Hiện tượng phong đòn gánh ở chuột

Hiện tượng phong đòn gánh ở chuột
Uốn ván và phong đòn gánh - những thông tin cần thiết.

Uốn ván và phong đòn gánh thực chất là cùng một bệnh. Chúng chỉ là tên gọi khác của nhau. Đây là chứng bệnh gây nên do vi khuẩn uốn ván. Loại vi khuẩn này có mặt khắp mọi nơi và được tìm thấy chủ yếu trong đất. Nó gây hại nghiêm trọng đến hệ thần kinh, nếu không được điều trị kịp thời có thể gây tử vong. Tuy nhiên uốn ván là căn bệnh không gây truyền nhiễm và hiện nay đã có vắc xin phòng bệnh.

Triệu chứng của bệnh uốn ván và phong đòn gánh

Bệnh uốn ván và phong đòn gánh có rất nhiều triệu chứng. Mỗi thời kỳ sẽ có những triệu chứng khác nhau. Dưới đây là những triệu chứng thường gặp qua các thời kỳ bạn có thể tham khảo.

Thời gian ủ bệnh

Thời gian ủ bệnh uốn ván và phong đòn gánh thông từ là từ 2 - 20 ngày. Đặc biệt thời gian ủ bệnh phụ thuộc phần lớn vào số lượng ngoại độc tố sinh ra và số lượng vi khuẩn. Ủ bệnh trong thời gian ngắn thì bệnh càng nặng, ngược lại thời gian ủ bệnh dài thì bệnh nhẹ.

Thời kỳ xâm lấn

Đây được xem là thời gian xuất hiện các triệu chứng đầu tiên như mệt mỏi, lo âu, dễ bị kích thích.

Dấu hiệu lâm sàng thường thấy là co cứng các cơ hay cứng hàm gây đau đớn. Lúc đầu người bệnh sẽ thấy triệu chứng đau miệng, sau đó khi ăn cổ họng thấy khó nuốt. Đồng thời toàn cơ thể sẽ rơi vào trạng thái xấu đi, mệt mỏi, đau cơ, thân nhiệt tăng lên từ 37,5 - 38 độ C.

Thời kỳ toàn phát

Đây là thời kỳ xảy ra sau 24 - 48 giờ cơ thể sẽ bị đau các cơ, thêm nữa sẽ có những cơn đau dội lên. Khuôn mặt người bị uốn ván và phong đòn gánh trở nên kỳ quặc hơn bởi mọi cơ mặt bị co cứng. Đầu ngửa ra sau, gáy cũng co cứng, cơ 2 bên cột sống và cơ thân mình xuất hiện tư thế đặc biệt như cái đòn gánh uốn cong.

Thêm nữa mỗi khi cử động, cơ sẽ bị đau đớn. Co thắt các cơ hô hấp làm cản trở hoạt động hô hấp của người bệnh, đôi khi có thể ngạt thở.

Phương pháp điều trị uốn ván và phong đòn gánh

Hiện tượng phong đòn gánh ở chuột
Rửa sạch vết thương để tránh kích thích gây ra các cơn co cơ uốn ván.

Bệnh uốn ván và phong đòn gánh điều trị không hề khó. Tuy vậy bạn cần đến các cơ sở chuyên khoa để được điều trị một cách khoa học nhất. Dưới đây là có giải pháp cơ bản, bạn có thể tham khảo:

Rửa vết thương

Uốn ván và phong đòn gánh khi toàn phát bạn cần chờ đến khi sử dụng thuốc an thần mới có thể rửa vết thương. Đây là giải pháp hữu hiệu để tránh kích thích gây ra các cơn co cơ.

Bác sĩ sẽ thực hiện kháng uốn ván bằng cách tiêm tĩnh mạch miễn dịch globulin 5.000 - 10,000 đơn vị vào ngày thứ nhất. Vào ngày tiếp theo tiêm 3.000 đơn vị để thực hiện trung hòa độc tố lưu hành.

