Lập bằng so sánh tư tưởng của Mạnh Tử và Tuân Tử

Nhắc đến Tuân Tử hẳn chúng ta ai cũng sẽ nhớ đến “ Thuyết Tuân Tử” và cũng như tính bản ác mà ông nêu ra đối lập với tính bản thiện của Mạnh Tử. Vậy Tuân Tử là ai, hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu nhé!

Tuân Tử tự là Khanh hay còn gọi là Tôn Khanh, sống ở cuối thời kỳ Chiến quốc, là người nước Triệu. Cống hiến lớn nhất của Tuân Tử đó chính là tiến hành cải tạo tư tưởng “ Lễ” của Nho gia . Ông được coi là một danh nhân văn hóa, đóng góp rất lớn cho nền văn hóa đồ sộ của Trung Quốc.

Tuân Tử cũng coi trọng lễ nhưng lễ của Tuân Tự lại không giống với lễ của Khổng Tử. Lễ của Khổng Tử là Châu Lễ còn Lễ của Tuân Tử là Lễ của  thời đại chiến quốc. Ông kết hợp cả lễ và pháp vào với nhau, ngoài đạo đức ra trong lễ còn có pháp.

Đối với học thuyết “ Nhân Chính” của Mạnh Tử, Tuân Tử cho rằng, trong tình hình các nước chư hầu không ngừng tranh đấu, giành giật nếu chỉ có nhân chính thì không đủ mà còn phải tiến hành chính sách tác chiến, tăng cường thế lực của quốc gia. Tư tưởng quan điểm này của Tuân Tử thực tế là quá độ từ “ Lễ Trị” của Nho gia lên “ Pháp Trị” của Pháp gia.

Đối lập với thuyết “ nhân chi sơ tính bản thiện” của Mạnh Tử, Tuân Tử lại cho rằng “ nhân chi sơ tính bản ác”. Học thuyết tính ác của Tuân Tử có nghĩa rằng, con người sinh ra vốn dĩ là ác, có được thiện là do quá trình bồi dưỡng, giáo dục mà có. Ông cho rằng, con người khi sinh ra có đầy đủ dục vọng như ham lợi , ham sắc… Nếu như con người cứ phát triển theo dục vọng thì mối quan hệ giữa người và người sẽ phát sinh ra tranh đấu và tạo nên 1 xã hội hỗn loạn, do đó mới cần phải có “ lễ nghi” để điều chỉnh, sửa đổi bản tính ác của cong người, tránh tạo ra 1 xã hội hỗn loạn phức tạp.

Còn đối với mối quan hệ giữa người và trời, quan điểm của Tuân tử khác hẳn với những quan điểm của các nhà tư tưởng trước đó , đó là “ con người nhất định sẽ thắng đợi trời”. Ông cho rằng “ trời” tồn tại 1 cách khách quan, có quy luật khách quan của trời, sẽ không vì ý chí của con người mà chuyển dời nhưng con người thì khác có thể phát huy tính năng động chủ quan của mình, lợi dụng quy luật tự nhiên để chiến thắng tự nhiên , tiến hành cải tạo theo ý muốn của mình. Tư tưởng này của Tuân Tử cho thấy 1 bước phát triển tiến bộ so với tư tưởng “ nghe theo mệnh trời” của Khổng Tử và Mạnh Tử.

