Khu lăng mộ An Sinh được xây cất ở đâu như thế nào

Quảng Ninh là vùng đất tổ của thời nhà Trần, nơi đây có nhiều công trình kiến trúc các di tích lịch sử tiêu biểu gắn liền với triều đại nhà Trần hùng mạnh. Một di tích không thể bỏ qua khi đến với Quảng Ninh đó là khu lăng mộ An Sinh nơi đây được biết đến là nơi thờ tự các vị vua nhà Trần. Ngoài ra nơi đây còn là trung tâm tín ngưỡng dưới thời nhà Trần, Lê, Nguyễn.. để tìm hiểu rõ hơn về khu di tích lịch sử này cùng chúng tôi qua bài viết dưới đây nhé.

Vị trí của khu lăng mộ An Sinh

Địa điểm nằm ở xã An Sinh, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Từ quốc lộ 18 đến ngã ba Đông Triều rẽ trái [nếu xuất phát từ Hà Nội] khoảng 5 cây số là đến Đền An Sinh. Khu di tích bao gồm điện thờ các vị vua thời Trần và lăng, nằm rải rác trong một khuôn viên rộng lớn với bán kính 20km, nơi đây thờ  “Bát vị Hoàng Đế” của triều đại nhà Trần. Di tích này được xây dựng vào triều đại nhà Trần và được trùng tu vào các triều Hậu Lê và triều Nguyễn. Trải qua thời gian, di tích đã xuống cấp và đã được trùng tu, tôn tạo. Chính quyền tỉnh Quảng Ninh đầu tư 4 tỷ đồng, hoàn thành năm 2000. Đây là một trong những công trình kỷ niệm có giá trị nhất trong lịch sử Việt Nam, Khu lăng mộ An Sinh đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử.

Năm 1381, nhà Trần cho xây dựng Lăng mộ An Sinh, nơi thờ tự dành riêng cho các vị vua của nhà Trần. Khu đền An Sinh còn là  nơi đào tạo hàng nghìn con em đồng bào miền Nam trong gần 20 năm, góp phần cùng mạng lưới miền Nam đào tạo cán bộ, chuẩn bị cho sự nghiệp cách mạng miền Nam.

Đền An Sinh, nơi thờ các vị vua của triều đại nhà Trần, cũng là biểu tượng của các công trình văn hóa tôn giáo cổ kính mang yếu tố lịch sử. Vì vậy, những công trình này không chỉ được nhà Trần, mà cả nhà Lê và nhà Nguyễn quan tâm.

Trong khu lăng mộ An Sinh có các tấm bia Thiên Hựu Năm 1557, Chính Hòa năm 1689, Cảnh Hưng năm 1767, Minh Mạng năm 1840, và Bảo Đại năm 1927, những tấm văn bia đá này thể hiện khi lăng mộ đã được bảo quản và trùng tu nhiều lần qua nhiều năm. Trải qua mỗi lần trùng tu khu lăng mộ An Sinh đều ghi nhận lại những công đức và công đức được khắc các lệnh chỉ của triều đình để nhân dân trông coi khu lăng mộ từ đó ai trông coi sẽ được miễn mọi khoản binh dịch, thuế khóa

Sau nhiều lần sửa chữa, khu lăng mộ An Thành vẫn giữ nguyên thiết kế kiến ​​trúc theo lối kiến ​​trúc xưa, đó là hình chữ Công, gồm ba toà là toà tiền đường, trung đường và hậu cung, mỗi bên có hai dãy bài vị. .. Một bên của lăng là nhà khách đặt bàn thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, bên còn lại làm nhà trưng bày di sản văn hóa nhà Trần cho du khách tham quan.

Kiến trúc khu lăng mộ 

Khu lăng mộ 

Là vùng đất Long Hưng nơi gây dựng nghiệp của nhà Trần nên nơi này được triều Trần đặc biệt chú trọng và chỉ phân phong đất cho các thân vương. Đặc biệt, nơi an nghỉ của các vua thời Trần thì ngôi mộ tổ của họ Trần được đặt tại hương Tinh Cương.

