Đặc điểm hình dáng của giống lợn ỉ mỡ là gì?

Gian nan phục tráng giống lợn Ỉ cổ truyền

[Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Tập quán chăn nuôi lợn Ỉ và trồng lúa nước xuất hiện ngay từ khi ra đời ở Đồng bằng Bắc Bộ, luôn gắn liền với đời sống của nông dân Việt suốt hàng ngàn năm qua. Thế nhưng giờ đây, giống lợn Ỉ đang ở giữa bờ vực của sự tuyệt chủng..

Lợn Ỉ tên nghe thật quen, khiến ta nhớ tới con vật đen trũi, mặt nhăn, lưng võng, bụng sát đất mà chẳng bao giờ bị viêm vú. Hàng ngày lợn mẹ cứ nhẩn nha đưa đàn con mình bới hết đống đất này tới bụi rậm nọ, tìm con giun con dế, rễ cây rễ cỏ, thậm chí chúi mũi vào đống rác mà chẳng bao giờ bị ngộ độc, bởi nhờ có bộ khứu giác từng được xưng tụng là “vị giác tinh”.

Những con lợn Ỉ đang được bảo tồn tại DABACO ở Bắc Ninh.

Bảo tồn khi đã… muộn

TS Võ Văn Sự, nguyên Trưởng khoa Động vật quý hiếm – Viện Chăn nuôi, người nhiều năm trăn trở “cứu” lợn Ỉ trước “họa” tuyệt chủng cho biết, lợn Ỉ mang hình thái đặc trưng:da đen bóng, mặt nhăn, mắt híp, nọng cổ và má chảy sệ, chân thấp, mõm ngắn, bụng sệ quét đất. Lợn nái thường đi chữ bát, mỗi năm chỉ đẻ 2 lứa, mỗi lứa cho 8-11 con. Lợn sơ sinh có khối lượng rất thấp, chỉ 0,4 kg/con. Nuôi 1 năm tuổi, lợn mới đạt trọng lượng 36-45 kg/con, 3 năm tuổi đạt 50 -75 kg/con. Tỷ lệ mỡ ở dòng Ỉ Mỡ lên tới 48% so với thịt xẻ; Ỉ Gộc có tỷ lệ mỡ 42%. Tuy vậy, mỡ lợn Ỉ có cấu trúc chủ yếu là acid béo không no, tương tự như dầu ăn thực vật, nên tuy thịt lợn nhiều mỡ nhưng ăn không ngán như thịt lợn ngoại, và cũng không làm tăng hàm lượng cholesteron trong máu.

“Mỡ lợn Ỉ vô cùng thơm ngon. Xưa kia, nhà quê nào rán mỡ lợn Ỉ thì chẳng thể dấu nổi, mùi mỡ thơm toả đi đầu làng cuối xóm. Dân gian hàng nghìn năm nay truyền tụng 6 sản vật đặc trưng ngày Tết “Nêu cao, tràng pháo, bánh chưng xanh/ Thịt mỡ, dưa hành, câu đói đỏ”. Mỡ lợn Ỉ là thành phần không thể thiếu được trong chiếc bánh chưng xưa. Đã hơn 30 năm, bánh chưng Việt Nam mất đi hương vị vì phải sử dụng thịt lợn lai làm nhân”, TS Võ Văn Sự than thở.