Giả dụ chúng ta nhìn Nho học bằng khái niệm tổng quát, thì thấy Khổng Tử thuộc về đạo “Nhân”, Mạnh Tử thuộc về đạo “Nghĩa”, còn Tuân Tử thì thuộc về đạo “Trí”. Nhân giả, giàu tình thương, có lòng thành khẩn và tâm hồn quảng đạt; Nghĩa giả, cương trực tiết tháo, thị phi phân minh, biểu lộ khí phách hiên ngang, độc lập của phần tử trí thức; Trí giả, nhận xét sự vật bằng lý tính, phải là phải, trái là trái, không bị ảnh hưởng bởi tình cảm. Dùng lý trí khách quan của Tuân Tử, bổ túc cho đạo đức chủ quan của Khổng – Mạnh, giúp cho chủ thuyết Nho học càng hoàn hảo hơn, hội đủ điều kiện tất yếu, vừa là giáo phái, vừa là học phái. Phần bổ túc đó, có ba điểm trọng đại nhất sau đây:1/- Túc dục: Khổng Tử từng chủ trương “tiên phú hậu giáo” Mạnh Tử cũng từng khuyên vua chúa, nên hữu sản hóa cho lê dân, chứng tỏ Nho học đã có sẵn quan niệm “túc dục” [thỏa mãn cho đòi hỏi]. Song, quan niệm đó, vô tình lại mâu thuẫn với giá trị căn bản trong tư tưởng Khổng – Mạnh, như Khổng Tử từng bảo: “Quân tử mưu đạo bất mưu thực”. Và Mạnh Tử cũng kêu gọi người đời nên “quả dục” [bớt đòi hỏi đi]. Trái lại, giá trị căn bản của Tuân Tử bất do Nhân, bất do Nghĩa mà đánh giá vào chữ LỄ”. Một trong những công hiệu của Lễ, là “Dưỡng nhân chi dục cấp nhân chi cầu”. [Chấp nhận những đòi hỏi chính đáng của người ta, và thỏa mãn theo nhu cầu cho người ta]. Cho nên Tuân Tử đề xướng chính sách tăng gia sản xuất cho nước giàu mạnh, đặng có đủ điều kiện “túc dục” cho dân.2/- Hợp quần: Đây là tư tưởng xã hội của Tuân Tử với câu: “Lực bất nhược ngưu, tẩu bất nhược mã, nhi ngưu mã vi dụng hà giã? Viết: Nhân năng quần, bỉ bất năng quần… Cố nhân sinh bất năng vô quần, quần nhi vô phấn tắc tranh, tranh tắc loạn, loạn tắc ly, ly tắc nhược, nhược tắc bất năng thắng vật… Năng dĩ sư thân vị chi hiếu, năng dĩ sư huynh vị chi dễ, năng dĩ sư thượng vị chi thuận, năng dĩ sư hạ vị chi quân. Quân giả, thiện quần giã, quần đạo đương, tắc vạn vật giai đắc kỳ nghi”. [Sức chẳng mạnh bằng trâu, chạy chẳng nhanh bằng ngựa, sao trâu ngựa lại để cho ta khiển dụng? Câu trả lời là: Người ta biết hợp quần, trâu ngựa không biết hợp quần… Cho nên người ta sinh ra chẳng thể không hợp quần, nhưng đã hợp quần mà không định phận là tranh giành nhau, hễ tranh là loạn, loạn thì chia rẽ nhau, chia rẽ nhau thì yếu, đã yếu thì chẳng thành tựu được việc gì cả… Biết lấy đạo hợp quần mà thờ song thân gọi là hiếu, biết lấy đạo hợp quần mà trọng đàn anh, gọi là đễ, biết lấy đạo hợp quần mà kính bề trên, gọi là thuận, biết lấy đạo hợp quần mà xử kẻ dưới, gọi là chúa. Người làm chúa phải giỏi đạo hợp quần, đạo hợp quần tốt, là tất cả mọi sự vật đều được giải quyết một cách thỏa đáng]. Đoạn văn này của Tuân Tử gồm có bốn điểm chánh sau đây:[1] Hợp quần là một trong những đặc tính của loài người. Nói khác đi, con người là loài động vật có đặc tính xã hội, nhờ vậy mới ưu việt hơn các loài động vật khác.[2] Hợp quần tốt, là một phương thức giải quyết được các vấn đề phân tranh trong xã hội.[3] Hợp quần cũng là một phương cách, tiến hành sự việc chung trong xã hội, và mọi người đều có vị trí cùng quyền lợi tương xứng.[4] Tuân Tử muốn lấy đạo hợp quần thay thế cho giá trị cũ của đạo hiếu đễ. Nghĩa là, một khi con người ta đã góp phần cống hiến thích đáng cho xã hội, thì kể như đã làm tròn bổn phận trong đạo Hiếu và Để rồi.3/- Bình đẳng: Khổng Tử từng chủ trương bình đẳng về kinh tế, như câu: “Bất hoạn quả nhi hoạn bất quân”. [Chẳng lo ít, chỉ lo chia không đều], nhưng tư tưởng bình đẳng của Tuân Tử thì hướng về địa vị xã hội nhiều hơn.Bởi vì đưa ra chủ trương bình đẳng về kinh tế, trong lúc xã hội cổ Trung Quốc còn rất nghèo nàn về điều kiện vật chất, xét ra chẳng có ý nghĩa gì cho lắm. Trái lại, ý thức bình đẳng về địa vị xã hội, mới đúng là một đòn đả kích mạnh, nhắm vào chếđộ phong kiến, một thể chế chính trị bất hợp lý của tầng lớp quý tộc. Riêng về điểm này, Tuân Tử đã nói rất rõ: “Tuy vương, công, sĩ đại phu chi tử tôn, bất năng thuộc ư lễ nghĩa, tắc quy chi thứ nhân; tuy thứ nhân chi tử tôn giã, tích văn học, chánh thân hạnh, năng thuộc ư lễ nghĩa, tắc quy chi khanh tướng, sĩ đại phu’. [Dù là con cháu của bậc vương công, sĩ đại phu chăng nữa, nếu chẳng vào khuôn phép Lễ Nghĩa, thì nên đánh xuống hạng thường dân; tuy là con cháu của thường dân, giá như có học thức cao, hạnh kiểm tốt, thuộc vào khuôn phép Lễ Nghĩa, thì nên nâng lên hàng khanh tướng, sĩ đại phu].Tuân Tử có thể kết luận là, một triết gia theo chủ nghĩa nhân bản. Ở Trung Quốc, Khổng Tử là người khởi xướng chủ nghĩa nhân bản, nhưng so sánh ra thì, chủ nghĩa nhân bản của Tuân Tử có nhiều tiến bộ hơn. Một là, tuy Tuân Tử cũng nhiệt tình với nền văn hóa truyền thống, nhưng không có ý phục cổ, trái lại, còn rất mạnh dạn phê bình người xưa. Ngoài Khổng Tử ra, ít có nhân vật tiêu biểu nào trong các học phái thời Chu Tần, thoát khỏi lời phê bình của Tuân Tử, kể cả Mạnh Tử và Tử Tư. Tuy nhiên, khi phê bình, Tuân Tử luôn luôn đứng vào cương vị học thuật để đánh giá tư tưởng của người khác. Hai là, Tuân Tử chú trọng thực tiễn hơn là lý thuyết suông, cho nên luôn luôn nhấn mạnh vấn đề chính trị xã hội, gạt bỏ mọi ý tưởng than thoại ảo huyền, theo đuổi lý tưởng giải phóng con người. Đáng liếc là, lừ đời Chu Tần trở đi, xã hội Trung Quốc vẫn là xã hội nặng về truyền thống, chính trị Trung Quốc vẫn là chính trị chuyên chếvua quan, thiếu các chất tố dân chủ khoa học như trong xã hội Tây phương, rút cuộc phong trào nhân văn, mà các triết gia thời Chu Tần đã khởi xướng trước đây trên hai ngàn năm, bị mai một từ đời nọ qua đời kia.