Vùng đất này tiếp tục được lựa chọn làm nơi an nghỉ của các vị vua đầu triều Trần và hoàng tộc nhà Trần. Khi Thái Tổ Trần Thừa mất Hương Tinh Cương đổi tên thành Thái Đường và nơi đây trở thành khu lăng tẩm của vua và các hoàng tộc. Bắt đầu từ năm 1320 trở đi, các vị vua và các hoàng hậu thời Trần mất đều được đưa về an táng tại khu lăng mộ An Sinh.

Ngày nay, Khu lăng mộ nơi thờ các vị vua thời Trần được ước tính diện tích khá lớn khoảng 38.221m2 và được nhân dân gọi Phần Đa, Phần Trung, phần Bụt ứng với Chiêu lăng, Dụ Lăng, Đức Lăng – đây là nơi yên nghỉ của các vua thời Trần: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và đền thờ Thượng hoàng Trần Thừa. Các lăng mộ đều đã được tôn tạo vào năm 2004, có tường kè xây bằng gạch bao quanh, theo hình đường tròn đồng tâm với đường kính 65m, được xây cao 1,2m mét so với sân tế.

Khu đền thờ 

Ngày xưa, đền có tên là “Trần đế miếu” và đặt nằm ở vị trí đền Mẫu ngày nay. Khu đền thờ trong quần thể kiến trúc thuộc khu lăng mộ An Sinh được thiết kế bao gồm hai tòa, mặt bằng hình chữ nhị, với 07 gian tiền tế kết hợp cùng với đó là 05 gian hậu cung. Tất cả khung kiến trúc được làm bằng gỗ, chạm trổ cầu kỳ. Vì vậy, cho dù trải qua nhiều biến cố của thời gian và lịch sử, khu đền thờ An Sinh  bị hủy hoại và đổ nát, nhưng sau này đền đã được phục dựng lại trên nền cũ. Hiện nay, khu đền An Sinh gồm các hạng mục chính như sau: 

  • Đền Vua: Được xây dựng với diện tích lên tới 6.498m2, là nơi thờ ba vua đầu tiên của triều Trần là Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và thờ Thượng hoàng Trần Thừa, các vị tằng tổ, cao tổ nhà Trần.
  • Đền Thánh: được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống với tổng diện tích là 6.011m2 bao gồm các hạng mục là cổng, sân tế, lầu chiêng, lầu trống, tiền tế, phương đình, hậu cung, trung tế và giải vũ… Nơi đây thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn cùng phu nhân Nguyên Từ Quốc mẫu và thờ hai con gái là Đại Hoàng Công chúa và Quyên Thanh Quận chúa.
  • Đền Mẫu: tổng diện tích 6.228 m2 nơi đây thờ các vị quốc mẫu và công chúa đầu tiên của triều Trần. 

Các di tích khảo cổ

Các di tích khảo cổ học tại khu lăng mộ được khai quật diện rộng bao gồm:  các tòa Chính Điện, các tòa Thái Miếu, các điện thờ ở Tây Thất hay toà Tả Vu và Hữu Vu, khu lăng mộ chính để thờ các vị vua thời Trần, sân đền rồng, cùng với các công trình kiến trúc hình chữ Công và chữ nhật ở khu Đông Trù…..

Với những thông tin bài viết trên vừa chia sẻ về khu lăng mộ An Sinh – đền thờ các vị vua thời nhà Trần sẽ giúp các bạn có thêm kiến thức cũng như có dịp đến Quảng Ninh tham quan khám phá ngôi đền này bổ ích nhất.

Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần thuộc phủ Long Hưng xưa, là vùng đất có vị thế địa - kinh tế - chính trị - văn hóa đặc biệt quan trọng, gắn với nhiều sự kiện lịch sử thời Trần và lịch sử dân tộc, là hậu phương, nền tảng vững chắc, để của nhà Trần thay thế vai trò chính trị của nhà Lý.

Di tích gồm ba phân khu chính: Khu lăng mộ, khu đền thờ và khu di tích khảo cổ học:

1. Khu lăng mộ

Vùng đất Long Hưng vốn là nơi dựng nghiệp của nhà Trần, vì thế đã được triều Trần đặc biệt chú trọng, phân phong cho các thân vương. Nơi đặt mộ tổ của họ Trần tại hương Tinh Cương [nay thuộc thôn Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình] tiếp tục được lựa chọn làm nơi an nghỉ của các vị vua đầu triều và hoàng tộc nhà Trần: Thái tổ Trần Thừa táng tại Thọ Lăng; Thái Tông táng tại Chiêu Lăng, Thánh Tông táng tại Dụ Lăng, Nhân Tông táng tại Đức Lăng. Sau khi Thái Tổ Trần Thừa mất, hương Tinh Cương chính thức được đổi tên thành Thái Đường [khu lăng tẩm của vua và hoàng tộc].