Năm 1969 điều tra số lượng vật nuôi cho thấy cả nước còn 2 triệu con lợn Ỉ, thế nhưng đến năm 1990 thì giống lợn Ỉ gần như tuyệt chủng. Lý giải nguyên nhân đẩy lợn Ỉ xuống “vực thẳm”, theo ông Sự vì giống lợn này quá chậm lớn, nuôi cả năm cũng chưa được nổi 50 kg, nên không tranh chấp nổi với các giống lợn “Tây” nuôi 4 tháng đã đạt 80 kg. Những năm 1980, khi ngành chăn nuôi nước ta hô hào phong trào “lai kinh tế”, dùng lợn Đại Bạch của Liên Xô phối giống với lợn Ỉ tạo con lai F1 cho ưu thế lai. Chương trình ngoại hoá đàn lợn thành công tới mức “tận diệt” nguồn gen nội thuần chủng. Từ năm 1985, thế giới đã bắt đầu hướng tới việc bảo tồn những giống vật nuôi truyền thống, những chủng giống vật nuôi nào mà số lượng giảm xuống dưới 1000 con thì phải được bảo tồn. Chương trình bảo tồn vật nuôi của Việt Nam được thực hiện muộn hơn, mãi tới năm 1992, nước ta mới bắt đầu công bố đa dạng sinh học, thống kê các giống vật nuôi và triển khai đề án “Bảo tồn nguồn gen vật nuôi quốc gia”. Vào thời điểm đó, các nhà khảo sát đều không tìm thấy lợn Ỉ thuần chủng. Vì vậy, trong tập bản đồ các giống vật nuôi ở Việt Nam do Bộ NN&PTNT phát hành, lợn Ỉ được xếp vào loài đã bị tuyệt chủng.

Từ đầu những năm 1990, TS Võ Văn Sự được giao nhiệm vụ tại khoa Động vật quý hiếm – Viện Chăn nuôi, chuyên bảo tồn và phát triển các giống vật nuôi quý hiếm. Thuở đó, TS Võ Văn Sự lặn lội về các miền quê để tìm  những con lợn ỉ đen sì, bụng sệ sát đất, da nhăn nheo. Một giống lợn từng có 2 triệu con, ai ngờ thật khó tìm. TS Sự đã phải bỏ ra 4 tháng trời ròng rã đi khắp các làng quê ở Đồng bằng sông Hồng. Xuống Nam Định, tối tìm nhà người dân ngủ nhờ, ngày lại lên đường lân la dò hỏi: “Các bác có biết đâu bán lợn Ỉ không?”. Cũng có một số nhà còn nuôi lợn Ỉ đấy, nhưng đều là lợn Ỉ lai, hàm lợn máu lợn Ỉ chỉ dưới 65%, những con lợn thuần chủng 100% máu Ỉ tuyệt nhiên không thấy. Nam Định không có, ông sang Thái Bình, rồi Ninh Bình. Nông dân đi làm sớm, ông cũng phải dậy từ 3-4 giờ, đi quanh làng để nghe tiếng lợn đòi ăn, chỗ nào có tiếng kêu nặng chình chịch, nhưng ngắn và gấp là ông tấp vào hỏi: “Nhà ta có lợn Ỉ gộc đấy à?”. Có những buổi chiều, nghe người ta mách “nhà ông Hát giữa làng còn một con”, ông bèn tìm đến. Nhà khóa cổng, ông ngồi ở chân đống rơm chờ. Sẩm tối, vợ chồng nhà nọ về. “Vâng, bác vào mà xem”. Hăm hở vén mành chuồng lợn. Mặc mùi phân nồng nặc, ông xán lại: Không phải! Đâu phải ai cũng biết đích xác thế nào là giống lợn Ỉ thuần chủng, cứ đen đen xâu xấu thì bảo “chắc chắn nhà đấy có”.  Song cuối cùng, chuyến đi xuyên 3 tỉnh, hơn 4 tháng trời biền biệt không về nhà đó, TS Sự cũng tìm được giống lợn ỉ pha, nhưng chỉ đạt 70% máu lợn Ỉ.

Giống lợn Ỉ đang ở giữa bờ vực của sự tuyệt chủng.

Nhọc nhằn phục tráng lợn Ỉ

Trong một chuyến khảo sát tại huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá vào năm 1995, ông Nguyễn Như Cương là giảng viên của trường ĐH Hồng Đức đã phát hiện một số con lợn Ỉ được nuôi giữ bởi những hộ nghèo nhất nhì trong vùng. TS Võ Văn Sự hào hứng về Thanh Hóa, kiểm tra phân tích cho thấy hàm lượng gen lợn Ỉ ở những con lợn này khá cao, lên đến 75-85% máu lợn Ỉ.

