Dũng sĩ đâm lê là ai

Quá trình diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ, có một số trận đánh giáp lá cà đã được ghi lại trong các tài liệu lịch sử [ví dụ trận giáp lá cà ở cứ điểm Him Lam đêm ngày 13/3/1954]. Tuy nhiên, trận giáp lá cà chúng tôi sắp kể dưới đây là trận đầu tiên, khiến cho quân Pháp rất khiếp sợ về một cách... chấm hết: Kiểu chết do một đường lê! Chuyện kể rằng cuối tháng 1/1954, qua những nguồn tin tình báo, thực dân Pháp lơ mơ biết rằng hình như Việt Minh đã di chuyển Bộ chỉ huy của họ tới một địa điểm nào đó gần lòng chảo Mường Thanh. Điều ấy có nghĩa nguy cơ một cuộc tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, là điều rất dễ xảy ra. Hơn nữa, cái nguy cơ ấy đang ngày càng trở thành nỗi ám ảnh nặng nề, đe doạ số phận của 16.200 sỹ quan và binh lính Pháp đồn trú ở Điện Biên.

Quả thực, Việt Minh đã đưa hầu hết các binh đoàn chủ lực mạnh tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Tiếp sau đại đoàn 308, các đại đoàn 312 và 304 lần lượt được lệnh tiến lên Điện Biên Phủ. Sau khi hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ đánh địch ở Mường Mươn, Mường Pồn, Lai Châu, đại đoàn 316 gấp rút hành quân về bao vây Điện Biên Phủ. Tới nơi, đại đoàn đóng quân từ Khe Chít đến Pú Hồng Mèo. Riêng tiểu đoàn 938 [trung đoàn 98] vượt qua đường 41 đóng tại khu vực bản Xôm chặn đường địch có thể chuyển quân sang Lào. Theo lệnh của trên, tiểu đoàn 999 và 970 [trung đoàn 176] tiếp tục thực hiện nhiệm vụ ở Thuận Châu và Thượng Lào; tiểu đoàn 888 [trung đoàn 176] ra Tuần Giáo bảo vệ ngã ba giao thông, sẵn sàng đánh quân đổ bộ đường không của địch.

Để giành quyền chủ động và để thăm dò binh lực đối phương, đại tá Đờcát [lúc ấy Đờcát chưa được phong hàm thiếu tướng] chỉ huy trưởng G.O.N.O, liên tục cho quân đánh ra các vùng phụ cận thung lũng Mường Thanh. Một trong những trận đánh có tính chất “thử phản ứng” ấy, là cuộc tiến quân vào khu vực Tà Lèng, cách trung tâm Mường Thanh chừng 5km về phía đông. Cuộc tập kích theo kiểu “vì sợ mà đánh” này do tiểu đoàn dù Lê dương số 1 [IBEP] thực hiện, vào chiều ngày 31/1/1954 [đúng ngày Sở chỉ huy của ta chuyển từ xã Nà Tấu vào xã Mường Phăng]. Tại đây, sau một hồi yểm trợ của hoả lực tầm xa, bộ binh địch đã chiếm được cao điểm 781 mang tên đồi Xanh - một quả đồi được bộ đội ta đặt tên theo cách lấy tính từ thay cho danh từ, vì màu xanh mướt của cỏ cây.

Song, vào lúc bọn địch chưa kịp củng cố trận địa vì đang mải hí hửng với “chiến thắng” ban đầu, bất ngờ các chiến sỹ của ta thuộc đại đội 295 [tiểu đoàn 255, trung đoàn 174, đại đoàn 316 - đơn vị tham gia đánh chiếm đồi A1 sau này] ào ạt phản công. Để giải vây cho đồng bọn ở cao điểm 781, trung tá Tư lệnh pháo binh Pirốt cho pháo 105 ly và súng cối 120 ly, bắn dồn dập vào đội hình của ta. Tiếp theo, một đại đội địch vòng theo sườn phía nam, dựa vào địa hình địa vật thận trọng tiến lên đỉnh đồi. Lúc này, một thế trận “thiên la địa võng” đã đợi sẵn chúng ở đây. Dưới sự chỉ huy của tiểu đội trưởng Đinh Văn Niết, 12 tay súng tiểu liên và súng trường của ta dũng mãnh đánh thẳng vào mũi đi đầu của địch. Lợi dụng có giao thông hào sâu, quân địch chống cự quyết liệt bằng súng máy và tiểu liên. Trận đánh mỗi lúc một dữ dội, mặc dù bị nhiều thương vong nhưng thấy quân ta ít, bọn giặc chia thành thế gọng kìm bao vây trận địa của ta.