Trên đây Trung tâm tiếng trung THANHMAIHSK đã giới thiệu tới các bạn bài viết: “Tuân Tử – Nhà nho, nhà tư tưởng Trung Quốc”. Hi vọng bài viết sẽ giúp ích phần nào cho bạn am hiểu hơn về tiếng trung cũng như các học tiếng Trung hiệu quả.

Xem thêm:

Mục từ này về nhân vật Mạnh Tử. Về tác phẩm kinh điển Mạnh Tử, xem Mạnh Tử [sách].

Mạnh Tử [chữ Hán: 孟子; bính âm: Mèng Zǐ] [372 TCN – 289 TCN] là triết gia Nho giáo Trung Quốc và là người tiếp nối Khổng Tử. Ông được xem là ông tổ thứ hai của Nho giáo và được hậu thế tôn làm "Á thánh Mạnh Tử" [chỉ đứng sau Khổng Tử].

Mạnh Tử
孟子

Hình vẽ minh họa Mạnh Tử trong album "Half Portrait of the Great Sage and Virtuous Men of Old", đặt ở Bảo tàng Cố cung Quốc gia

Sinh372 TCN
Nước TrâuMất289 TCNThời kỳTriết học cổ đạiVùngTriết học Trung QuốcTrường pháiNho giáo

Đối tượng chính

Luân lý học, Triết học xã hội, Triết học chính trị

Tư tưởng nổi bật

Triết lý Nho giáo

Ảnh hưởng bởi

  • Khổng Tử

Có ảnh hưởng tới

  • Các triết gia phương Đông sau này

Họ [姓]: Cơ [chữ Hán: 姬; bính âm: Jī] Thị [氏]: Mạnh [Ht: 孟; Bâ: Mèng][1]Danh [名]: Kha [Ht: 軻; Bâ: Kē] Tự [字]: không rõ[2]Thụy [謚]: Mạnh Tử á thánh[3] [Ht: 亞聖孟子; Bâ: Yàshèng Mèngzǐ] Thường gọi: Mạnh Tử[4] [Ht: 孟子; Bâ: Mèngzǐ]

Mạnh Tử, từ cuốn ''Myths and Legends of China'', 1922 của E. T. C. Werner

Mạnh Tử, tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt Vương, nhà Chu, quê gốc ở đất Trâu, nay là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông mồ côi cha, chịu sự nuôi dạy nghiêm túc của mẹ là Chương thị [người đàn bà họ Chương]. Chương thị sau này được biết tới với cái tên Mạnh mẫu [mẹ của Mạnh Tử]. Mạnh mẫu đã ba lần chuyển nhà để Mạnh Tử được ở trong môi trường xã hội tốt nhất cho việc học tập, tu dưỡng. Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của Tử Tư, tức là Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử. Vì vậy, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng Khổng giáo.