Từ năm 2001, đàn lợn Ỉ ở Hoằng Hoá được Viện Chăn nuôi đưa vào chương trình đề án “Bảo tồn quỹ gen vật nuôi Việt Nam”, ông Nguyễn Như Cương đại diện cho Hội Chăn nuôi thú y Thanh Hoá ký kết hợp đồng bảo tồn với Viện Chăn nuôi. Mỗi năm Nhà nước chi 50 triệu đồng cho cơ sở bảo tồn lợn Ỉ tại Thanh Hóa. Tuy nhiên, việc đề tài Phục tráng giống lợn ỉ do Viện Chăn nuôi và Thanh Hóa thực hiện không thành công, khi đàn lợn Ỉ đã phát triển lên 38 con, nhưng độ thuần chủng không nâng cao lên được, đàn lợn đối diện với nguy cơ dịch bệnh, có thể xóa sổ bất cứ lúc nào. Vì vậy, đến năm 2009, đàn lợn được đưa về Trung tâm Thực nghiệm và bảo tồn vật nuôi [thuộc Viện Chăn nuôi quốc gia] ở Thụy Phương, Hà Nội để tiếp tục công cuộc bảo tồn và phục tráng giống. Thế nhưng, đàn lợn Ỉ được nuôi dưỡng tại Viện Chăn nuôi cứ chết dần, tuy sinh sản được nhiều đàn hậu duệ, nhưng đàn con sinh ra phần lớn đều chết non. Vì vậy đến năm 2016, Bộ NN&PTNT chuyển giao những con lợn Ỉ từ Viện Chăn nuôi về cho Công ty Dabaco ở Bắc Ninh. Ngày 11/11/2016, Bộ NN&PTNT phối hợp với Bộ Khoa học & Công nghệ [KH&CN] tổ chức Lễ ký kết Chương trình phối hợp hoạt động khoa học và công nghệ giữa hai Bộ. Tại lễ ký kết này, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT  Nguyễn Xuân Cường và Bộ trưởng Bộ Khoa học và công nghệ  Chu Ngọc Anh  đã giao nhiệm vụ cho Tập đoàn DABACO Việt Nam cùng với các nhà khoa học và các cơ quan nghiên cứu của Việt Nam trong thời gian ngắn nhất phục tráng 2 giống lợn đặc sản của Việt Nam là giống lợn Móng Cái thuần và lợn Ỉ thuần sớm đưa vào sản xuất.