Trong tình thế nguy ngập, một chiến sỹ tên là Hoàng Văn Nô bỗng nhảy lên khỏi giao thông hào, dùng lưỡi lê đâm chết một tên Lê dương to cao gấp rưỡi mình. Noi gương Hoàng Văn Nô, cả tiểu đội cùng xông lên đánh giáp lá cà với địch. Dưới ánh trời chiều, những đường lê sáng loáng vẽ vòng giữa không gian rồi thoắt cắm phập vào những bộ ngực đỏ au, lông lá xồm xoàm. Mặt trận lúc này không có tiếng súng, mà chỉ có những tiếng chửi thề xì xồ, tiếng kêu khóc hỗn loạn. Không chịu nổi lối đánh táo tợn một mất một còn của đối phương, bọn giặc hoảng hốt hò nhau tháo lui. Theo lệnh của tiểu đội trưởng Đinh Văn Niết, toàn tiểu đội xiết chặt đội ngũ, truy kích địch đến cùng. Tới cuối đường đồi, lần thứ 5 Hoàng Văn Nô vung lê và cũng là lúc tên lê dương thứ 5 gục xuống. Hoàng Văn Nô đuổi tiếp, nhưng thật không may là một tên giặc vừa chạy vừa ngoái lại, bắn trọn một băng tiểu liên vào anh...

Hoàng Văn Nô là người con dân tộc Tày, quê quán xã Ngọc Khê, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Anh ngã xuống vào lúc tròn 20 tuổi đời, khi chỉ còn 1 tháng 13 ngày nữa là trận Điện Biên Phủ khai hoả. Chính ý chí tấn công giặc đến cùng và tinh thần hy sinh anh dũng của Hoàng Văn Nô, là tấm gương cổ vũ chiến sỹ ta xông lên, quyết tâm giải phóng Điện Biên. Tổng kết chiến dịch, Hoàng Văn Nô được Bộ chỉ huy chiến dịch truy tặng danh hiệu “Dũng sỹ đâm lê”. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp nói chung và 56 ngày đêm của chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng, Hoàng Văn Nô là người duy nhất được nhận danh hiệu kể trên. Tròn nửa thế kỷ sau ngày mất, ngày 26/04/2004, liệt sỹ Hoàng Văn Nô được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký quyết định truy tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”.

Ngày 16/4/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 17/2009/NĐ-CP, về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã, phường để thành lập xã thuộc thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên. Theo đó, thành lập xã Tà Lèng thuộc thành phố Điện Biên Phủ, trên cơ sở điều chỉnh 1.536,29ha diện tích tự nhiên và 2.500 nhân khẩu của phường Noong Bua. Xã Tà Lèng có 1.536,29ha diện tích tự nhiên và 2.500 nhân khẩu. Địa giới hành chính xã Tà Lèng: Đông giáp xã Pú Nhi, huyện Điện Biên Đông và xã Mường Phăng, huyện Điện Biên; Tây giáp các phường Noong Bua, phường Him Lam, thành phố Điện Biên Phủ; Nam giáp phường Nam Thanh, thành phố Điện Biên Phủ và xã Pú Nhi, huyện Điện Biên Đông; Bắc giáp phường Him Lam và xã Thanh Minh, thành phố Điện Biên Phủ. Như vậy, xã Tà Lèng là đơn vị hành chính thứ 9 của thành phố Điện Biên Phủ.

Được biết Trường tiểu học Hoàng Văn Nô thành lập tháng 7/2001, tiền thân là trường tiểu học Tà Lèng [thuộc phường Noong Bua, thành phố Điện Biên Phủ]. Ngay từ những ngày đầu thành lập, dưới sự lãnh đạo của Phòng Giáo dục - Đào tạo thành phố, nhà trường ổn định tổ chức, kiện toàn các đoàn thể, các bộ phận chuyên môn để sớm đi vào hoạt động. Ngoài ra, trường luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức, đoàn thể thành phố, các nhà hảo tâm, đơn vị kết nghĩa gần xa. Mặc dù còn bộn bề khó khăn và khó khăn ở nhiều mặt, song tập thể cán bộ, giáo viên và học sinh nhà trường đã và luôn cố gắng với tinh thần cao nhất, để ngôi trường ngày càng xứng đáng với cái tên của người anh hùng cảm tử Hoàng Văn Nô!

Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy 5 châu của đất nước ta, chiến thắng đó thấm đẫm máu đào của các anh. Phía sau ánh hào quang của chiến thắng là hàng nghìn người con đã nằm xuống nơi đất mẹ để giành lấy sự tự do cho đất nước, cho dân tộc, cho thế hệ sau. Chúng ta thuộc thế hệ sau, được sống trong hòa bình, không bom đạn là nhờ sự hy sinh của các anh. Những người anh hùng dân tộc có người biết mặt biết tên, nhưng cũng có nhiều người đến cả cái tên cũng không biết... đã có những hình ảnh trở thành bất tử đi vào tâm trí, trái tim người Việt như một huyền thoại.

Sinh năm 1932 ở xã Ngọc Khê, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng; nhập ngũ năm 1952. Ngày 31/01/1954, đại đội 925 nhận nhiệm vụ đánh chặn cuộc hành binh của Tiểu đoàn dù số I [IBEP] ở khu vực Đồi xanh cao điểm 781 phía Đông Điện Biên Phủ.

Trước khi mở màn chiến dịch, một đại đội địch tiến lên định vượt Đồi xanh.Tiểu đội của Đinh Văn Niết nổ súng đánh chặn. Địch tạm lui, rồi sau đó chúng dùng pháo binh bắn dồn dập vào quả đồi rồi cử một cánh quân khác men theo sườn đồi với mục đích tập kích vào tiểu đội của Niết. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt kéo dài cả ngày trời. Bộ đội ta theo sự chỉ huy của tiểu đội trưởng, chia ra làm 2 tổ, một tổ kiềm chế địch, một tổ 3 người xông lên đánh địch.

Ta địch bắn trả quyết liệt, Tiểu đội trưởng Đinh Văn Niết và nhiều anh em khác bị trúng đạn ngã xuống, quá đau xót và căm giận, Hoàng Văn Nô giương lê lên, nhanh như tia chớp, anh xông tới đâm thẳng lưỡi lê vào ngực tên Lê Dương, rồi liên tiếp đâm chết tên thứ 2, tên thứ 3, tên thứ 4 bị anh đâm sâu lún đến tận nòng súng, phải đạp mạnh vào đầu tên địch anh mới rút lưỡi lê ra được. Đang tiếp tục xông lên diệt tên thứ 5 thì anh bị địch xả đạn vào người. Hoàng Văn Nô hy sinh trong tư thế lẫm liệt của người chiến sĩ dũng mãnh, anh hùng.


Anh hùng Hoàng Văn Nô dũng sĩ đâm lê


Anh hùng Hoàng Văn Nô dũng sĩ đâm lê

Trần Can sinh năm 1931 ở xã Sơn Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Mở đầu cho chiến dịch Điện biên Phủ là trận đánh đồi Him Lam, anh được giao nhiệm vụ cắm lá cờ tổ quốc do Hồ Chủ Tịch gia cho quân ta, cắm trên đồn địch. Tiếng súng khai mở chiến dịch bắn ra, mặc kệ cho dù hỏa lực quân pháp bắn ra dữ dội như thế nào, anh vẫn dẫn đầu tiểu đội vượt qua lô cốt tiền duyên, xông thẳng vào sở chỉ huy, anh như một mũi tên lao vun vút bắn thẳng vào tim địch. Rồi nhảy lên lô cốt cắm lá cờ quyết chiến quyết thắng, anh chỉ huy tiểu đội tiêu diệt những tên lính Pháp còn lại trong hầm, bắt sống 25 tên, tịch thu nhiều loại vũ khí.

