Giai thích vì sao Đảng Quốc xã lên cầm quyền ở Đức

Nguyên nhân dẫn đến Đảng Quốc xã lên cầm quyền ở Đức là:

A. giai cấp tư sản cầm quyền ở Đức bất lực đối với cuộc khủng hoảng kinh tế 1929- 1923.

B. giai cấp tư sản ủng hộ Hít-le.

C. Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội dân chủ thiếu kiên quyết chống chủ nghĩa phát xít.

D. Đảng Quốc xã có lực lượng mạnh, đứng đầu là Hít-le.

Đáp án chính xác

Xem lời giải

Nước Đức trong những năm 1929-1939

II. Nước Đức trong những năm 1929-1939

1. Khủng hoảng kinh tế và quá trình Đảng Quốc xã lên cầm quyền

-Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cuối năm 1929 đã giáng đòn nặng nề làm kinh tế - chính trị - xã hội, Đức khủng hoảng trầm trọng.

+ Năm 1932, sản xuất công nghiệp giảm 47% so với trước khủng hoảng.

+ Hàng nghìn nhà máy, xí nghiệp phải đóng cửa.

+ Số người thất nghiệp: hơn 5 triệu người.

+ Giai cấp tư sản cầm quyền không đủ sức mạnh để duy trì chế độ công hòa tư sản, đưa đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng đó.

-Để đối phó lại khủng hoảng, giai cấp tư sản cầm quyền quyết định đưa Hít- le thủ lĩnh Đảng Quốc xã Đức lên nắm chính quyền.

-Đứng đầuĐảng Quốc xã là Hít - le đã:

+ Công khai tuyên truyền tư tưởng phục thù cho nước Đức.

+ Công khai chống công sản và phânbiệtchủng tộc.

+Phát xít hoá bộ máy nhà nước.

+Thiết lập nền chuyên chính độc tài do Hit - le làm thủ lĩnh tối cao và tuyệt đối.

-Đảng Cộng sản Đức kiên quyết đấu tranh song không ngăn cản được quá trình ấy.

-Ngày 30/1/1933, Hít-le lên làm Thủ tướng=> Chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức, mở ra thời kì đen tối của Lịch sử nước Đức.

Tổng thống Hin-đen-bua trao quyền thủ tướng cho Hít-le[30/1/1933]

2. Nước Đức trong những năm 1933 - 1939

Trong thời kỳ cầm quyền [1933 - 1939] Hít - le đã thực hiện các chính sách tối phản động về chính trị, xã hội, đối ngoại.

*Chính trị

- Công khai khủng bố của Đảng phái dân chủ tiến bộ, vu cáo những người cộng sản đốt cháy nhà Quốc hội, đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật.

- Thủ tiêu nền cộng hòa Viama, thiết lập nền chuyên chính độc tài do Hit-le làm thủ lĩnh tối cao và tuyệt đối.

- Năm 1934, Tổng thống Hin-đen-bua qua đời. Hít-le tuyên bố hủy bỏ hoàn toàn nền cộng hòa Vaima, thayvào đó là nền “Chuyên chế độc tài khủng bố công khai”mà Hít-le là thủ lĩnh tối cao và xưng là quốc trưởng suốt đời.

Hít-le và quân đội phát xít Đức

* Kinh tế

- Tổ chức nền kinh tế theo hướng tập trung mệnh lệnh, phục vụ nhu cầu quân sự.

- Thành lập Tổng hội đồng kinh tế[7/1933], phục hồi công nghiệp, nhất là công nghiệp quân sự, giao thông vận tải, giải quyết thất nghiệp…

=> Nền kinh tế Đức đã thoát khỏi khủng hoảng.Năm 1938, tổng sản lượng công nghiệp của Đức tăng 28% so với giai đoạn trước khủng hoảng và vượt qua một số nước tư bản châu Âu.

*Đối ngoại:tăng cường các hoạt độngchuẩn bị chiến tranh

- Nước Đức tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên để được tự do hành động.

- Ra lệnh tổng động viên quân dịch [1935], xây dựng nước Đức trở thành một trại lính khổng lồ.

- Ký với Nhật Bản“Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản”hình thành khối phát xít Đức - Italia - Nhật. Bản.
=> Mục tiêu:Nhằm tiến tới phát động cuộc chiến tranh để phân chia lại thế giới.

ND chính

- Cuộc khủng hoảng kinh tế và quá trình Đảng Quốc xã lên cầm quyền ở Đức.

- Tình hình nước Đức trong những năm 1933 - 1939.

Sơ đồ tư duyNước Đức trong những năm 1929-1939

Loigiaihay.com

  • Tình hình nước Đức trong những năm 1918-1923 có những điểm nào nổi bật ?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 65 SGK Lịch sử 11

  • Hình 32 [SGK Lịch sử trang 64] nói lên điều gì?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 65 SGK Lịch sử 11

  • Tình hình nước Đức trong những năm 1924-1929 như thế nào?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 3 trang 65 SGK Lịch sử 11

  • Vì sao chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 66 SGK Lịch sử 11

  • Qua bảng thống kê trang 67, hãy nhận xét về tình hình kinh tế Đức so với một số nước châu Âu

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 68 SGK Lịch sử 11

  • Tại sao thực dân Pháp chọn Đà Nẵng làm mục tiêu tấn công đầu tiên ?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 109 SGK Lịch sử 11

  • Tại sao khởi nghĩa Hương Khê được coi là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất của phong trào Cần Vương ?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 133 SGK Lịch sử 11

  • Những nguyên nhân nào khiến cho cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của quân dân ta từ năm 1858 đến năm 1884 thất bại ?

    Giải bài tập 2 trang 123 SGK Lịch sử 11

  • Nêu tình hình Việt Nam giữa thế kỉ XIX, trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp.

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 107 SGK Lịch sử 11

Vì sao chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức?

Đề bài

Vì sao Chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức?

Phương pháp giải - Xem chi tiết

dựa vào sgk Lịch sử 11 trang 66, suy luận để trả lời.

Lời giải chi tiết

Chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức vì:

- Sự bất lực của Chính phủ Đức trước những khó khăn của cuộc khủng hoảng kinh tế.

- Ảnh hưởng của Đảng Quốc xã và Hít-le đối với giới đại tư bản Đức càng ngày càng tăng.

- Đảng Xã hội dân chủ Đức từ chối đề nghị hợp tác với những người cộng sản để thành lập Mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa phát xít.

- Nước Đức có đặc trưng là quân phiệt, hiếu chiến. Trong lịch sử, nước Đức được thống nhất bằng cuộc cách mạng “sắt và máu”.

Loigiaihay.com

  • Qua bảng thống kê trang 67, hãy nhận xét về tình hình kinh tế Đức so với một số nước châu Âu

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 68 SGK Lịch sử 11

  • Trình bày ngắn gọn các giai đoạn phát triển của nước Đức giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.

    Giải bài tập 1 trang 68 SGK Lịch sử 11

  • Trong những năm 1933-1939, Chính phủ Hít-le đã thực hiện chính sách kinh tế, chính trị và đối ngoại như thế nào ?

    Giải bài tập 2 trang 68 SGK Lịch sử 11

  • Tình hình nước Đức trong những năm 1924-1929 như thế nào?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 3 trang 65 SGK Lịch sử 11

  • Hình 32 [SGK Lịch sử trang 64] nói lên điều gì?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 65 SGK Lịch sử 11

  • Tại sao thực dân Pháp chọn Đà Nẵng làm mục tiêu tấn công đầu tiên ?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 109 SGK Lịch sử 11

  • Tại sao khởi nghĩa Hương Khê được coi là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất của phong trào Cần Vương ?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 133 SGK Lịch sử 11

  • Những nguyên nhân nào khiến cho cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của quân dân ta từ năm 1858 đến năm 1884 thất bại ?

    Giải bài tập 2 trang 123 SGK Lịch sử 11

  • Nêu tình hình Việt Nam giữa thế kỉ XIX, trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp.

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 107 SGK Lịch sử 11

Mục lục

  • 1 Tên gọi
  • 2 Lịch sử
    • 2.1 Bối cảnh
    • 2.2 Quốc xã lên nắm quyền lực
    • 2.3 Chính sách ngoại giao quân phiệt
    • 2.4 Áo và Tiệp Khắc
    • 2.5 Ba Lan
    • 2.6 Thế chiến thứ hai
      • 2.6.1 Chính sách ngoại giao
      • 2.6.2 Chiến tranh bùng nổ
      • 2.6.3 Chinh phạt châu Âu
      • 2.6.4 Bước ngoặt và sụp đổ
      • 2.6.5 Tổn thất nhân mạng của Đức
  • 3 Địa lý
    • 3.1 Sự thay đổi về lãnh thổ
    • 3.2 Những vùng lãnh thổ chiếm đóng
    • 3.3 Sự thay đổi sau chiến tranh
  • 4 Chính trị
    • 4.1 Ý thức hệ
    • 4.2 Chính quyền
    • 4.3 Luật pháp
    • 4.4 Lực lượng quân sự và bán quân sự
      • 4.4.1 Wehrmacht
      • 4.4.2 SA và SS
  • 5 Kinh tế
    • 5.1 Nền kinh tế Đế chế
    • 5.2 Kinh tế thời chiến và lao động khổ sai
  • 6 Chính sách chủng tộc
    • 6.1 Khủng bố người Do Thái
    • 6.2 Người Di-gan và các nhóm đối tượng khác
    • 6.3 Cuộc tàn sát chủng tộc
    • 6.4 Đàn áp sắc tộc Ba Lan
    • 6.5 Ngược đãi tù binh chiến tranh Liên Xô
  • 7 Xã hội
    • 7.1 Giáo dục
    • 7.2 Áp bức giáo hội
    • 7.3 Y tế
    • 7.4 Vai trò của phụ nữ và gia đình
    • 7.5 Môi trường
    • 7.6 Phản kháng chế độ
  • 8 Văn hóa
    • 8.1 Kiểm duyệt
    • 8.2 Kiến trúc và nghệ thuật
    • 8.3 Điện ảnh
  • 9 Di sản
  • 10 Xem thêm
  • 11 Ghi chú
  • 12 Tham khảo
    • 12.1 Chú thích
    • 12.2 Thư mục
    • 12.3 Tài liệu lịch sử
  • 13 Đọc thêm
  • 14 Liên kết ngoài

Tên gọiSửa đổi

Quốc gia này có tên gọi chính thức là Deutsches Reich [Đế chế Đức] từ 1933 đến 1943, và Großdeutsches Reich [Đế chế Đại Đức] từ 1943 đến 1945. Cái tên Deutsches Reich thường được dịch là "Đế chế Đức", hoặc cũng có thể là "Đế quốc Đức".[4] Người Đức hiện nay đề cập đến giai đoạn lịch sử này như là Zeit des Nationalsozialismus [thời kỳ Quốc gia Xã hội chủ nghĩa], Nationalsozialistische Gewaltherrschaft [nền chuyên chế Quốc gia Xã hội chủ nghĩa], hay đơn giản là das Dritte Reich [Đế chế Thứ ba].