Trước thềm năm mới Kỷ Hợi, tôi tìm đến Trung tâm Thực nghiệm và bảo tồn vật nuôi của Viện Chăn nuôi, bà Nguyễn Thị Mười, Giám đốc Trung tâm cho biết, toàn bộ lợn Ỉ đã chuyển giao hết cho DABCO, nên tại Trung tâm không còn cá thể nào. Số lượng lợn Ỉ giao cho DABCO là 10 con lợn nái và 2 cá thể lợn đực. Với sự nỗ lực phục tráng, độ thuần chủng của đàn lợn Ỉ bảo tồn từ mức 85% máu lợn Ỉ khi nhận chuyển giao từ Thanh Hóa, đến thời điểm năm 2015, đã có những con lợn đạt đến 95-98% máu lợn Ỉ. Tuy vậy, chỉ có 2 con đạt đến độ này, và chưa có con lợn nào đạt độ thuần chủng 100% máu lợn Ỉ như mục tiêu đề ra, phần lớn số con còn lại chỉ dao động ở mức 85-95% máu lợn Ỉ. Nhưng điều đáng nói, lợn Ỉ bào tồn rất khó nuôi, tỷ lệ lợn chết lên đến 80-100% ngay trong giai đoạn trước cai sữa, nguyên nhân là do cận huyết. “Trước đây cha ông ta nuôi lợn Ỉ, đàn lợn cả nước còn đông đến mấy triệu con, thì không bị cận huyết, nên lợn Ỉ được ngợi ca là có sức chống chịu cao, ít bệnh tật so với các giống lợn ngoại. Nhưng nay bảo tồn chỉ có mấy chục con đem giao phối với nhau, dẫn đến cận huyết, sức khỏe rất kém, lợn con nào sinh ra thì chết con đó. Từ đàn lợn ngót 40 con, về sau chỉ còn hơn chục con. Chúng tôi nhiều lần về Thanh Hóa tìm mua thêm lợn đực Ỉ để làm tươi máu đàn lợn bảo tồn, nhưng không có. Người ta cũng giới thiệu trong dân có những con lợn Ỉ, nhưng là lợn dưới 60% máu Ỉ, nếu sử dụng nhân đàn thì sẽ đi ngược mục tiêu phục tráng giống”, bà Mười cho hay.  Theo bà Mười, trong đàn lợn chuyển giao cho DABACO, có 2 ổ lợn nái mới sinh con. Thế nhưng DABCO nhận về, họ nuôi cũng chết hết.  

Chúng tôi tìm đến Công ty TNHH Lợn giống hạt nhân DABACO, thành viên Tập đoàn DABACO, tại xã Lạc Vệ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nơi hiện đang bảo tồn những con lợn Ỉ cuối cùng. Ông Nguyễn Văn Hùng, cán bộ ở đây cho biết, công cuộc bảo tồn giống lợn Ỉ vẫn hầu như không có tiến triển và rất gian nan. Tuy vẫn có những đàn lợn con mới chào đời,  nhưng nuôi sống được rất được rất hãn hữu. Và càng chưa thể dự đoán được đến bao giờ mới phục tráng thành công lợn 100% máu lợn Ỉ như nhiệm vụ được Bộ NN&PTNT giao.

Bài và ảnh: Chu Minh Khôi

  • giống lợn
  • Lợn ỉ Việt Nam
  • bảo tồn giống heo

Một số giống lợn nội của Việt Nam

[Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Tất cả các giống lợn nội của Việt Nam đều thuộc lớp động vật có vú [Maminalia], bộ guốc chẵn [Artiodactyla], họ Sllidae, chủng Sus và loài Sus domesticus. Giống lợn nội của Việt Nam rất phong phú, có trên 60 giống khác nhau, chúng được phân bổ rộng khắp các vùng của đất nước và mỗi giống mang đặc trưng riêng của nó.

1. Giống lợn Móng Cái

Nguồn gốc và phân bố

Giống lợn Móng Cái [MC] là giống lợn nội phổ biến nhất của Việt Nam, có nguồn gốc từ Hà Cối và Móng Cái, Quảng Ninh. Hiện nay, lợn được phân bố rộng khắp cả nước, nuôi phổ biến ở các tỉnh miền Bắc, miền Trung và một số nơi ở Tây Nguyên.

Đặc điểm ngoại hình

Lợn MC có tầm vóc trung bình: khối lượng [KL] lúc 8 tháng tuổi đạt 65-75 kg, ngắn mình, cổ ngắn, tai nhỏ, lưng võng, bụng sệ, màu đen, trừ 6 điểm trắng [đốm trắng hình tam giác hoặc hình thoi nằm giữa trán, mõm trắng, cuối đuôi có chùm lông trắng, bụng trắng và bốn chân trắng và đặc biệt, một khoang trắng nối giữa 2 bên hông với nhau vắt qua vai trông giống như cái “Yên ngựa” là nét đặc trưng nhất về màu sắc của giống lợn MC.