Trong trận điểm cao 507, Trần Can dẫn đầu đồng đội áp đảo quân Pháp chiếm trọn mỏm cờ, địch đánh trả dữ dội hòng chiếm lại. Ta và địch giành giật nhau từng tấc đất quyết không để mất. Cả 4 đợt phản kích của địch đều bị anh cùng đồng đội chống trả quyết liệt, giữ vững thế trận. Địch mở đợt tấn công thứ 5, chúng ném lựu đạn tới tấp trước khi lao lên, anh cầm lựu đạn ném trả lại và chỉ huy anh em nhảy lên nhảy lên hào đánh giáp lá cà, cán bộ đại đội bị thương vong, Trần Can cũng mang vết thương trên mình nhưng anh quyết tâm chỉ huy bộ đội chiến đấu suốt đêm.

Sáng sớm hôm sau anh tập trung những người bị thương nhẹ lại, động viên anh em, chấn chỉnh quân ngũ, củng cố trận địa. Quân địch tấn công dữ dội, mong chiếm lại cửa ngõ tiến vào mường thanh, Trần Can cùng các anh em đánh tan mọi đợi tiến công của địch, một lòng giữ vững trận địa, tạo lợi thế cho quân ta tiến vào trung tâm Mường Thanh. Vào sáng ngày kết thúc chiến dịch tức ngày 7/5/1954 anh đã hy sinh anh dũng.


Anh hùng Trần Can hiên ngang dẫn đầu tiểu đội cắm cờ lên lô cốt Him Lam


Anh hùng Trần Can hiên ngang dẫn đầu tiểu đội cắm cờ lên lô cốt Him Lam

Bế Văn Đàn sinh năm 1931 ở xã Triệu Ẩu, huyện Phục Hòa, Tỉnh Cao bằng. Năm 1948 giữa lúc cuộc chiến tranh ở Đông Dương đang diễn ra quyết liệt anh xung phong vào bộ đội. Đảng Cộng Sản quyết định mở chiến dịch Đông Xuân 1953-1954. Anh được phân công làm liên lạc tiểu đoàn.

Một đại đội của tiểu đoàn được giao nhiệm vụ bao vây giữ chân địch ở Mường Bồn. Pháp thấy lực lượng của quân Việt Minh ít, đã tập trung hai đại đội có phi pháo yểm trợ liên tiếp phản kích phá vây, nhưng cả hai lần đều thất bại. Cuộc chiến càng lúc càng căng thẳng, khốc liệt, quân Pháp liều chết lao lên, quân ta tử thủ ngăn chặn bước tiến của chúng.

Lúc đó đại đội được lệnh bằng bất cứ mọi giá phải kìm chân địch lại ở Mường Pồn, để các đơn vị khác triển khai lực lượng, thực hiện các chủ trương của chiến dịch. Mặc dù vừa mới đi công tác về nhưng khi chỉ huy thông báo Bế Văn Đàn lập tức xung phong đi làm nhiệm vụ, anh băng qua mưa bom, bão đạn để truyền lệnh cho các đồng đội kịp thời chính xác. Trận chiến diễn ra ác liệt hơn bao giờ hết, anh liền ở lại đại đội kề vai sát cánh chống địch cùng các anh em.

Cuộc phản kích của quân Pháp nổ ra lần thứ 3. Đại đội quân ta chỉ còn vỏn vẹn 17 chiến sĩ, bản thân anh cũng đang bị thương nhưng vẫn tiếp tục cùng đồng đội chiến đấu tới cùng. Có một khẩu trung liên của đại đội không bắn được vị xa thủ hi sinh, khẩu còn lại của Chu Văn Pù cũng chẳng thể bắn vì không có chỗ đặt súng, tình hình cấp bách, anh liền chạy lại, không chút ngần ngại cầm 2 chân khẩu súng đặt lên vai mình và hô đồng đội bắn, thấy Pù còn do dự chưa bắn, anh nói "kẻ thù trước mắt, đồng chí có thương tôi thì bắn chết chúng nó đi" trong lúc lấy thân làm giá súng anh còn bị thêm 2 vết thương nữa và hy sinh, nhưng 2 tay anh vẫn ghì chặt chân súng trên đôi vai của mình.


Anh hùng Bế Văn Đàn lấy vai làm giá súng


Anh hùng Bế Văn Đàn lấy vai làm giá súng

Phan Đình Giót sinh năm 1922 ở xóm Tam Quang, thôn Vĩnh Yên, xã Cẩm Thủy, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Mùa đông năm 1953 đơn vị anh được lệnh tham gia vào chiến dịch Điện Biên Phủ.