Từ năm 1320 trở đi, các vua và hoàng hậu nhà Trần sau khi mất đều được đưa về an táng tại khu vực An Sinh [thuộc Đông Triều, Quảng Ninh ngày nay]. Năm 1381, Trần Phế Đế đã rước thần tượng của các vua Trần về thờ ở An Sinh. Tuy nhiên, khu lăng mộ và đền thờ nhà Trần ở Thái Đường vẫn được nhà Trần và cộng đồng sở tại đặc biệt quan tâm, tiếp tục duy tu, xây dựng mở rộng thêm. Lê Quý Đôn khẳng định trong Kiến văn tiểu lục: “Xã Thái Đường, huyện Ngự Thiên có 4 cái lăng của Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông nhà Trần lại có lăng của 4 hoàng hậu...”. Sách Đồng Khánh ngự lãm dư địa chí lược [thời Nguyễn] cũng đề cập tới khu lăng mộ: “Miếu thờ các vua Trần ở xã Thái Đường, hướng Nam, trước miếu có ba gò ấn kiếm, sau miếu có bảy gò thất tinh”.

Trước năm 1945, trên địa bàn Tam Đường vẫn còn đền thờ các vua Trần. Phía trước đền [phía Nam] có 3 ngôi mộ lớn là: Phần Trung, Phần Bụt, Phần Đa, chếch về phía Tây - ở vị trí cách đê sông Hồng gần 500m có một ngôi mộ cổ, nhân dân quen gọi là Phần Cựu. Phía Đông Bắc đền thờ có Mả Tít, Vườn Màn, Bến Ngự và chùa Bến. Phía sau đền thờ [phía Bắc] có 7 ngôi mộ đối diện với Phần Trung, Phần Bụt, Phần Đa, tạo thành thế “ tiền tam thai hậu thất tinh”.

Khu thất tinh gồm phần Ốc, Quang, Ổi, Lợn, Mao, Gà và phần Bà Già. Tương truyền, phần Ốc là nơi đặt mộ cụ Trần Hấp, phần Quang là lăng mộ của Nguyên tổ Trần Lý, các phần còn lại trong khu “thất tinh” là nơi chôn cất các hoàng hậu công chúa đầu triều Trần. Sau năm 1945, phần Cựu và các phần trong khu “thất tinh” đều bị lấy đất cấp cho dân sinh sống, canh tác.

Khu lăng mộ các vua Trần hiện nay có tổng diện tích 38.221m2, được nhân dân gọi là Phần Đa, Phần Trung, phần Bụt, tương ứng với Chiêu lăng, Dụ Lăng, Đức Lăng - nơi yên nghỉ của Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và 01 ngôi đền thờ Thượng hoàng Trần Thừa, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông. Cả ba lăng mộ đều đã được tôn tạo vào năm 2004, có tường kè bằng gạch bao quanh, theo hình đường tròn đồng tâm, có đường kính 65m, cao 1,2m mét so với sân tế.  Riêng phần mộ ở giữa có đường kính là 55m, chiều cao từ sân tế đến đỉnh mộ là 7m, giữa mộ đặt chữ Trần [陳] trong một khung sắt hình chữ nhật.

2. Khu đền thờ

Trước kia, đền có tên là “Trần đế miếu”, nằm ở vị trí đền Mẫu ngày nay. Kiến trúc đền gồm hai tòa, mặt bằng hình chữ nhị, với 07 gian tiền tế, 05 gian hậu cung, bộ khung kiến trúc làm bằng gỗ, chạm trổ cầu kỳ. Trong đền thờ các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, phối thờ Thượng hoàng Trần Thừa và các vị hoàng hậu đầu triều Trần.