Trong tiếng Việt, thuật ngữ thường được sử dụng để chỉ nước Đức trong thời kỳ 1933 – 1945 là "Đức Quốc Xã" hay "Phát xít Đức". Tên gọi được cơ quan tuyên truyền của Đức chấp nhận, "Third Reich" [Đế chế Thứ ba], lần đầu được sử dụng trong một cuốn sách năm 1923 của Arthur Moeller van den Bruck. Quyển sách này tính Đế quốc La Mã Thần thánh [962 – 1806] là Đế chế Thứ nhất và Đế quốc Đức [1871 – 1918] là Đế chế Thứ hai.[5] Những người Quốc xã lấy đó để hợp pháp hóa chế độ của họ như một nhà nước kế tục. Sau khi Quốc xã lên nắm quyền, bộ máy tuyên truyền của họ đã đề cập đến thời kỳ Cộng hòa Weimar trước đó như là Zwischenreich ["Đế chế Tạm thời"].

Từ những năm 1980, các nhà phê bình ngôn ngữ của Đức đã đặt câu hỏi về việc chấp nhận không phê phán thuật ngữ "Third Reich". Vào năm 1984, nhà luật học người Đức Walter Mallman viết: trong "lịch sử về khái niệm tư tưởng chính trị, hiến pháp, và luật pháp", thuật ngữ này là "không thể bảo vệ".[6] Đến năm 1989, Dieter Gunst lưu ý thêm rằng nhắc đến chế độ Hitler với tên gọi Đế chế Thứ ba là không chỉ "đánh giá lại một cách tích cực Chủ nghĩa Quốc xã" mà còn bóp méo lịch sử, bổ sung thêm Hitler đã không thành lập ra một nhà nước hay bất kỳ "Đế chế riêng biệt" nào cả.[7]

Lịch sửSửa đổi

Xem thêm: Lịch sử Đức

Bối cảnhSửa đổi

Xem thêm thông tin: Adolf Hitler lên nắm quyền

Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, nền kinh tế Đức đã phải hứng chịu những khủng hoảng nghiêm trọng, một phần là vì khoản bồi thường thiệt hại chiến tranh quy định trong Hòa ước Versailles năm 1919. Chính phủ đã in tiền để trả nợ cho đất nước; hậu quả dẫn tới siêu lạm phát khiến giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng cao, nền kinh tế rơi vào tình trạng hỗn loạn, và các cuộc bạo động liên quan đến vấn đề lương thực diễn ra.[8] Đến tháng 1 năm 1923, khi mà chính quyền thất bại trong việc bồi thường khoản tiền, quân đội Pháp đã chiếm đóng các khu công nghiệp của Đức dọc vùng Ruhr. Theo sau đó là tình trạng bất ổn dân sự lan rộng.[9]

Cùng thời điểm, Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa [NSDAP;[c] hay Đảng Quốc xã] đã trở thành đảng kế tục–thay tên của Đảng Công nhân Đức thành lập hồi năm 1919, một trong số những đảng chính trị cực hữu hoạt động ở Đức vào thời điểm đó.[10] Chính sách của đảng này bao gồm xóa bỏ Cộng hòa Weimar, bác bỏ những điều khoản của Hòa ước Versailles, bài Do Thái triệt để, và chống lại chủ nghĩa Bolsevik.[11] Họ hứa hẹn về một chính quyền trung ương mạnh mẽ, làm tăng thêm Lebensraum [không gian sống] cho dân tộc Đức, thành lập một cộng đồng quốc gia căn cứ vào chủng tộc, và thanh lọc chủng tộc thông qua hoạt động đàn áp người Do Thái – đối tượng sẽ bị tước bỏ quốc tịch và các quyền công dân.[12] Những người Quốc xã đề xuất khôi phục, đổi mới quốc gia và văn hóa dựa trên phong trào Völkisch.[13]

Sự kiện thị trường chứng khoán ở Mỹ sụp đổ vào ngày 24 tháng 10 năm 1929 có tác động hết sức tàn khốc đối với nước Đức. Hàng triệu người bỗng rơi vào cảnh thất nghiệp và hàng loạt ngân hàng lớn phải đóng cửa. Hitler và đảng Quốc xã đã sẵn sàng lợi dụng cuộc khủng hoảng để giành lấy sự ủng hộ về phía mình. Họ hứa sẽ tăng cường sức mạnh cho nền kinh tế và tạo ra việc làm cho người dân.[14] Nhiều cử tri đã lựa chọn đảng Quốc xã với niềm tin rằng họ có khả năng tái lập trật tự, dẹp yên tình trạng bất ổn dân sự, và nâng cao uy tín của Đức trên trường quốc tế. Sau cuộc bầu cử liên bang năm 1932, Quốc xã trở thành đảng chính trị lớn nhất trong Reichstag [Nghị viện], nắm giữ 230 ghế với 43,9% tổng số phiếu phổ thông.[15]

Quốc xã lên nắm quyền lựcSửa đổi

Mặc dù những người Quốc xã có được số phiếu phổ thông cao nhất trong hai cuộc tổng tuyển cử Nghị viện năm 1932, họ không thể trở thành phe đa số, bởi vậy Hitler đã dẫn đầu một chính quyền liên minh tồn tại ngắn ngủi thành lập bởi đảng Quốc xã và Đảng Nhân dân Quốc gia Đức.[16] Dưới áp lực từ các chính trị gia, các nhà tư bản công nghiệp, và cộng đồng doanh nghiệp, Tổng thống Paul von Hindenburg đã bổ nhiệm Hitler làm Thủ tướng Đức vào ngày 30 tháng 1 năm 1933. Sự kiện này được biết đến như Machtergreifung [Quốc xã chiếm quyền lực].[17] Trong những tháng tiếp theo, đảng Quốc xã đã vận dụng một phương pháp gọi là Gleichschaltung [chỉnh đốn, đồng bộ hóa, sắp đặt] để nhanh chóng kiểm soát mọi mặt của đời sống.[18] Mọi tổ chức dân sự, bao gồm các nhóm nông nghiệp, các tổ chức tình nguyện, câu lạc bộ thể thao, đều được thay thế lãnh đạo bằng những đảng viên hoặc người thân Quốc xã. Đến tháng 6 năm 1933, gần như chỉ còn quân đội và các giáo hội là không nằm dưới sự kiểm soát của đảng Quốc xã.[19]

Hitler trở thành người đứng đầu nước Đức vào năm 1934 với danh nghĩa Führer und Reichskanzler [Lãnh tụ và Thủ tướng Đế chế].

Vào đêm ngày 27 tháng 2 năm 1933, tòa nhà Nghị viện [Reichstag] bốc cháy. Marinus van der Lubbe, một đảng viên cộng sản người Hà Lan, bị cáo buộc là thủ phạm châm lửa. Hitler tuyên bố sự việc này đánh dấu điểm khởi đầu một cuộc nổi dậy của những người cộng sản. Sau đó, đội quân Sturmabteilung [SA] đã tiến hành chiến dịch đàn áp bạo lực trên phạm vi toàn quốc, kết quả là 4.000 đảng viên của Đảng Cộng sản Đức bị bắt. Vào ngày 28 tháng 2 năm 1933, Nghị định Hỏa hoạn Reichstag được thông qua, theo đó bãi bỏ hầu hết các quyền tự do công dân của người Đức, bao gồm cả các quyền hội họp và tự do báo chí. Nghị định còn cho phép cảnh sát bắt giam người dân vô thời hạn mà không cần phải có những cáo buộc hay lệnh của tòa án. Luật này đi kèm với một hoạt động tuyên truyền chớp nhoáng đã dẫn tới sự ủng hộ của quần chúng.[20]