Lợn nái Móng Cái

Lợn đực Móng Cái

Khả năng sản xuất

Lợn MC sinh sản tốt nhất trong lợn nội của nước ta. Lợn phát dục sớm: lợn cái lúc 5 tháng tuổi và lợn đực có biểu hiện nhảy giống lúc 2 tháng tuổi nhưng có khả năng phối chửa lúc 3-4 tháng tuổi. Số con sơ sinh sống/ổ [SCSSS] cao [11-13 con/ổ], kỷ lục đạt 28 con/ổ. Số con cai sữa [SCCS] 10-11 con/ổ. Khoảng cách giữa 2 lứa đẻ 170 ngày, đẻ 2,2 lứa/nái/năm. Khả năng làm mẹ rất tốt, có 10-16 vú. Khối lượng [KL] sơ sinh 0,5-0,6kg và cai sữa ở 7-8 tuần tuổi là 5,5-6,5kg.

Lợn MC sinh trưởng chậm: 2 tháng tuổi nặng 6 kg và 10 tháng tuổi chỉ đạt 80-85 kg. Tăng khối lượng [TKL] thấp, trung bình 330 g/ngày; tỷ lệ móc hàm thấp: 73-75%; tỷ lệ nạc 33-35%; tỷ lệ mỡ 35-38%; tiêu tốn thức ăn 4,0-4,5 kg. Rõ ràng, nuôi lợn MC để lấy thịt là không hiệu quả. Nhờ áp dụng chọn lọc, nhóm tác giả do Nguyễn Văn Đức chủ trì đã tạo được 2 nhóm lợn MC đặc trưng chất lượng cao:

* Nhóm MC15 có khả năng sản xuất tốt: TKL đạt 400g/ngày và TLN đạt 38%.

* Nhóm MC3000 có khả năng sinh sản tốt: SCSSS đạt 13 con/ổ.

Lợn MC rất dễ nuôi, có thích ứng được với hầu hết các môi trường sinh thái của Việt Nam, kể cả nơi điều kiện chăn nuôi chưa phát triển và môi trường sinh thái chưa tốt; ăn được hầu hết các loại thức ăn, kể cả loại thức ăn chất lượng thấp và tận dụng tốt nguồn thức ăn dư thừa. Sức kháng bệnh rất cao, hầu như không mắc bệnh kể cả trong điều kiện vệ sinh kém.

Hướng sử dụng

Chủ yếu được sử dụng làm nái nền, lai với đực giống ngoại cao sản LW, LR, Pi tạo ra hệ thống giống nái lai ngoại x nội tốt trong hệ thống giống lợn Việt Nam để khai thác ưu thế lai về sinh sản. Để tạo các tổ hợp lai nuôi thịt có TKL và TLN cao nên sử dụng nhóm MC15 vì TKL đạt 400g/ngày và TLN đạt 38% và để các tổ hợp nái lai đạt được năng suất sinh sản cao cần sử dụng nhóm MC3000 vì SCSSS đạt 12,75 con/ổ. Đồng thời, sử dụng nái lai để tạo các tổ hợp lai 3-4 giống nuôi thịt chất lượng thịt thơm ngon và hiệu quả kinh tế lớn.

2. Giống lợn Ỉ

Lợn Ỉ là một trong những giống lợn nội phổ biến ở nước ta trước đây, đứng thứ hai sau MC, chủ yếu nuôi ở tỉnh Nam Định, Thanh Hóa, …, nhưng chỉ tồn tại đến năm 1990 vì TKL và TLN thấp dẫn đến hiệu quả kinh tế không cao. Giống lợn Ỉ có nhiều loại hình, tên gọi khác nhau theo từng địa phương, nhưng thông dụng nhất là Ỉ mỡ và thứ 2 là Ỉ pha.