Lưu ý nếu không có globulin miễn dịch người có thể thay thế bằng huyết thanh kháng uốn ván có nguồn gốc từ động vật.

Sử dụng thuốc an thần

Bác sĩ sẽ cho bệnh nhân sử dụng diazepam liều 10 - 30mg theo đường tĩnh mạch 3 giờ một lần với thể nặng hoặc sử dụng 5 - 10 mg theo đường uống. Với thể nhẹ bạn có thể sử dụng 4 - 6 giờ. Thêm nữa có thể dùng chlorpromazine theo đường tiêm bắp với liều 25mg từ 4 đến 8 giờ/lần.

Uống thuốc kháng sinh

Để điều trị uốn ván và phong đòn gánh bạn còn có thể sử dụng thuốc kháng sinh. Bác sĩ thường sử dụng benzylpenicilin với liều 10 - 20 triệu đơn vị truyền tĩnh mạch.

Ngoài ra bác sĩ cũng có thể sử dụng tetracyclin 0,5g 6 giờ một lần sử dụng.

Giải pháp phòng bệnh uốn ván và phong đòn gánh

Để phòng uốn ván và phong đòn gánh giải pháp hữu hiệu nhất chính là tiêm vắc xin phòng bệnh.

Hiện tượng phong đòn gánh ở chuột
Tiêm vắc xin phòng bệnh uốn ván.

Thêm nữa nếu xuất hiện vết thương bạn có thể phòng ngừa bằng cách, thực hiện rửa vết thương bằng xà phòng ngay lập tức. 

Bạn nên tiêm vắc xin cho con từ tháng thứ 2 để có thể phòng bệnh một cách tốt nhất.

Đặc biệt, nên chích uốn ván khi nào?,  nếu có vết thương đáng nghi thì lưu ý những điểm sau:

  • Bạn đã thực hiện tiêm phòng và tiêm nhắc lại dưới 5 năm thì không cần biện pháp phòng ngừa nào khác.
  • Bệnh nhân đã được tiêm phòng nhưng chưa thực hiện tiêm nhắc lại từ 10 năm trở lên thì:
    • Vết thương dưới 6 giờ, các mô tổn thương còn ít thì thực hiện tiêm nhắc lại và giải độc tố uốn ván.
    • Các mô tổn thương nhiều, vết thương lớn hơn 6 giờ bạn cần tiêm nhắc lại, kháng và giải độc tố uốn ván.

Ngoài ra, trường hợp bệnh nhân chưa từng tiêm phòng thì cần đến ngay cơ sở y tế gần nhất để được tiêm giải độc tố và vắc xin.

Thêm nữa cần thực hiện khám sức khỏe định kỳ, đặc biệt là khám thần kinh và cơ bắp. Bác sĩ sẽ lấy mẫu bằng cách lấy một miếng gạc trên vết thương gửi đến phòng thí nghiệm nhằm tìm ra vi khuẩn uốn ván.  

Trên đây là tất cả những thông tin cần biết  uốn ván và phong đòn gánh. Hy vọng với bài viết này bạn đã có cho mình được kiến thức cơ bản về chứng bệnh này.

Uyên

Bệnh uốn ván là một nhiễm khuẩn nguy hiểm, có tỷ lệ tử vong cao, đặc trưng bởi tăng trương lực cơ và các cơn co cứng, gây ra bởi một độc tố protein mạnh là tetanospasmin do Clostridium tetani tiết ra.

Bệnh uốn ván là một nhiễm khuẩn nguy hiểm, có tỷ lệ tử vong cao, đặc trưng bởi tăng trương lực cơ và các cơn co cứng, gây ra bởi một độc tố protein mạnh là tetanospasmin do Clostridium tetani tiết ra.

Bệnh uốn ván xuất hiện rải rác ở các vùng nông thôn; ở các nước không có Chương trình tiêm chủng mở rộng thì bệnh ở trẻ sơ sinh và người trẻ tuổi chiếm tỷ lệ cao. Bệnh uốn ván thường xảy ra sau một tổn thương cấp tính như vết chích da, vết rách da, vết trầy da, bỏng, viêm tai giữa, phẫu thuật, sảy thai, sinh đẻ...