Vào tháng 3 năm 1933, Đạo luật Trao quyền [Ermächtigungsgesetz]; một sự sửa đổi, bổ sung của Hiến pháp Weimar, được Nghị viện cho thông qua sau một cuộc bỏ phiếu với kết quả 444 phiếu thuận và 94 phiếu chống.[21] Sửa đổi này cho phép Hitler và nội các của ông ta thông qua các bộ luật, thậm chí cả luật vi phạm Hiến pháp mà không cần đến sự đồng thuận của Tổng thống hay Nghị viện.[22] Khi các dự luật đòi hỏi đa số phiếu là hai phần ba để được thông qua, những người Quốc xã đã dùng các điều khoản của Nghị định Hỏa hoạn Reichstag để ngăn không cho một số đại diện của đảng Dân chủ Xã hội tham dự; trong khi những người Cộng sản đã bị cấm từ trước.[23][24] Vào ngày 10 tháng 5 chính quyền tịch thu tài sản của những người Dân chủ Xã hội và sang tháng sau họ chính thức bị cấm.[25] Với việc các đảng phái chính trị còn lại giải thể, vào ngày 14 tháng 7 năm 1933, nước Đức trên thực tế đã trở thành một nhà nước độc đảng khi mà việc thành lập các đảng mới sẽ là hành vi phạm pháp.[26] Các cuộc bầu cử tiếp theo vào tháng 11 năm 1933, vào năm 1936, và 1938 hoàn toàn là sự kiểm soát của Quốc xã và chỉ chứng kiến những người Quốc xã cùng một số lượng nhỏ người không đảng phái đi bầu cử.[27] Các nghị viện khu vực và Reichsrat [thượng viện liên bang] chấm dứt tồn tại vào tháng 1 năm 1934.[28]

Chế độ Quốc xã lên nắm quyền đã xóa bỏ những biểu tượng của Cộng hòa Weimar, gồm có lá cờ ba màu đen, đỏ, vàng và chấp thuận làm lại biểu tượng đế quốc. Lá cờ ba màu đen, trắng, đỏ của Đế quốc Đức trước đó được phục hồi làm một trong hai lá cờ chính thức của Đức. Lá cờ còn lại là Cờ chữ Vạn của đảng Quốc xã đã trở thành quốc kỳ duy nhất vào năm 1935. Bài hát của đảng "Horst-Wessel-Lied" [bài ca của Horst Wessel] cũng trở thành quốc ca thứ hai của Đức.[29]

Trong giai đoạn này, nền kinh tế Đức vẫn ở vào tình trạng hết sức tồi tệ, hàng triệu người thất nghiệp và cán cân thương mại thâm hụt đã làm nản lòng bao người.[30] Hitler hiểu rằng phục hồi lại nền kinh tế là vấn đề sống còn. Vào năm 1934, bằng chính sách vay nước ngoài, các dự án công trình công cộng được tiến hành. Chỉ trong năm 1934 đã có tổng cộng 1,7 triệu người Đức được vào làm việc trong các dự án.[30] Mức lương trung bình theo giờ và tuần bắt đầu tăng lên.[31]

Những đòi hỏi về quyền lực quân sự và chính trị của SA đã dấy lên mối lo ngại cho các nhà lãnh đạo của các tổ chức chính trị, quân sự, công nghiệp. Để đối phó với vấn đề này, Hitler đã thanh lọc đội ngũ lãnh đạo của SA trong một cuộc thanh trừng được biết đến với tên gọi đêm của những con dao dài diễn ra từ ngày 30 tháng 6 đến 2 tháng 7 năm 1934.[32] Hitler nhằm vào Ernst Röhm và những lãnh đạo của SA khác— những người đã liên kết với một số địch thủ chính trị của ông ta [như là Gregor Strasser và cựu thủ tướng Kurt von Schleicher]. Tất cả bị bao vây, bắt giữ, và bắn chết.[33]

Vào ngày 2 tháng 8 năm 1934, Tổng thống P. von Hindenburg qua đời. Ngày hôm trước, nội các đã cho ban hành "Luật Liên quan đến Chức vụ Nhà nước Cao nhất của Đế chế", trong đó tuyên bố vào thời điểm Hindenburg chết, chức vụ Tổng thống sẽ bị xóa bỏ và những quyền hạn của nó sẽ được sáp nhập vào quyền hạn của Thủ tướng.[34] Nhờ đó Hitler đã trở thành người đứng đầu nhà nước cũng như chính phủ. Ông chính thức được chỉ định làm Führer und Reichskanzler [lãnh tụ và thủ tướng]. Nước Đức giờ đây là một quốc gia toàn trị với Hitler là người lãnh đạo.[35] Với tư cách đứng đầu, Hitler cũng trở thành Tư lệnh Tối cao của các lực lượng vũ trang. Luật mới ban hành đã sửa đổi lời tuyên thệ truyền thống của quân nhân trước đây, theo đó giờ họ xác nhận trung thành với cá nhân Hitler hơn mọi lãnh đạo, chỉ huy hàng đầu khác.[36] Vào ngày 19 tháng 8, việc sáp nhập chức vụ được phê chuẩn với tỉ lệ 90% ủng hộ của toàn bộ cử tri trong một cuộc trưng cầu.[37]

Joseph Goebbels, Bộ trưởng Tuyên truyền của Đức Quốc Xã

Sự chấm dứt những cuộc xung đột và bạo lực đường phố thời Cộng hòa Weimar đã làm an lòng đa phần người dân Đức. Giờ họ đang chìm trong những lời lẽ tuyên truyền của Joseph Goebbels, người hứa hẹn về nền hòa bình và sung túc cho tất cả mọi người trong một khối thống nhất, một quốc gia phi-Marxist và không còn những gánh nặng của Hòa ước Versailles.[38] Vào năm 1933, trại tập trung đầu tiên của Đức Quốc Xã được mở cửa, địa điểm tại Dachau, ban đầu nó dành cho những tù nhân chính trị.[39] Từ đó cho đến thời điểm chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, đã có hàng trăm khu trại với quy mô và chức năng khác nhau được xây dựng.[40] Sau khi lên nắm quyền, những người Quốc xã đã thực hiện các biện pháp đàn áp chống lại những đối thủ chính trị của họ, đồng thời nhanh chóng cách ly toàn bộ những đối tượng mà họ cho là "không mong muốn của xã hội". Dưới chiêu bài chiến đấu với mối đe dọa từ Cộng sản, những người Quốc xã đã đảm bảo được sức mạnh to lớn, và trên hết, chiến dịch chống lại người Do Thái tại Đức đã đạt được bước đệm ban đầu.

Từ tháng 4 năm 1933, hàng loạt biện pháp nhằm hạn chế địa vị và quyền hạn của người Do Thái bắt đầu được triển khai trên phạm vi từng vùng và quốc gia.[41] Với sự ra đời của các đạo luật Nuremberg [gọi tắt là luật Nuremberg] vào năm 1935, những sáng kiến và mệnh lệnh hợp pháp chống lại người Do Thái lên đến đỉnh điểm, bọn họ sẽ bị tước đoạt các quyền cơ bản.[42] Quốc xã sẽ lấy đi của cải, quyền được kết hôn với người không phải Do Thái, và quyền lựa chọn lĩnh vực lao động [hay nghề nghiệp; ví dụ như luật, y tế, hay sư phạm]. Cuối cùng, Quốc xã tuyền bố rằng người Do Thái không được mong muốn ở cùng với nhân dân và xã hội Đức, và dần theo thời gian họ đã không còn được coi là con người; có thể cho rằng, những hành động bài Do Thái làm cho người Đức dần cảm thấy quen thuộc, bình thường tới một mức độ nhất định đã dẫn đến cuộc diệt chủng Holocaust. Những người dân tộc Đức nào từ chối khai trừ người Do Thái, hoặc người nào biểu lộ bất kỳ dấu hiệu phản đối hay không đồng tình với những nội dung tuyên truyền của Quốc xã đều sẽ bị Gestapo giám sát, tước bỏ những quyền hạn, hoặc chuyển đến các trại tập trung.[43] Ở trong chế độ này, tất cả mọi thứ, bao gồm con người, đều bị giám sát. Theo đó quá trình hợp thức hóa quyền lực của những người Quốc xã hoàn tất từ những hoạt động cách mạng ban đầu, tiếp đến trải qua những thao tác và ứng biến với các cơ chế hợp pháp có sẵn, rồi khai thác quyền lực kiểm soát của đảng Quốc xã [cho phép họ thu nhận và loại trừ bất kỳ ai trong xã hội, những người được họ lựa chọn], và cuối cùng bành trướng quyền thế ra mọi tổ chức liên bang và nhà nước.[44]

Chính sách ngoại giao quân phiệtSửa đổi

Xem thêm: Tái quân sự hóa vùng Rhineland và Sự can thiệp của Đức vào Nội chiến Tây Ban Nha

Ngay từ tháng 2 năm 1933, Hitler đã thông báo hoạt động tái vũ trang cần phải được tiến hành, mặc dù ban đầu là bí mật, và như vậy là vi phạm Hòa ước Versailles. Một năm sau ông nói với các tướng lĩnh quân đội của mình rằng thời điểm để phát động chiến tranh ở mặt trận phía Đông là năm 1942.[45] Trong năm 1933, nước Đức rời Hội Quốc Liên, tuyên bố các điều khoản giải trừ quân bị của tổ chức này là không công bằng khi mà chúng chỉ áp đặt lên nước Đức.[46] Saarland, khu vực đặt dưới sự giám sát của Hội Quốc Liên trong vòng 15 năm kể từ thời điểm thế chiến thứ nhất kết thúc, đã được bầu chọn trở thành một phần của Đức vào tháng 1 năm 1935.[47] Tháng 3 năm đó, Hitler thông báo quy mô của lực lượng Reichswehr sẽ được tăng lên 550.000 lính và rằng ông ta đang xây dựng một lực lượng không quân.[48] Phía Anh nhất trí người Đức sẽ được phép thiết lập một hạm đội hải quân với việc ký kết Hiệp định Hải quân Anglo-German vào ngày 18 tháng 6 năm 1935.[49]