Trải qua nhiều biến cố của thời gian và lịch sử, khu đền thờ bị hủy hoại, đổ nát. Từ những năm 90 của thế kỷ trước, được sự quan tâm của chính quyền các cấp, cùng nhân dân địa phương, đền đã được phục dựng lại trên nền cũ. Hiện nay, khu đền gồm các hạng mục: đền Vua [ở giữa], đền Thánh [ở phía Đông, bên tả đền Vua] và đền Mẫu [ở phía Tây, bên hữu đền Vua]. Ba kiến trúc này đều quay hướng Nam, hướng về khu vực lăng mộ, được bố trí dàn hàng ngang, có chung sân lễ hội, đường nghi lễ, cửa chính [Ngọ môn].

Đền Vua: được xây dựng với diện tích 6.498m2, nơi thờ ba vua đầu triều Trần [Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông], phối thờ Thượng hoàng Trần Thừa và các vị cao tổ, tằng tổ nhà Trần là Trần Kinh, Trần Hấp, Trần Lý, cùng hai người có công mở nghiệp nhà Trần là Trần Thị Dung, Trần Thủ Độ. Đền quay hướng Nam, gồm các hạng mục: cổng, sân tế, giếng ngọc, cổng sang đền Thánh, đền Mẫu, cổng vào phía sau đền, tiền tế, trung tế, hậu cung và hai tòa giải vũ.

Đền Thánh: được xây dựng theo dạng thức truyền thống, diện tích 6.011m2, gồm các hạng mục: cổng, sân tế, lầu chiêng, lầu trống, tiền tế, phương đình, trung tế, hậu cung và giải vũ… Đền là nơi thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, phu nhân Nguyên Từ Quốc mẫu và hai con gái là Quyên Thanh Quận chúa, Đại Hoàng Công chúa.

Đền Mẫu: thờ các vị quốc mẫu và công chúa đầu triều Trần, tổng diện tích 6.228 m2, với các hạng mục: giếng ngọc, bình phong, sân tế, giải vũ, tiền tế, trung tế và hậu cung…

3. Khu di tích khảo cổ học nhà Trần

Khu di chỉ khảo cổ học Tam Đường [thời Trần], xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, đã được khai quật khảo cổ nhiều lần, phát hiện được dấu vết kiến trúc và nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, với niên đại từ thời Lý đến Nguyễn, đặc biệt là nhóm hiện vật thời Trần,… minh chứng cho giá trị và sự tồn tại của di tích qua các thời kỳ lịch sử. Vào khoảng những năm 1979 - 1990, các nhà khảo cổ học đã tiến hành khai quật 4 lần ở Tam Đường, kết quả khai quật cho thấy: Tam Đường là vùng đất đặt tôn miếu, lăng mộ các vua và hoàng hậu đầu triều Trần [như chính sử đã ghi]; Tam Đường là nơi đặt hành cung Long Hưng để các vua Trần ngự trong những lần về làm lễ bái yết tổ tiên.

Giá trị lịch sử - văn hóa của di tích còn được biểu hiện qua lễ hội truyền thống, được tổ chức thường niên tại khu vực đền thờ các vua Trần từ ngày 13 đến ngày 16 tháng Giêng. Ngoài nghi thức rước nước và tế tự, trong hội còn có nhiều tục, lệ, trò diễn dân gian, như thi cỗ cá, vật cầu, đấu gậy, thả diều, chọi gà, nấu cơm cần..., đặc biệt là những sinh hoạt văn hoá gắn với tục kết chạ giữa hai làng Tam Đường và Vân Đài. Đây là một trong những lễ hội lớn của tỉnh Thái Bình và khu vực, có sức hấp dẫn đặc biệt đối cộng đồng và du khách. Trong suốt chiều dài lịch sử, di tích luôn đóng vai trò là một trung tâm sinh hoạt văn hóa đặc biệt quan trọng của nhân dân sở tại và vùng phụ cận. Việc bảo tồn và phát huy hiệu quả những giá trị di sản văn hóa nơi đây sẽ góp phần vào việc giáo dục truyền thống yêu nước, tự hào dân tộc, cố kết cộng đồng, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc biệt, di tích lịch sử Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần [huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình] đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31/12/2014 Thủ tướng Chính phủ.

Nguyễn Khắc Đoài [theo Hồ sơ di tích Cục Di sản văn hóa]

Video liên quan

Chủ Đề