Uốn ván là một bệnh nhiễm trùng cấp tính có tỷ lệ tử vong cao do ngoại độc tố của trực khuẩn uốn ván ( Clostridium tetani ) gây ra.  Khi mắc bệnh uốn ván tỷ lệ tử vong rất cao 25 – 90% . Đặc biệt là uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh, tử vong trên 95%. Trực khuẩn này phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí, sau đó giải phóng ngoại độc tố vào máu và tấn công vào các bản vận động thần kinh – cơ, làm cho bệnh nhân bị co cứng cơvà trên nền cứng đó xuất hiện các cơn co giật.

Thời kỳ ủ bệnh khoảng 4 – 21 ngày. Tử vong do suy hô hấp, rối loạn thần kinh thực vật và ngừng tim.

I. NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH UỐN VÁN:

Do bị trầy xát và viết thương tiếp xúc trực tiếp với trực  khuẩn uốn ván Clostridium tetani có trong đất, cát bụi, phân trâu bò ngựa và gia cầm, cống rãnh, dụng cụ phẫu thuật không tiệt trùng kỹ …, xâm nhập vào các vết thương, vết xây xước phát triển thành ổ nhiễm trùng  gây bệnh uốn ván.

Những người có nguy cơmắc cao :

-       Người làm vườn

-       Người làm việc ở các trang trại, các nông trường chăn nuôi gia súc và gia cầm

-       Người dọn vệ sinh cống rãnh, chuồng trại.

-       Công nhân xây dựng các công trình.

-       Bộ đội và thanh niên xung phong.

Đặc điểm của vi khuẩn gây bệnh:

Vi khuẩn C.tetani là trực khuẩn gram dương, di động, kỵ khí, có hình bầu dục, không có màu, nha bào có mặt ở khắp nơi trên thế giới: trong đất, môi trường kỵ khí, phân súc vật, phân người. Nha bào có thể tồn tại nhiều năm trong một số môi trường và kháng với nhiều loại thuốc khử khuẩn, không bị tiêu diệt khi bị đun sôi 20 phút. Nhưng khi ở dạng các tế bào thực vật, chúng dễ dàng bị khử hoạt tính và nhạy cảm với nhiều kháng sinh như: metronidazol, penicillin...

Hiện tượng phong đòn gánh ở chuột

Trực khuẩn uốn ván

II. CÁC BIỂU HIỆN LÂM SÀNG:

Bệnh khởi phát sau chấn thương, trung bình là 7 ngày; 15% số trường hợp khởi phát bệnh trong vòng 3 ngày và 10% khởi phát bệnh sau 14 ngày. Uốn ván toàn thân là thể bệnh hay gặp nhất. Dấu hiệu điển hình là tăng trương lực cơ và co cứng toàn thân. Lúc đầu tăng trương lực cơ ở các cơ nhai, nuốt khó và cứng hay đau các cơ cổ, vai, lưng. Kế tiếp các cơ khác cũng bị tăng trương lực gây ra cứng bụng và cứng các cơ ở gốc chi; do co cứng liên tục các cơ mặt, tạo ra một vẻ mặt nhăn nhó hay kiểu cười khẩy, cười nhăn, co cứng cơ lưng tạo ra một tư thế lưng cong ưỡn lưng. Ở một số bệnh nhân xuất hiện các cơn co cứng toàn thân kịch phát, với cường độ mạnh, những cơn đau làm cho bệnh nhân xanh tím và đe dọa ngừng thở. Các cơn này có thể lặp đi lặp lại, có thể là tự phát hoặc do kích thích dù là rất nhẹ. Ở mức độ nhẹ, bệnh nhân chỉ bị tình trạng cứng cơ và có một vài cơn co cứng hoặc không có cơn co cứng nào. Thể vừa có dấu hiệu cứng hàm, khó nuốt, cứng cơ và các cơn co cứng. Trường hợp nặng, bệnh nhân bị nhiều cơn kịch phát, có thể bị sốt (phần lớn không sốt). Các phản xạ gân sâu tăng. Nuốt khó hoặc chướng bụng làm cho bệnh nhân ăn uống khó khăn.