Khi mà cuộc xâm lược Ethiopia của Ý chỉ vấp phải những phản ứng nhẹ nhàng của chính phủ Pháp và Anh, vào ngày 7 tháng 3 năm 1936, Hitler đã lệnh cho 3.000 lính lục quân Wehrmacht Heer hành quân vào khu phi quân sự ở Rhineland trong sự vi phạm Hòa ước Versailles; cùng với đó là 30.000 lính đặt trong tình trạng sẵn sàng. Bởi vùng lãnh thổ này đã là một phần của Đức, chính phủ Anh và Pháp cảm thấy rằng nỗ lực buộc Đức tuân theo Hòa ước là không đáng để mà dẫn đến nguy cơ chiến tranh.[50] Trong cuộc bầu cử độc đảng tổ chức vào ngày 29 tháng 3, Đảng Quốc xã nhận được 98,9% tỉ lệ ủng hộ.[50] Vào năm 1936, Hitler ký Hiệp ước chống Quốc tế cộng sản với Nhật Bản và một hiệp ước không xâm lược với nước Ý phát xít của Benito Mussolini, người mà chẳng bao lâu nữa sẽ đề cập đến một "Trục Rome-Berlin".[51]

Hitler đã gửi những đơn vị không quân và thiết giáp đến hỗ trợ cho Francisco Franco và các lực lượng Dân tộc chủ nghĩa trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha bùng phát vào tháng 7 năm 1936. Liên Xô cũng gửi một lực lượng nhỏ đến hỗ trợ chính phủ Cộng hòa. Phe Dân tộc chủ nghĩa của Franco giành chiến thằng vào năm 1939 và trở thành một đồng minh không chính thức của Đức Quốc Xã.[52]

Áo và Tiệp KhắcSửa đổi

Bài chi tiết: Anschluss và Đức Quốc xã chiếm đóng Tiệp Khắc

Xem thêm thông tin: Vùng bảo hộ Bohemia và Moravia

Người dân tộc Đức tại Saaz, Tiệp Khắc, đón chào binh lính Đức với kiểu chào Quốc xã, 1938

Vào tháng 2 năm 1938, Hitler nhấn mạnh với Thủ tướng Áo Kurt Schuschnigg về sự cần thiết của việc để cho quân đội Đức bảo đảm biên giới quốc gia này. Schuschnigg lên kế hoạch tổ chức một cuộc trưng cầu bàn về nền độc lập của Áo trong ngày 13 tháng 3, nhưng Hitler yêu cầu bãi bỏ. Vào ngày 11 tháng 3, Hitler gửi một tối hậu thư đến Schuschnigg đòi ông này phải bàn giao toàn bộ quyền lực cho đảng Quốc xã Áo hoặc đối mặt với một cuộc xâm lăng. Ngày hôm sau, Wehrmacht tiến quân vào Áo và được cư dân địa phương chào đón nhiệt tình.[53]

Cộng hòa Tiệp Khắc là địa bàn cư trú của một cộng đồng người Đức thiểu số quan trọng, họ sống đa phần tại Sudetenland. Dưới áp lực từ các nhóm ly khai thuộc đảng Đức Sudeten, chính phủ Tiệp Khắc đã thi hành những chính sách nhượng bộ về kinh tế đối với khu vực này.[54] Hitler quyết định phải sáp nhập không chỉ Sudetenland mà còn là cả Tiệp Khắc vào với Đế chế.[55] Những người Quốc xã tiến hành một chiến dịch tuyên truyền để nổi trống hỗ trợ cho cuộc xâm lược.[56] Tuy vậy, các tướng lĩnh quân đội hàng đầu không ủng hộ kế hoạch khi mà nước Đức chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến.[57] Cuộc khủng hoảng đã buộc Tiệp Khắc, Anh và Pháp [những đồng minh của Tiệp Khắc] thực hiện những sự chuẩn bị cho chiến tranh. Với nỗ lực nhằm ngăn chặn nguy cơ này, Thủ tướng Anh Neville Chamberlain đã sắp xếp một loạt các cuộc hội đàm, dẫn tới kết quả là Hiệp định Munich được ký kết vào ngày 29 tháng 9 năm 1938. Chính phủ Tiệp Khắc buộc phải đồng ý để cho Đức sáp nhập Sudetenland. Chamberlain được chào đón với những tiếng tung hô khi đặt chân xuống Luân Đôn, ông nói: "hòa bình cho thời đại chúng ta"[58] Hiệp định chỉ tồn tại trong vòng sáu tháng trước khi Hitler xâm chiếm toàn bộ những phần lãnh thổ còn lại của Tiệp Khắc vào tháng 3 năm 1939.[59] Tiếp đó, một quốc gia bù nhìn được thành lập tại địa điểm gần tương tự với Slovakia ngày nay.[60]

Quốc xã ngay lập tức chiếm lấy những nguồn dự trữ ngoại hối của Áo và Séc, các kho dự trữ nguyên liệu thô như kim loại và sản phẩm hoàn thiện như các loại vũ khí và máy bay, tất cả đều được vận chuyển về Đức. Tập đoàn công nghiệp Reichswerke Hermann Göring nắm quyền kiểm soát các cơ sở sản xuất than và thép ở cả hai quốc gia.[61]

Ba LanSửa đổi

Vào tháng 3 năm 1939, Hitler đòi trả lại Thành phố Tự do Danzig và khu vực Hành lang Ba Lan, một dải đất ngăn cách Đông Phổ với phần còn lại của nước Đức. Chính phủ Anh thông báo họ sẽ hỗ trợ cho Ba Lan nếu nước này bị tấn công. Hitler với niềm tin rằng người Anh sẽ không thực sự hành động đã ra lệnh chuẩn bị sẵn sàng một kế hoạch xâm lược và thời điểm tiến hành là trong tháng 9 năm 1939.[62] Ngày 23 tháng 5, Hitler mô tả kế hoạch tổng thể với các tướng lĩnh, mục tiêu không chỉ là chiếm lấy vùng Hành lang Ba Lan mà còn mở rộng đáng kể lãnh thổ Đức về phía đông. Ông dự kiến lần này đối phương sẽ đáp trả bằng vũ lực.[63]

Người Đức một lần nữa xác nhận lại mối liên minh với Ý và lần lượt ký những bản hiệp ước không xâm lược với Đan Mạch, Estonia, và Latvia. Họ cũng chính thức hóa quan hệ thương mại với Romania, Na Uy và Thụy Điển.[64] Bộ trưởng Ngoại giao Đức Joachim von Ribbentrop bằng các cuộc đàm phán đã dàn xếp được một hiệp ước không xâm lược với Liên Xô, Hiệp ước Molotov–Ribbentrop ký kết trong tháng 8 năm 1939.[65] Trong bản hiệp ước này có chứa nghị định thư bí mật bàn về việc phân chia Ba Lan và các quốc gia vùng Baltic thành các khu vực thuộc phạm vi ảnh hưởng của Đức và Liên Xô.[66][67]

Thế chiến thứ haiSửa đổi

Chính sách ngoại giaoSửa đổi

Xem thêm thông tin: Lịch sử ngoại giao trong thế chiến thứ hai §Đức

Chính sách ngoại giao của Đức trong chiến tranh bao gồm việc thành lập các chính phủ đồng minh đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp từ Berlin. Mục đích chính là thu thập binh lính từ các nước đồng minh hàng đầu như Ý và Hungary, cùng hàng triệu lao động và nguồn cung lương thực dồi dào từ các nước chư hầu như Pháp Vichy.[68] Đến mùa thu năm 1942, trên mặt trận phía Đông có mặt 24 sư đoàn đến từ Romania, 10 đến từ Ý, và 10 của Hungary.[69] Khi mà một quốc gia trở nên không còn đáng tin cậy, Đức sẽ chiếm quyền kiểm soát toàn bộ, như họ đã làm với Pháp vào năm 1942, Ý năm 1943, và Hungary năm 1944. Mặc dù Nhật Bản là một đồng minh chính thức hùng mạnh, mối quan hệ giữa Đức với quốc gia này là không thân mật, ít có sự phối hợp hay hợp tác. Một ví dụ, Đức đã từ chối chia sẻ công thức tổng hợp dầu từ than đá cho đến giai đoạn cuối của chiến tranh.[70]

Chiến tranh bùng nổSửa đổi

Ảnh động mô tả quá trình chinh phạt châu Âu và suy tàn của Đức Quốc Xã cùng đồng minh trong Thế chiến thứ hai. [Ấn vào để xem ảnh đầy đủ kích cỡ]

Lãnh thổ của Đệ Tam Đế chế và các nước đồng minh tại thời điểm Phe Trục ở đỉnh cao thắng lợi.

Vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, Đức tấn công Ba Lan. Hai ngày sau, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.[71] Ba Lan sụp đổ nhanh chóng khi đồng thời phải chịu sự tấn công của Liên Xô từ phía đông vào ngày 17 tháng 9.[72] Ngày 21 tháng 9, Reinhard Heydrich, thủ lĩnh của Gestapo, ra lệnh vây bắt và dồn tất cả người Do Thái vào trong các thành phố có nhiều tuyến đường ray liên kết. Ban đầu Quốc xã dự định trục xuất người Do Thái đến những địa điểm xa hơn về phía đông, hoặc có thể là tới đảo Madagascar ở Ấn Độ Dương.[73] Đến cuối năm 1939, dựa theo những bản danh sách được chuẩn bị từ trước, Quốc xã đã giết hại khoảng 65.000 tri thức, quý tộc, tăng lữ, và giáo viên Ba Lan trong một nỗ lực nhằm phá hủy bản sắc quốc gia này.[74][75] Trong khi đó, Liên Xô tiếp tục tấn công và đã tiến quân đến Phần Lan trong Chiến tranh Mùa đông. Các lực lượng của Đức cũng tham chiến trên biển. Tuy nhiên kể từ đó cho đến tháng 5 năm 1940 ít có hoạt động quân sự nào diễn ra, cho nên giai đoạn này còn được biết đến với tên gọi Chiến tranh kỳ quặc.[76]