Chiều ngày 13/3/1954 phát súng đầu tiên nổ ra tín hiệu tiêu diệt cứ điểm Him lam của pháp, cả trận địa rung chuyển, khói bụi mù mịt sau hàng loạt pháo của ta cũng như loạt đạn của địch bắn ra. Các chiến sĩ đại đội 58 tiên phong mở đường, đã liên tiếp đánh phá được tám quả bộc, đến quả thứ chín Phan Đình Giót bị thương ở đùi, nhưng bỏ mặc vết thương anh tiếp tục cùng đồng tiếp đánh tiếp những quả sau. Quân Pháp tập trung hỏa lực bắn về phía quân ta như mưa đồng chí, đồng đội người bị thương, người hi sinh.

Ánh mắt căm thù, lửa hận bốc cao anh dũng cảm lao lên đánh phá liên tiếp hai quả tiếp theo, mở toang chốt chặn giúp đồng đội tiến bước đánh sập lô cốt đầu cầu. Nhân lúc địch hoang mang, lo sợ, anh lao lên bám chắc ở lô cốt số 2, bắn kiềm chế để những đồng đội xông lên. Lúc này anh bị thương rất nặng, máu không ngừng chảy. Nhân lúc thế quân ta tiến công thì bị ùn lại bởi hỏa lực ở lô cốt số 3 của định bất bờ bắn rất rát về phía quân ta. Anh cố gắng nhích dần người lên lô cốt số 3 chỉ với một ý chí, quyết tâm bằng mọi giá phải vô hiệu hóa hoàn toàn được lô cốt này. Anh dồn hết chút sức còn lại nâng khẩu tiểu liên nã đạn vào lỗ châu mai và hô lớn "quyết hi sinh vì Đảng, vì dân" rồi lấy đà, dùng cả tấm thân người trần mắt thịt của anh bịt kín lỗ châu mai. Hỏa điểm lợi hại nhất của địch đã bị anh dập tắt, toàn bộ đơn vị lao lên như vũ bão tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam mở đầu chiến thắng đầu tiên trong chiến dịch.


Anh hùng Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai


Anh hùng Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai

Tô Vĩnh Diện sinh năm 1924, tại xã Nông Trường, huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa. Anh nhập ngũ vào tháng 7 năm 1949.

Tháng 5/1953 đơn vị pháo cao xạ được thành lập để chuẩn bị cho trận đánh lịch sử, anh được điều về làm tiểu đội trưởng của một đơn vị pháo cao xạ.

Đường kéo pháo hơn 1.000 km mới đến được nơi tập kết. Anh luôn hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm. Luôn luôn động viên, giúp đỡ đồng đội kéo pháo tới vị trí an toàn tránh bị địch phát hiện từ trên không. Trong suốt quá trình kéo pháo anh luôn là người chu đáo tự mình kiểm tra dây kéo, xem xét từng đoạn dốc, đoạn đường nguy hiểm, rồi phổ biến cho anh em những trường hợp bất ngờ xảy ra để có cách giải quyết tốt nhất.

Qua 5 đêm kéo pháo ra tới dốc chuối, con dốc này đường cong, hẹp gập ghềnh hiểm trở, vô cùng nguy hiểm. Anh cùng đồng chí Lê Văn Chi xung phong lái pháo, đến lưng chừng dốc đột nhiên dây tời bị đứt, pháo lao nhanh xuống con dốc anh vẫn bình tĩnh giữa chắc càng lái cho pháo thẳng đường, một trong 4 dây kéo bị đứt, lúc này pháo càng lao xuống dốc nhanh hơn, đồng chí Chi bị hất văng ra, trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn đó anh hô hào anh em "thà hy sinh quyết bảo vệ pháo", không một chút ngần ngại, do dự nào anh buông tay lái, xông thẳng lên trước, dùng thân mình chèn bánh pháo, nhờ có anh mà các anh em trong đội ghìm giữ pháo thành công. Anh hy sinh vô cùng anh dũng là nguồn sức mạnh tinh thần vô cùng to lớn, giúp toàn đội tiến lên phía trước hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị cho trận chiến.


Anh hùng Tô Vĩnh Diện dùng thân chèn pháo


Anh hùng Tô Vĩnh Diện dùng thân chèn pháo

Video liên quan

Chủ Đề