2.1. Loại hình lợn Ỉ mỡ

Lợn Ỉ mỡ còn được gọi là lợn Ỉ nhăn hoặc Ỉ bọ hung và là nguồn gốc của giống lợn I. Lông da đen bóng, lông nhỏ, thưa; đầu hơi to, mặt cong và nhăn, trán hẹp, mắt híp, nọng cổ và má chảy sệ, mõm to bè, ngắn, cong lên; vai tương đối nở, ngực sâu, thân mình ngắn hơn lợn Ỉ pha; chân thấp, chân trước thẳng, chân sau hơi bị nghiêng, lợn nái thường đi chữ bát; bụng sệ hầu như bụng luôn quét trên mặt đất. Lợn Ỉ mỡ có tầm vóc nhỏ. Khối lượng trưởng thành ở lợn cái là 48 kg và lợn đực là 50 kg.

Lợn đực Ỉ mỡ

Lợn cái Ỉ mỡ

Khả năng sản xuất

Lợn cái động dục lúc 5 tháng tuổi, phối giống lần đầu 8 tháng vì tầm vóc nhỏ con nên người ta thường phối ở lần động dục thư 3. Lợn đực có thể giao phối lúc 2 tháng tuổi. Lợn có 10 vú [8-12 vú]. SCSSS 9,5 con/ổ [3-15 con/ổ] và SCCS 7,0 con/ổ. KL sơ sinh 0,4-0,5 kg, KL cai sữa lúc 2 tháng tuổi là 4,5-5,0 kg, khoảng cách lứa đẻ là 190 ngày.
Khối lượng 10-11 tháng 50kg. Mổ thịt lúc 12 tháng [55-60kg]: tỷ lệ móc hàm 75%; tỷ lệ thịt mỡ 40%; tỷ lệ thịt nạc 28%. TKL 160-200g/ngày. Tiêu tốn thức ăn 4,8-5,8 kg.

Hướng sử dụng: Nuôi để khai thác thịt ở nơi kinh tế kém phát triển và thực phẩm đặc sản .

2.2. Loại hình lợn Ỉ pha

Loại hình lợn Ỉ pha còn được gọi là Ỉ bột pha hoặc Ỉ ống bương, được hình thành và nuôi phổ biến ở tỉnh Nam Định. Ngoại hình có một số điểm khác so với Ỉ mỡ: Lông da đen bóng, lông nhỏ thưa; đầu to vừa phải, mặt cong, nhăn ít hơn so với ỉ mỡ, trán gần phẳng, mắt híp, cổ và má chảy sệ, mõm to và dài vừa phải, lợn nái càng già mõm càng dài và cong lên, môi dưới dài hơn môi trên; vai nở vừa phải, ngực sâu, thân mình dài hơn so với loại hình I mỡ; chân thấp, chân trước thẳng, chân sau hơi nghiêng, lợn nái thường đi vòng kiềng hay chữ bát; Bụng sệ hầu như luôn quét trên mặt đất.

Khả năng sản xuất

Lợn cái động dục lúc 4-5 tháng tuổi, có thể phối giống lúc 6-7 tháng tuổi. Lợn có 10 vú. SCSSS là 9-10 con/ổ và SCCS 7-9 con/ổ. Khoảng cách lứa đẻ 189 ngày. Lợn đực có thể giao phối lúc 2 tháng tuổi, nhưng tốt nhất là 6-7 tháng tuổivà sử dụng trong 5-6 năm.

KL sơ sinh 0,4-0,5 kg/con và 10 tháng tuổi là 50kg/con. Tương tự như lợn Ỉ mỡ, giết thịt ở 11-12 tháng tuổi với tỷ lệ móc hàm 75%; tỷ lệ thịt mỡ 38%; tỷ lệ thịt nạc 30%; tích lũy mỡ sớm hơn các giống lợn khác. Tăng KL thấp: 170-210 g/ngày. Tiêu tốn thức ăn 4,8-5,8 kg.

Hướng sử dụng: Nuôi khai thác thịt ở vùng kinh tế kém phát triển và thực phẩm đặc sản.