Ngay khi cuộc chiến bắt đầu, phía Anh đã tiến hành phong tỏa hàng hóa vận chuyển tới Đức. Điều này tác động đến nền kinh tế Đức bởi người Đức vốn phụ thuộc rất nhiều vào nguồn cung dầu, than đá và ngũ cốc từ bên ngoài.[77] Để bảo vệ các chuyến hàng quặng sắt vận chuyển từ Thụy Điển tới Đức, Hitler đã ra lệnh tấn công Na Uy, sự kiện diễn ra vào ngày 9 tháng 4 năm 1940. Kết quả đến cuối tháng 4, phần lớn lãnh thổ quốc gia này đã bị quân Đức chiếm đóng. Cũng trong ngày mùng 9, Quốc xã đã xâm lăng và chiếm đóng Đan Mạch.[78][79]

Chinh phạt châu ÂuSửa đổi

Bỏ ngoài tai sự phản đối của rất nhiều tướng lĩnh quân đội cấp cao, Hitler vẫn ra lệnh tấn công nước Pháp và các quốc gia thuộc Vùng đất Thấp, chiến dịch bắt đầu vào tháng 5 năm 1940.[80] Đức Quốc Xã đã nhanh chóng chinh phạt lần lượt Luxembourg, Hà Lan, và Bỉ; tiếp đến là Pháp đầu hàng vào ngày 22 tháng 6.[81] Việc Pháp bất ngờ bại trận một cách nhanh chóng giúp làm tăng thêm danh tiếng của Hitler và dẫn tới một sự bùng phát mạnh trong cơn sốt chiến tranh.[82]

Bất chấp các điều khoản của Công ước Hague, các hãng công nghiệp tại Hà Lan, Pháp và Bỉ đều bị buộc phải sản xuất trang thiết bị phục vụ chiến tranh cho quân đội Đức chiếm đóng. Giới quan chức của những quốc gia này xem rằng đó sự lựa chọn là phù hợp hơn so với việc để công dân của họ bị trục xuất đến Đức làm lao động khổ sai.[83]

Đức Quốc Xã đã chiếm đoạt hàng ngàn đầu máy và toa xe lửa, các kho dự trữ vũ khí và các nguyên liệu thô như đồng, thiếc, dầu, niken.[84] Bên cạnh đó Quốc xã còn thu thuế từ chính phủ của các nước bị chiếm đóng, họ đã nhận được các khoản thanh toán từ Pháp, Bỉ và Na Uy.[85] Những rào cản thương mại dẫn tới sự tích trữ, thị trường chợ đen, và một tương lai không rõ ràng.[86] Nguồn cung lương thực là bấp bênh; sản xuất sụt giảm trên hầu khắp châu Âu, tuy nhiên không nghiêm trọng như trong thế chiến thứ nhất.[87] Hy Lạp đã phải trải qua nạn đói trong năm đầu tiên bị chiếm đóng còn Hà Lan thì là vào năm cuối cùng của chiến tranh.[87]

Hitler đã đưa ra những lời đề nghị hòa bình với vị lãnh đạo mới của nước Anh, Winston Churchill; và khi bị từ chối ông liền ra lệnh tiến hành một loạt các cuộc tấn công từ trên không nhằm vào những trạm rada và căn cứ của Không quân Hoàng gia Anh [RAF]. Tuy nhiên, không quân Đức [Luftwaffe] đã không thể đánh bại RAF trong trận chiến trên bầu trời Anh Quốc.[88] Đến cuối tháng 10, Hitler nhận ra rằng yếu tố quan trọng là giành lấy ưu thế trên không cho chiến dịch xâm lược nước Anh có thể sẽ không đạt được, và ông ra lệnh thực hiện các cuộc không kích bất ngờ trong đêm nhằm vào các thành phố của Anh, trong đó có Luân Đôn, Plymouth, và Coventry.[89]

Vào tháng 2 năm 1941, Quân đoàn Phi Châu của Đức Quốc Xã [Afrika Korps] đã đến Libya để hỗ trợ quân Ý trong chiến dịch Bắc Phi và cố gắng ngăn chặn lực lượng Thịnh vượng chung Anh ở Ai Cập.[90] Đến ngày 6 tháng 4, Hitler tiến hành xâm lược Yugoslavia [Nam Tư] và Hy Lạp.[91] Những nỗ lực của Quốc xã là nhằm bảo đảm nguồn cung dầu mỏ từ bên ngoài, trong đó có đồng minh mới của họ là Romania, quốc gia đã ký Hiệp ước Ba bên vào tháng 11 năm 1940.[92][93]

Binh sĩ Đức hành quân gần Arc de Triomphe tại Paris, 14 tháng 6 năm 1940

Vào ngày 22 tháng 6 năm 1941, Hitler xé bỏ Hiệp ước Molotov–Ribbentrop và cùng với các đồng minh đem khoảng 5,5 triệu quân tấn công Liên Xô. Bên cạnh mục đích chiếm lấy Lebensraum [không gian sống], chiến dịch quy mô lớn này [mật danh Chiến dịch Barbarossa] còn ý đồ nhằm hủy diệt Liên bang Xô viết và chiếm những nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho cuộc chiến tiếp theo với phe Đồng Minh.[94] Phản ứng của người dân Đức là bất ngờ và bối rối. Nhiều người lo lắng liệu chiến tranh sẽ kéo dài bao lâu hay tỏ vẻ hoài nghi về khả năng chiến thắng của Đức khi phải tham chiến trên hai mặt trận.[95]

Xe tăng Panzer IV của Đức tại Thessaloniki. Biểu ngữ trên tòa nhà phía sau: "Chủ nghĩa Bolshevik là kẻ thù lớn nhất của nền văn minh chúng ta".

Ban đầu, mọi việc diễn ra rất suôn sẻ, Quốc xã cùng đồng minh đã chinh phạt được các nước cộng hòa vùng Baltic, Belarus, và Tây Ukraina. Sau chiến thắng trong Trận Smolensk, Hitler ra lệnh cho Cụm tập đoàn quân Trung tâm tạm dừng cuộc tiến quân đến Moskva và tạm thời chuyển hướng các đơn vị tăng Panzer để hỗ trợ cuộc phong tỏa Leningrad và Kiev.[96] Sự chần chừ này đã cho Hồng quân Liên Xô cơ hội huy động lực lượng dự bị mới; và cuộc tấn công Moskva được tái tiến hành vào tháng 12 năm 1941 đã kết thúc trong thảm họa.[96] Vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng, Hawaii. Bốn ngày sau, Đức tuyên chiến với Mỹ.[97]

Lượng lương thực cung cấp đến những vùng lãnh thổ Liên Xô và Ba Lan bị chinh phục là ít ỏi, với những khẩu phần không đầy đủ, không đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng. Quân địch rút lui đã phá hủy mùa màng, đốt cháy cây trồng; và phần còn lại thì đa số được chuyển về Đức.[98] Ngay tại chính quốc, khẩu phần lương thực cũng bị cắt giảm trong năm 1942. Với vai trò Toàn quyền Kế hoạch Bốn năm, Hermann Göring yêu cầu thúc đẩy số chuyến hàng ngũ cốc vận chuyển từ Pháp và cá từ Na Uy. Vụ mùa năm 1942 là thuận lợi và nguồn cung lương thực vẫn đủ đáp ứng tại Tây Âu.[99]

Lực lượng đặc nhiệm Reichsleiter Rosenberg là một tổ chức được thành lập với nhiệm vụ cướp đoạt các tác phẩm nghệ thuật và văn hóa từ những bộ sưu tập, thư viện và bảo tàng của người Do Thái trên khắp châu Âu. Đã có khoảng 26.000 toa tàu chở đầy các vật phẩm đánh cắp được vận chuyển từ Pháp về Đức.[100] Bên cạnh đó, binh lính cũng ăn cắp hoặc mua những loại hàng hóa mà khó kiếm được ở Đức như quần áo rồi gửi về nhà.[101]

Bước ngoặt và sụp đổSửa đổi

Sự tàn phá của Trận Stalingrad, tháng 10 năm 1942.

Nước Đức cũng như châu Âu nói chung đều phụ thuộc gần như toàn bộ vào hoạt động nhập khẩu dầu mỏ từ bên ngoài.[102] Trong một nỗ lực nhằm giải quyết sự thiếu hụt dai dẳng này, Quốc xã đã khởi động Fall Blau [Chiến dịch Blau] vào tháng 6 năm 1942, một cuộc tấn công nhắm đến những mỏ dầu ở Kavkaz.[103] Ngày 19 tháng 11, Hồng quân Liên Xô phát động một cuộc phản công và sau đó vài ngày họ đã bao vây được quân Đức trong thành phố Stalingrad.[104] Göring cam đoan với Hitler rằng Tập đoàn quân số 6, lực lượng đang ở trong vòng vây, sẽ được tiếp tế bằng đường không, nhưng điều này trở nên không khả thi.[105] Việc Hitler không cho phép rút lui dẫn tới hậu quả là 200.000 binh sĩ Đức và Romania thiệt mạng; 91.000 binh sĩ khác đầu hàng vào ngày 31 tháng 1 năm 1943 và chỉ có 6.000 người trong số đó sống sót để quay trở về Đức sau chiến tranh.[106] Sau thắng lợi ở trận chiến lớn tiếp theo, Trận Kursk, Hồng quân Liên Xô tiếp tục tiến quân về phía tây và đến cuối năm 1943 Đức Quốc Xã đã đánh mất phần lớn lãnh thổ ở phía đông mà trước đó họ từng xâm chiếm được.[107]