Rối loạn hệ thần kinh thực vật như huyết áp tăng thất thường, hay thường xuyên; nhịp tim nhanh, loạn nhịp tim; sốt cao, vã mồ hôi. Một số biến chứng về tim mạch có thể gặp là hạ huyết áp và chậm nhịp tim, đôi khi xuất hiện ngừng tim đột ngột. Những biến chứng khác là viêm phổi, gãy xương, vỡ cơ, loét do nằm và ly giải cơ vân.

Uốn ván ở trẻ sơ sinh, thường khởi phát trong 2 tuần đầu sau khi sinh với các dấu hiệu: trẻ bỏ bú, cứng cơ và các cơn co cứng; thường là uốn ván toàn thân và dễ dẫn đến tử vong nếu không điều trị.

Uốn ván cục bộ ít gặp, biểu hiện chỉ giới hạn ở các cơ gần vết thương, đây là thể nhẹ, tiên lượng tốt. Uốn ván đầu là một hình thái hiếm gặp của uốn ván cục bộ, diễn ra sau chấn thương đầu hay nhiễm khuẩn tai. Các triệu chứng gồm cứng hàm, rối loạn chức năng một hoặc nhiều dây thần kinh sọ, thường gặp là dây số 7, tỷ lệ tử vong cao.

III.  PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ

Hiện tượng phong đòn gánh ở chuột
Nguyên tắc điều trị là diệt trừ vi khuẩn, trung hòa độc tố, ngăn ngừa các cơn co cứng cơ, theo dõi và xử trí hỗ trợ hô hấp. Bệnh nhân phải được chăm sóc trong một căn phòng yên tĩnh để giám sát và theo dõi tim, phổi thường xuyên, hạn chế mọi sự kích thích. Duy trì và bảo vệ đường thở. Xử lý vết thương sạch sẽ, loại bỏ triệt để các dị vật.

- Dùng kháng sinh: tiêu diệt tận gốc tế bào thực vật là nguồn sản sinh ra độc tố. Có thể dùng một trong các thuốc như sau: penicillin 10 – 12 triệu đơn vị tiêm mỗi ngày x 10 ngày; metronidazol 500mg mỗi 6 giờ hay 1g mỗi 12 giờ; dùng clindamycin, erythromycin. Đồng thời phải điều trị đặc hiệu với nhiễm khuẩn do các vi khuẩn khác gây ra.

- Dùng kháng độc tố uốn ván: để vô hiệu hóa độc tố lưu hành trong máu và độc tố ở vết thương nhằm làm giảm tỷ lệ tử vong; kịp thời dùng globulin miễn dịch uốn ván của người. Tốt nhất là nên tiêm kháng độc tố trước khi điều trị vết thương.

- Kiểm soát các cơn co cứng: Dùng một hay phối hợp các thuốc sau đây: diazepam được sử dụng phổ biến: lorazepam, barbiturat, chlorpromazin. Thuốc phong bế thần kinh cơ kết hợp với thở máy để điều trị các cơn co cứng không đáp ứng với thuốc hoặc các cơn co cứng đe dọa ngừng thở.

- Điều trị hỗ trợ: Mở khí quản có thể kết hợp hoặc không kết hợp với thở máy; bù nước và điện giải; tăng cường dinh dưỡng bằng truyền dịch hoặc cho ăn qua ống thông vào dạ dày; vật lý trị liệu để đề phòng cứng cơ; dùng heparin và các chất kháng đông khác để đề phòng tắc mạch phổi; theo dõi chức năng của thận, bàng quang và ruột; phòng chống chảy máu và loét đường tiêu hóa.

- Dùng vaccin gây miễn dịch chủ động: Tất cả bệnh nhân phải được tiêm vaccin sau khi bệnh đã phục hồi.