3. Giống lợn Lang Hồng

Nguồn gốc và sự phân bố

Hình thành tại tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, được nuôi khá phổ biến ở các tỉnh vùng đồng bằng và thung lũng hạ lưu các sông Cầu, Thương, Lục Nam.

Đặc điểm ngoại hình

Nngoại hình tương tự như lọn MC: đầu to vừa phải, mõm bé và dài, tai to, úp về phía trước, cổ ngắn; lưng dài và võng; bụng to và thõng, sệ nên hai hàng vú thường quét trên mặt đất; mông rộng và thẳng, gốc đuôi to và cao; chân vừa phải; lông ngắn và thưa; da hồng, có 12 vú; màu đen, giữa trán có điểm trắng hình tam giác, giữa tai và cổ có một dải trắng cắt ngang, kéo dài đến bụng và 4 chân. Khả năng chịu đựng tốt với hầu hết các môi trường khác nhau, chống bệnh tật tốtvà chịu ăn nguồn thức ăn kém chất lượng.

Khả năng sản xuất

KL sơ sinh 0,45-0,50kg/con; KL cai sữa 5,0-5,5kg/con; Tuổi động dục lần đầu 4-5 tháng. Tuổi phối giống thích hợp 8 tháng, nhưng thường phối lúc 10 tháng. Khả năng sinh sản tốt: SCSSS và SCCS 11-13 và 9-11 con/ổ; số lứa đẻ 1,7-1,8 lứa/năm; khả năng nuôi con tốt. Lợn đực thành thục lúc 3 tháng tuổi, khai thác tinh hoặc nhảy trực tiếp lúc 7 tháng. KL lợn cái 6 tháng tuổi là 30-35kg; 10-12 tháng là 55-65kg; TKL là 300-350g/ngày. Tiêu tốn thức ăn 4,0 kg. Chất lượng thịt xẻ tương đương với lợn MC.

Hướng sử dụng: Hướng sử dụng tương tự lợn MC.

4. Giống lợn Mường Khương

Nguồn gốc và phân bố: huyện Mường Khương và Bát Sát, tỉnh Lào Cai.

Đặc điểm ngoại hình

Một trong những giống lợn nội to nhất của Việt Nam. KL trưởng thành của lợn đực và lợn cái là 150 và 132 kg. Lông thưa, mềm, màu đen hoặc nâu, có một đốm trắng ở giữa đầu, chân và cuối đuôi. Mõm dài thẳng hay hơi cong. Trán nhăn, tai to, hơi cúp về phía trước như Landrace lai với các giống lợn nội khác. Cơ thể to cao và dài nhất lợn nội của ta. Lưng không thẳng nhưng cũng không võng lắm. Bụng to nhưng không quét đất như lợn MC hoặc Lang Hồng. Mông hơi dốc. Da của giống lợn MK thường dày.

Lợn đực Mường Khương Lợn nái Mường Khương

Khả năng sản xuất

Lợn cái động dục lần đầu lúc 200-300 ngày tuổi. Tuổi đẻ lần đầu 12 tháng. SCSSS và SCCS: 6-7 và 5-6 con/ổ. KL sơ sinh cao hơn hầu hết các giống lợn nội của nước ta: 0,6 kg/con. Khả năng sinh sản kém: đẻ 1,2-1,3 lứa/nái/năm. KL lúc 11 tháng 80-85 kg. TKL 360-390g/ngày. KL giết mổ to nhưng tỷ lệ thịt nạc không thấp, màu thịt đỏ sẫm. Tiêu tốn thức ăn 6,0-7,0 kg. Tỷ lệ nạc 40%. Tỷ lệ mỡ 32%.

Hướng sử dụng: Nuôi khai thác thịt ở vùng núi, nơi kinh tế và điều kiện chăn nuôi chưa tốt.

PGS.TS. Nguyễn Văn Đức

Hội Chăn nuôi Việt Nam

  • chăn nuôi lợn
  • giống lợn
  • giống lợn Việt Nam

Video liên quan

Chủ Đề