Tại Ai Cập, Quân đoàn Phi Châu Afrika Korps của Thống chế Erwin Rommel đã bị các lực lượng đặt dưới quyền chỉ huy của Thống chế Bernard Montgomery đánh bại vào tháng 10 năm 1942.[108] Tiếp đó, quân Đồng Minh lần lượt đổ bộ vào Sicily trong tháng 7 năm 1943 và Ý trong tháng 9.[109] Cùng thời điểm, các phi đội ném bom của Anh và Mỹ cũng bắt đầu tiến hành chiến dịch tấn công nước Đức. Trong một nỗ lực nhằm đánh tan nhuệ khí của người Đức, nhiều phi vụ đã cố tình nhằm vào mục tiêu là dân thường.[110] Với việc số lượng máy bay sản xuất ra không đủ bù đắp cho số mất mát, nước Đức hoàn toàn đánh mất khả năng kiểm soát bầu trời và phải hứng chịu sự tàn phá ngày càng nặng nề hơn từ chiến dịch ném bom của Đồng Minh. Đến cuối năm 1944, trước những đợt ném bom nhằm vào các nhà máy lọc dầu và các khu công nghiệp, bộ máy chiến tranh của Đức Quốc Xã gần như đã hoàn toàn tê liệt.[111]

Vào ngày 6 tháng 6 năm 1944, Đồng Minh Anh, Mỹ và Canada mở mặt trận phía Tây với chiến dịch đổ bộ lên Normandy.[112] Trong ngày 20 tháng 7, Hitler may mắn thoát chết sau một vụ ám sát.[113] Ông ra lệnh trả thù tàn bạo, kết quả là 7.000 người bị bắt và hơn 4.900 người bị hành quyết.[114] Cuộc tấn công Ardennes [16 tháng 12 năm 1944– 25 tháng 1 năm 1945] là chiến dịch lớn cuối cùng của Đức trong chiến tranh. Hồng quân Liên Xô tiến vào lãnh thổ Đức trong ngày 27 tháng 1.[115] Hitler không chịu thừa nhận thất bại và nhấn mạnh lặp đi lặp lại rằng phải chiến đấu đến người cuối cùng, dẫn tới tổn thất về người và của không đáng có trong những tháng còn lại của cuộc chiến.[116] Thông qua Bộ trưởng Tư pháp Otto Georg Thierack, ông ra lệnh bất kỳ người nào không sẵn sàng chiến đấu sẽ bị đem ra tòa án quân sự ngay tức khắc. Hàng ngàn người đã bị giết.[117] Ở rất nhiều nơi, người dân tìm cách đầu hàng quân Đồng Minh đang tiến đến, mặc cho lời kêu gọi tiếp tục chiến đấu của các lãnh đạo địa phương. Hitler còn ra lệnh phá hủy các cây cầu, nhà máy, hệ thống giao thông vận tải và các cơ sở hạ tầng khác— một sắc lệnh tiêu thổ— nhưng Bộ trưởng Vũ trang Albert Speer có thể đã ngăn không cho mệnh lệnh này được thực thi một cách toàn bộ.[116]

Phát phương tiện

Đoạn phim của Không quân Hoa Kỳ mô tả sự tàn phá ở trung tâm Berlin, tháng 7 năm 1945

Trong suốt khoảng thời gian diễn ra Trận Berlin [16 tháng 4 năm 1945 – 2 tháng 5 năm 1945], Hitler và những tham mưu của ông sống trong Führerbunker dưới mặt đất.[118] Vào ngày 30 tháng 4, khi Hồng quân Liên Xô đã ở rất gần Phủ Thủ tướng, Hitler và vợ là Eva Braun quyết định tự sát trong Führerbunker.[119] Thủy sư đô đốc Karl Dönitz lên kế nhiệm Hitler với tư cách Tổng thống Đế chế và Goebbels lên làm Thủ tướng Đế chế.[120] Goebbels cùng vợ là Magda cũng đã tự sát trong ngày 1 tháng 5 sau khi tự tay sát hại sáu đứa con của mình.[121] Ngày 2 tháng 5, Tướng Helmuth Weidling đầu hàng vô điều kiện trước Tướng Vasily Chuikov của Liên Xô.[122] Trong khoảng từ ngày 4 đến 8 tháng 5 hầu hết quân lính có vũ trang còn lại của Đức đều đầu hàng vô điều kiện. Văn kiện đầu hàng của Đức được ký vào ngày 8 tháng 5, đánh đấu hồi kết cho chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu.[123]

Bài chi tiết: Tự sát hàng loạt ở Đức Quốc xã năm 1945

Tỉ lệ tự sát tại Đức tăng lên khi đối phương ngày một tiến gần, đặc biệt ở những khu vực tiến quân của Hồng quân. Tại Demin, hơn một ngàn người [trong tổng số khoảng 16.000] đã tự sát trong hoặc trong khoảng ngày 1 tháng 5 năm 1945 khi Tập đoàn quân số 65 của Phương diện quân Belorussia số 2 xông vào một nhà máy chưng cất và càn quét qua thị trấn, thực hiện các hành động như cưỡng hiếp hàng loạt, tự ý sát hại thường dân và châm lửa đốt cháy các tòa nhà.[124] Rất nhiều địa điểm có số lượng người tự sát cao, trong đó có Neubrandenburg [600 người],[124] Słupsk [1.000 người],[124] và Berlin ít nhất 7.057 người.[125]

Tổn thất nhân mạng của ĐứcSửa đổi

Xem thêm thông tin: Tổn thất nhân mạng trong Thế chiến thứ hai và Tổn thất nhân mạng của Đức trong Thế chiến thứ hai

Người tị nạn Đức ở Bedburg, gần Kleve, 19 tháng 2 năm 1945

Tổng số người Đức thiệt mạng liên quan đến cuộc chiến ước tính trong khoảng từ 5,5 đến 6,9 triệu.[126] Theo một nghiên cứu của nhà sử học người Đức Rüdiger Overmans, số binh sĩ Đức thiệt mạng và mất tích là 5,3 triệu, bao gồm 900.000 lính nhập ngũ bắt buộc từ bên ngoài biên giới Đức hồi năm 1937, ở Áo và Đông-Trung Âu.[127] Vào năm 2014, sử gia Overy ước tính tổng cộng có khoảng 353.000 dân thường đã chết vì những đợt ném bom nhằm vào các thành phố Đức của Anh và Mỹ.[128] Bên cạnh đó là 20.000 người chết trong những chiến dịch trên mặt đất.[129][130] Khoảng 22.000 người dân thiệt mạng trong Trận Berlin.[131] Số thường dân thiệt mạng khác gồm có 300.000 người Đức [bao gồm cả người Do Thái] là nạn nhân của các hoạt động khủng bố về chính trị, tôn giáo, chủng tộc của Quốc xã,[132] và 200.000 người bị sát hại trong chương trình cái chết êm ái.[133] Các tòa án chính trị được gọi là Sondergericht đã kết án tử hình khoảng 12.000 thành viên của Phong trào kháng chiến Đức, bên cạnh đó các tòa dân sự cũng kết án tương tự với khoảng 40.000 người Đức.[134]

Vào thời điểm chiến tranh kết thúc, toàn châu Âu có hơn 40 triệu người tị nạn,[135] nền kinh tế sụp đổ, và 70% cơ sở hạ tầng công nghiệp bị phá hủy.[136] Khoảng 12 đến 14 triệu người dân tộc Đức đã bỏ trốn hoặc bị trục xuất từ Đông-Trung Âu đến Đức.[137] Trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, chính phủ Tây Đức ước tính có khoảng 2,2 triệu dân thường đã thiệt mạng vì các hoạt động bỏ trốn, trục xuất và lao động khổ sai tại Liên Xô.[138] Con số này không bị bác bỏ cho đến thập niên 1990, thời điểm mà một số nhà sử học nhận định có khoảng 500.000-600.000 trường hợp thiệt mạng được xác nhận.[139][140][141] Vào năm 2006 chính phủ Đức tái khẳng định số nạn nhân là 2 đến 2,5 triệu.[d]

Mục lục

  • 1 Bước khởi đầu của Đảng Quốc Xã
  • 2 Cương lĩnh Đảng Quốc Xã
  • 3 Đảng Quốc Xã bắt đầu hình thành
  • 4 Bước tiến của "Lãnh tụ"
  • 5 Quốc Xã đi vào chính quyền
  • 6 Quốc Xã nắm quyền lực tuyệt đối
  • 7 Ngày tàn
  • 8 Ghi chú
  • 9 Tham khảo
  • 10 Tham khảo
  • 11 Liên kết ngoài

Bước khởi đầu của Đảng Quốc XãSửa đổi

Biểu tượng thường được dùng như đảng huy của Đảng NSDAP

Sau khi trở về từ Chiến tranh thế giới thứ nhất, Adolf Hitler không có triển vọng gì về sự nghiệp chính trị cho một người Áo 31 tuổi không bạn bè, không tiền bạc, không công ăn việc làm, không nghề chuyên môn, và không hề có kinh nghiệm gì về hoạt động chính trị. Hitler nhận thức được điều này. Ông kể lại:

Trong nhiều ngày, tôi tự hỏi phải làm gì, nhưng tôi đều tỉnh táo nhận ra rằng tôi, con người vô danh như thế này, không hề có cơ sở tối thiểu cho hoạt động hữu ích nào.

Hitler trở lại München vào mùa xuân 1920, Hitler tham gia vào việc cung cấp thông tin cho cuộc điều tra những người đã can dự vào chế độ Xô-viết ngắn ngủi ở München.

