Thuốc này sẽ được dùng suốt đời. PHÁ VỠ NHỮNG CHU KỲ HÀNH VI NGHIỆN Từ nay người ta chấp nhận rằng một tâm lý liệu pháp (psychothérapie) phải được thêm vào điều trị thuốc. Trước hết mục tiêu sẽ là nhận diện những chiến lược để mang lại một tính đều đặn lớn nhất cho đời sống hàng ngày. Về điều đó, Tipars (thérapie interpersonnelle et aménagement des rythmes sociaux) là đặc biệt thích ứng. Đối với những bệnh nhân đã trải qua một thời kỳ dài không điều trị, tâm lý liệu pháp cũng sẽ thiết yếu để phá vỡ những chu kỳ hành vi nghiện (cycle de comportement addictif) và đứng vững trở lại trong một đời sống xã hội thỏa mãn. Cũng như thuốc, tâm lý liệu pháp có một tác dụng lên sự vận hành chức năng của não. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy rằng sự việc làm giảm tần số và cường độ của các triệu chứng của lưỡng cực bằng những điều trị khác nhau cho phép biến đổi cấu trúc của chính não bộ. Do đó não lấy lại một năng lực điều hòa khí chất tự nhiên và tốt hơn. Đối với vài bệnh nhân không đáp ứng với các thuốc điều hòa khí chất (thymorégulateur), có thể can thiệp trực tiếp lên não bộ bằng électroconvulsivothérapie (ECT). Điều trị bằng sốc điện này, mặc dầu có người chê bai, nhưng cho những kết quả tốt khi những chu kỳ lưỡng cực không thể kiểm soát được. Tương tự với sốc điện tim đôi khi được thực hiện để tái đồng bộ (resynchroniser) những tế bào cơ của tim, một sốc điện có thể tái đồng bộ neuromédiation trong não và cho nó một cơ hội để tìm lại một sự cân bằng nào đó , GS Thierry Bougerol, trưởng khoa tâm thần và thần kinh học của CHU de Grenoble, đã giải thích như vậy ECT là một phương pháp hữu ích đối với nhiều bệnh nhân chấp nhận những tác dụng không mong muốn như mất trí tạm thời và đánh giá tính hiệu quả của nó lên căn bệnh, khác xa những hình ảnh kinh sợ của vài phim của một thời kỳ đã qua. (LE FIGARO 29/5/2017) 7/ ĐỒNG HỒ SINH HỌC : MỘT HƯỚNG NGHIÊN CỨU PHẢI THĂM DÒ 8/ NÃO BỘ BỆNH LƯỠNG CỰC KHÁC VỚI NÃO BỘ LÀNH MẠNH ? 9/ RỐI LOẠN LƯỠNG CỰC MỘT PHẾ TẬT THƯỜNG CÓ THỂ TRÁNH ĐƯỢC 10/ KHI NÀO MỘT BỆNH TÂM THẦN CÓ THỂ THẤY ĐƯỢC VỚI CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH ? Neuro-imagerie fonctionnelle, cho phép quan sát hoạt động của não en temps réel, còn mang nhiều hy vọng hơn. Nó cho phép hiểu hơn vài triệu chứng. Loại hình ảnh này đặc biệt cho thấy những bệnh nhân tâm thần phân liệt nghe thật sự những giọng nói. Lúc bệnh nhân có ảo giác thính giác (hallucination auditive), chính đúng những vùng não bình thường hoạt động khi nghe một bài diễn văn được thắp sáng lên ! Những vùng ngôn ngữ cũng bị kích hoạt. Vậy bằng cớ là bệnh nhân sản sinh những giọng nói, và từ nay ta hiểu tại sao những giọng nói này, đối với bệnh nhân dường như đến từ bên ngoài. Những kết quả này mở ra cho những nhà nghiên cứu một triển vọng : đó là trong thời gian tới có thể đánh giá nguy cơ phát triển một rối loạn tâm thần ở những người có vài đặc điểm não bộ (SCIENCE ET VIE. CERVEAU ET MEMOIRE) BS NGUYỄN VĂN THỊNH Share this: |