Rất có thể Hitler đã đóng góp vai trò hữu ích, vì thế ông được điều vào Ban Báo chí và Thông tin của Phòng Chiến tranh Chính trị đóng tại quân khu địa phương. Trái với truyền thống của họ, Quân đội Đức bây giờ nhúng sâu vào chính trị, đặc biệt là ở Bayern. Để quảng bá đường lối bảo thủ, họ tổ chức cho binh sĩ theo học các lớp chính trị, và Hitler là học viên chăm chỉ tham dự một trong các lớp học này. Theo lời ông kể lại, một ngày, ông chen vào tranh luận khi có người nói tốt cho dân Do Thái. Lời diễn thuyết bài Do Thái hẳn làm cho cấp trên vui lòng, kết quả là Hitler được điều đến một trung đoàn với tư cách giống như là chính trị viên, lĩnh nhiệm vụ đánh đổ những ý tưởng nguy hiểm – chủ nghĩa cầu hòa, chủ nghĩa xã hội, ý niệm dân chủ; đấy là quan điểm về vai trò của quân đội trong một nền cộng hòa dân chủ mà họ đã tuyên thệ phục vụ.

Đây là một bước ngoặt quan trọng cho Hitler – sự công nhận đầu tiên trong lĩnh vực chính trị mà ông cố chen vào. Vai trò mới đã cho ông cơ hội để thử thách tài hùng biện của mình – yếu tố tiên quyết mà ông luôn nghĩ phải có đối với một chính trị gia thành đạt. Ông kể lại:

Thình lình tôi có cơ hội để phát biểu trước đám đông; và điều mà tôi luôn nghĩ trong đầu nhưng không chắc sẽ làm tốt đã được minh chứng: tôi có thể "ăn nói."

Ông vui mừng tột độ vì điều khám phá này tuy không lấy làm ngạc nhiên lắm. Đây là bước khởi đầu cho một tài năng khiến cuối cùng ông trở thành nhà hùng biện tài giỏi nhất nước Đức, khi cất tiếng trên sóng phát thanh với mãnh lực lay chuyển hàng triệu con tim.

Một ngày tháng 9 năm 1919, Phòng Chiến tranh Chính trị ra lệnh cho Hitler dò xét một nhóm chính trị nhỏ tự gọi là Đảng Lao động Đức. Quân đội luôn tỏ ra nghi ngờ các đảng phái của công nhân vì họ thường theo cánh Xã hội hoặc Cộng sản, nhưng tin rằng nhóm này có thể khác. Hitler không hề biết gì về đảng này, nhưng quen biết với một người sẽ phát biểu trong buổi họp của đảng mà ông được lệnh tìm hiểu.

Vài tuần trước, trong một buổi học tập chính trị do Quân đội tổ chức, Hitler được nghe bài phát biểu của Gottfried Feder, kỹ sư xây dựng và cũng là chuyên gia kinh tế lập dị. Ông này bị ám ảnh với ý nghĩ rằng tư bản "đầu cơ" thay vì tư bản "sáng tạo" hoặc tư bản "sản xuất" là cội rễ của mọi vấn nạn kinh tế của Đức. Là người không biết gì về kinh tế, Hitler có ấn tượng mạnh với bài phát biểu của Feder.

Mẫu thẻ đảng tiêu chuẩn của năm 1939

Nhưng khởi đầu Hitler không nhận ra tầm quan trọng gì ở Đảng Lao động Đức. Ông đi đến buổi họp của đảng này chỉ vì được phái đến, và sau khi đã ngồi nghe suốt một buổi chán ngắt với khoảng 25 người tham dự, ông không có ấn tượng tốt. Ông kể:

Đấy là một tổ chức mới giống như bao tổ chức khác. Đây là thời kỳ mà bất kỳ ai bất mãn với thời cuộc... đều cảm thấy cần thành lập một đảng mới. Đâu đâu cũng thấy đảng mới mọc lên rồi lặng lẽ biến mất. Tôi nghĩ Đảng Lao động Đức cũng không khác gì.

Sau khi Feder đã phát biểu xong, Hitler chuẩn bị ra về, thì có một "giáo sư" đứng lên, cật vấn ý kiến của Feder rồi đề nghị Bayern nên tách ra khỏi nước Đức và lập một nước Nam Đức mới cùng với Áo. Đấy là ý tưởng phổ biến ở München thời bấy giờ, nhưng Hitler tỏ ra giận dữ và đứng lên để cho nhà trí thức kia đôi điều suy nghĩ. Dường như Hitler nói một cách mạnh mẽ đến nỗi vị "giáo sư" rời bỏ phòng họp "như chó cụp đuôi", trong khi cả hội trường nhìn anh trai trẻ với "vẻ mặt kinh ngạc". Một người – mà Hitler kể lúc ấy không nghe rõ tên – dúi một quyển sách nhỏ vào tay Hitler.

Người này có tên là Anton Drexler, làm thợ rèn, có thể nói là người thật sự sáng lập Đảng Quốc Xã. Không viết giỏi và không có tài ăn nói, năm 1918 ông đã thành lập "Ủy ban Công nhân Độc lập" để chống lại chủ nghĩa Mác-xít trong các nghiệp đoàn và để dấy động nền hòa bình "công tâm" cho Đức. Thật ra, tổ chức này là chi nhánh của một hiệp hội có tên rất dài [nước Đức lúc ấy và cho đến năm 1933 có đầy rẫy những đoàn thể mang tên dài dòng như thế].

Drexler không bao giờ kết nạp được hơn 40 thành viên, và vào năm 1919 ông sáp nhập tổ chức của mình với một nhóm tương tự của một nhà báo tên Karl Harrer. Tổ chức mới mang tên Đảng Lao động Đức, chỉ có không đến 100 đảng viên, do Harrer làm chủ tịch đảng. Hitler đánh giá Harrer là con người "trung thực" và "chắc chắn có nền giáo dục rộng" nhưng lấy làm tiếc là thiếu "thiên bẩm về hùng biện".

Sáng hôm sau, nằm trong doanh trại quân đội, Hitler mở quyển sách mà Drexler trao cho. Ông mô tả chi tiết việc này trong quyển Mein Kampf. Ông ngạc nhiên nhận thấy quyển sách thể hiện nhiều ý tưởng hay mà chính ông đã tiếp thu trong nhiều năm. Mục đích chính của Drexler là gây dựng một đảng phái chính trị dựa trên giai cấp công nhân, nhưng không giống như Đảng Dân chủ Xã hội Đức, đảng này phải thiên mạnh về chủ nghĩa quốc gia. Drexler bất mãn với tinh thần của giai cấp trung lưu vốn dường như xa rời quần chúng. Như ta đã biết, ở Wien, Hitler đã có cảm nghĩ khinh bỉ giới tư sản với cùng lý do – không quan tâm đến giới công nhân và những vấn nạn xã hội. Vì thế, ý tưởng của Drexler rất hợp với Hitler.

Thẻ đảng viên của Hitler khi tham gia vào Đảng Lao động Đức [DAP], cũng là tiền thân của Đảng Quốc Xã [NSDAP] sau này.

Chiều ngày ấy, Hitler cảm thấy kinh ngạc khi nhận được một bưu thiếp cho biết ông đã được chấp nhận gia nhập Đảng Lao động Đức. Ông kể lại:

Tôi không biết phải giận dữ hoặc bật cười. Tôi không định gia nhập một đảng đã có sẵn, mà muốn thành lập một đảng mới cho riêng mình. Họ đã quá đường đột...

Ông định viết thư trả lời như thế, nhưng rồi "tính hiếu kỳ trỗi dậy" và quyết định tham dự buổi họp trung ương đảng mà ông được mời hầu giải thích lý do tại sao không gia nhập "cái tổ chức nhỏ bé một cách phi lý này".

Đấy là một nơi chốn tồi tàn... Tôi đi qua một phòng ăn tối tăm không có một bóng người, mở cánh cửa thông ra phòng phía sau, và rồi đối diện với Trung ương đảng. Trong ánh đèn khí đốt tù mù, bốn người trẻ tuổi ngồi, trong số đó là tác giả của quyển sách nhỏ, người này lập tức vui vẻ chào hỏi rồi mở lời tiếp đón tôi với tư cách một đảng viên mới của Đảng Lao động Đức. Tôi sửng sốt thực sự. Người ta đọc lên biên bản buổi họp trước, rồi thư ký ghi nhận biểu quyết chấp thuận. Kế đến là báo cáo tài chính – toàn đảng chỉ sở hữu số tiền 7 Mác Đức và 50 pfennig – theo đấy người tài vụ nhận biểu quyết chấp thuận. Rồi người ta cũng ghi việc này vào biên bản buổi họp. Rồi Chủ tịch Đảng đọc thư phúc đáp cho vài người, và mọi người đều tỏ ý thông qua. Kế đến là báo cáo về những thư mới nhận được...

Kém cỏi, thật là kém cỏi! Đây là một câu lạc bộ theo cách thức tệ hại nhất. Liệu tôi sẽ gia nhập tổ chức này hay không?

Tuy thế, có điều gì đấy ở những người ăn mặc lôi thôi trong gian phòng tù mù khiến cho Hitler cảm thấy bị cuốn hút: "tấm lòng tha thiết cho một phong trào mới vượt quá tầm mức một đảng phái theo ý nghĩa từ trước đến giờ trên thế giới." Tối hôm ấy, Hitler trở về doanh trại quân đội để "đối diện với câu hỏi khó khăn nhất trong đời tôi: có nên gia nhập hay không?" Lý lẽ cho biết ông nên từ chối. Và tuy thế... Chính vì đảng này không có vị thế quan trọng sẽ tạo cho người trai trẻ có năng lực và ý tưởng một cơ hội "hoạt động đúng theo sở nguyện cá nhân thật sự." Hitler ngẫm nghĩ về những gì ông có thể "mang đến cho nhiệm vụ này."

Tôi có thể chịu đựng được cảnh nghèo túng và không có phương tiện sinh nhai, nhưng điều khó khăn hơn là tôi đang ở trong số những người vô danh, tôi chỉ là một trong hàng triệu người phải nỗ lực tồn tại mà không có ai thân cận chiếu cố đến. Hơn nữa, còn có sự hạn chế vì tôi thiếu nền học vấn.

Sau hai ngày suy nghĩ cật lực, cuối cùng tôi xác định là cần tiến theo hướng này. Đây là kết luận có tính cách quyết định nhất trong đời tôi. Từ bây giờ, không có chuyện quay đầu lại. Thế là, Adolf Hitler trở thành Ủy viên Trung ương thứ bảy của Đảng Lao động Đức.

Cần đề cập đến hai đảng viên của đảng chính trị tí hon này; cả hai đều đóng vai trò quan trọng cho tiến trình của Hitler.

Đại úy Ernst Röhm, phục vụ trong một đơn vị quân đội ở München, đã gia nhập đảng trước Hitler, có đầu óc nhậy cảm về chính trị và có tài tổ chức. Giống như Hitler, ông mang tư tưởng ghét bỏ sục sôi đối với nền Cộng hòa dân chủ và "tội đồ Tháng Mười một" mà ông cho là có trách nhiệm tạo ra nền Cộng hòa. Ông có chí hướng tái lập một nước Đức có tính quốc gia mạnh mẽ, và cùng với Hitler, ông tin rằng chỉ có thể làm được điều này qua một đảng dựa trên giai cấp thấp mà từ đấy ông đã ngoi lên, không giống như phần lớn sĩ quan chính quy. Có hành động cứng rắn, tàn bạo, sục sôi – dù là người đồng tính luyến ái giống như nhiều đảng viên Quốc Xã vào thời kỳ đầu – ông giúp tổ chức nên những đội quân sau này trở thành lực lượng áo nâu SA mà ông là tham mưu trưởng cho đến khi bị Hitler sát hại năm 1934. Röhm đã dẫn theo một số lớn cựu chiến binh và quân tình nguyện để tạo nên xương sống cho đảng trong thời kỳ đầu. Trên cương vị một sĩ quan trong quân đội đang kiểm soát Bayern, Röhm cũng vận động Quân đội giúp bao che cho đảng và đôi lúc lôi kéo sự hậu thuẫn của chính quyền. Không có những sự hỗ trợ này, hẳn Hitler không thể nào có bước khởi đầu thuận lợi để xách động quần chúng lật đổ nền Cộng hòa. Điều chắc chắn là Hitler có thể tự do thực hiện những biện pháp khủng bố và đe dọa vì nhờ chính quyền và cảnh sát Bayern làm ngơ.

Dietrich Eckart, nhà báo dí dỏm nhưng là nhà thơ và kịch tác gia kém cỏi, lớn hơn Hitler 21 tuổi, thường được xem là nhà sáng lập tinh thần của Quốc Xã. Cũng như Hitler ở Wien, có một thời ông sống lông bông ở Berlin, lại thêm nghiện rượu, sử dụng nha phiến, rồi được đưa vào bệnh viện tâm thần. Ông thường thuyết giảng về tính ưu việt của chủng người Aryan, kêu gọi diệt trừ người Do Thái và lật đổ chính quyền Berlin.

Nhà thơ nghiện rượu Eckart [qua đời năm 1923 vì uống rượu quá nhiều] đã tuyên bố:

Chúng ta cần có một người cầm đầu có thể chịu được tiếng súng liên thanh... Ta không thể sử dụng sĩ quan quân đội, vì dân chúng không còn kính trọng họ nữa. Người thích hợp nhất là một công nhân có tài ăn nói... Anh ấy không cần có đầu óc... Anh ấy phải còn độc thân, rồi chúng ta sẽ đi kiếm phụ nữ.

Eckart trở thành cố vấn thân cận cho anh trai trẻ đang lên trong Đảng Lao động Đức, cho anh mượn sách báo, giúp anh cải thiện khả năng Đức ngữ – cả viết và nói – và giới thiệu anh với đám bạn bè đông đảo. Những người này không chỉ gồm có nhà giàu cung ứng ngân quỹ cho đảng và chi phí sinh hoạt cho Hitler, mà còn có những phụ tá trong tương lai như Rudolf Heß và Alfred Rosenberg.

Có sự pha trộn của những nhân vật quái dị sáng lập nên Đảng Quốc Xã, những người vô hình trung đã bắt đầu đặt nền tảng cho một phong trào mà 13 năm kế tiếp sẽ lan rộng cả nước, phong trào mạnh mẽ nhất châu Âu, và đưa Đức lên vị thế Đế chế Thứ Ba. Anh thợ rèn Drexler với ý tưởng lộn xộn tạo nên hạt nhân, anh thi sĩ nghiện rượu tạo nên nền tảng "tâm linh," nhà kinh tế quái đản Feder thiết lập ý thức hệ, con người đồng tính luyến ái Röhm mang đến sự hậu thuẫn của Quân đội và cựu chiến binh. Nhưng bây giờ chính là cái anh Adolf Hitler lông bông, chưa tròn 31 tuổi và hoàn toàn vô danh, nắm lấy vai trò đi đầu trong việc gây dựng một tổ chức đang làm việc trong trụ sở nghèo nàn rồi sẽ tiến lên thành một đảng chính trị đáng sợ.

Tất cả ý tưởng nhen nhúm từ những tháng ngày cô đơn đói kém ở Wien giờ đã có chỗ phát huy, và nguồn năng lượng nội tại trước đây âm ỉ giờ đã bùng cháy. Hitler thúc đẩy trung ương đảng còn đang rụt rè tiến lên tổ chức những đại hội lớn hơn. Ông tự đánh máy thư mời dự đại hội. Ông kể lại, có một lần sau khi đã gửi đi 80 thư mời,

chúng tôi ngồi đợi đám đông mà chúng tôi nghĩ sẽ xuất hiện. Đã muộn một tiếng đồng hồ, và ‘chủ tịch’ phải tuyên bố khai mạc đại hội. Một lần nữa chỉ có bảy người – 7 người cũ.

Nhưng Hitler không sờn lòng. Ông tăng số người tham dự bằng cách cho in thư mời bằng ronéo. Ông thu vài đồng Mác Đức để cậy đăng thông cáo đại hội trên một tờ báo. Ông kể: "Kết quả thật là diệu kỳ. Có 111 người đến dự." Hitler dự kiến sẽ có "bài phát biểu" đầu tiên, sau bài diễn văn chính của một "giáo sư München." Nhưng Herrer, chủ tịch đảng trên danh nghĩa, chống đối dự định này. Hitler kể:

Ông ấy chắc chắn là con người chân thật, chỉ có điều cho rằng tôi có khả năng làm việc gì đấy nhưng không thể ăn nói. Tôi phát biểu trong 30 phút, và điều mà trước giờ tôi chỉ nghĩ trong đầu, mà không có cách nào minh chứng, giờ trở thành hiện thực: tôi có khả năng phát biểu!

Hitler cho rằng đám đông "giật nẩy người" vì tài hùng biện của ông, và thể hiện sự phấn khích bằng cách đóng góp 300 đồng Mác giúp đảng vượt qua cơn khốn khó về tài chính trong một thời gian.

Đầu năm 1920, Hitler nắm nhiệm vụ tuyên truyền cho đảng, một công tác mà ông đã suy nghĩ nhiều kể từ lúc quan sát tầm quan trọng của tuyên truyền nơi các đảng phái ở Wien. Ông bắt đầu ngay bằng cách tổ chức một đại hội lớn lao nhất mà đảng tí hon này chưa từng mơ đến. Đại hội được dự trù vào ngày 24/2/1920 trong một nhà hàng bia nổi tiếng ở München có sức chứa 2.000 người. Các ủy viên trung ương nghĩ Hitler đã hóa điên. Harrer từ chức để phản đối và được thay thế bởi Drexler, người cũng tỏ ra hoài nghi. Harrer cũng chống đối tư tưởng bài Do Thái quá khích của Hitler và tin rằng Hitler xa cách với giai cấp lao động. Đấy là những lý do chính khiến cho Harrer từ chức.

Hitler nhấn mạnh rằng ông phải là người đích thân lo liệu các công tác chuẩn bị. Đúng là đại hội có tầm quan trọng đến mức Hitler kết thúc chương đầu của quyển Mein Kampf bằng đoạn mô tả đại hội này, bởi vì đấy là cơ hội mà đảng thoát ra ngoài lớp vỏ bọc của một tổ chức nhỏ và lần đầu tiên tạo ảnh hưởng quyết định lên yếu tố hùng mạnh nhất của thời đại chúng ta: chính kiến của quần chúng.

Ngay cả Hitler vẫn không được xếp lịch là người phát biểu chính. Vai trò này được dành cho TS. Johannes Dingfelder nào đấy, một bác sĩ vật lý theo phương pháp vi lượng đồng cân, con người lập dị đã đóng góp nhiều bài viết về kinh tế trên các báo, và là người chẳng bao lâu đi vào lãng quên. Mọi người đều im lặng sau bài diễn văn của ông; rồi đến phiên Hitler phát biểu. Theo như Hitler mô tả, hội trường trở nên ồn ào với những tiếng la ó, và hỗn loạn vì đảng viên trung thành xô xát với người theo Cộng sản và Xã hội.

Answers [ ]

  1. – Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cuối năm 1929 đã giáng đòn nặng nề làm kinh tế – chính trị – xã hội, Đức khủng hoảng trầm trọng.

    – Để đối phó lại khủng hoảng, giai cấp tư sản cầm quyền quyết định đưa Hit-le thủ lĩnh Đảng Quốc xã Đức lên nắm chính quyền.

  2. Năm 1933, khi Đảng Quốc gia Xã hội Đức [Đảng Quốc Xã hoặc Nazi] thắng cử và Hitler lên nắm quyền,

    Có nhiều ý kiến cho rằng tài năng lãnh đạo của Hitler trong các hoạt động xây dựng kinh tế đã thuyết phục được người Đức

    Đây là câu trả lời của mình mong bạn góp ý kiến để mình sửa chữa

Video liên quan

Chủ Đề