Mạnh Tử là đại biểu xuất sắc của Nho giáo thời Chiến Quốc, thời kỳ nở rộ hàng trăm trường phái tư tưởng lớn như Pháp gia, Nho gia, Mặc gia. Trong hoàn cảnh lịch sử đó, Mạnh Tử phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử với chủ trương dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh, ông cũng là người đưa ra thuyết tính thiện của con người rằng con người sinh ra đã là thiện rồi nhân chi sơ tính bản thiện, đối lập với tư tưởng của Tuân Tử rằng nhân chi sơ tính bản ác. Ông cho rằng "kẻ lao tâm trị người còn người lao lực thì bị người trị". Ông đem học thuyết của mình đi truyền bá đến vua chúa các nước chư hầu như Tề Tuyên Vương [nước Tề], Đằng Văn Công [nước Đằng], Lương Huệ vương [nước Nguỵ] nhưng không được trọng dụng. Về cuối đời, ông dạy học và viết sách. Sách Mạnh Tử của ông là một trong những cuốn sách đặc biệt quan trọng của Nho giáo.

Mạnh Tử đề xuất tư tưởng người quân tử phải có "Hạo nhiên chính khí", cần "Lấy Đức thu phục người khác", "Người nhân từ khắp thiên hạ không có kẻ thù nào".

Mạnh Tử cho rằng bản tính của con người lúc ban đầu là Thiện, Đức của một người là quà tặng của thiên thượng [Trời], và được liên thông với thiên thượng. Ông tin rằng bản chất của con người là tốt, và nếu một người thủ đức và nỗ lực tu thân, anh ta có thể trở thành người giống như các vị vua Nghiêu, vua Thuấn. Mạnh Tử chỉ ra rằng để trở thành một con người có lý niệm, người đó cần phải giữ được 4 tiêu chuẩn, "lòng trắc ẩn, thuộc về lòng nhân từ; sự hổ thẹn, thuộc về nghĩa khí; tâm khiêm nhường, thuộc về lễ nghi; tâm thị phi, thuộc về trí tuệ" [trích từ "Cuốn đầu tay của Công Tôn Sửu" trong ‘các tác phẩm của Mạnh Tử’]. Bốn đặc tính của con người này cùng các hành vi tương ứng của họ trở thành nền tảng tạo thành bốn đức tính của lòng nhân từ, nghĩa khí, lễ nghi, và trí tuệ.[5]

Mạnh tử cả đời vững tin vào chân lý, có trí tuệ dồi dào, giỏi trình bày và phân tích lý luận triết học. Ông kiên định khích lệ người ta làm điều thiện, lời nói nào cũng có tinh thần cổ vũ và dẫn dắt người ta.

  1. "Nhân tâm nhất tân" [Lòng của người, một mới] - Mạnh Tử viết: Nhân, nhân tâm dã; nghĩa, nhân lộ dã [仁人心也、義人路也], nghĩa là 'Nhân' [yêu người], ấy là lòng của người; 'nghĩa' [lẽ phải chăng] ấy là đường để làm người.
  2. "Vương đạo lạc thổ" [Đường vua, đất vui] - Mạnh Tử viết: Dưỡng sinh táng tử vô hám, vương đạo chi thủy dã [養生喪死無憾、王道之始也], nghĩa là "Nuôi sự sống, mất sự chết, đừng tiếc, ấy là bắt đầu của Vương đạo".
  3. "Quân tử tam lạc" [Quân tử, ba vui] - Mạnh Tử viết trong sách "Tận Tâm - Thượng [盡心上]": Phụ mẫu câu tồn, huynh đệ vô cố, nhất lạc dã. Ngưỡng bất quý ư thiên, phủ bất tạc ư nhân, nhị lạc dã. Đắc thiên hạ anh tài nhi giáo dục chi, tam lạc dã [父母俱存、兄弟無故、一樂也。 仰不愧於天、俯不怍於人、二樂也。 得天下英才而教育之、三樂也], nghĩa là "Cha mẹ đều còn, anh em không bị gì, ấy là vui thứ nhất. Ngửa mặt lên trời mà không hổ, cúi đầu đối với người mà không thẹn, ấy là vui thứ nhì. Được và dạy anh tài trong thiên hạ, ấy là vui thứ ba".
  4. "Nhất thiên vạn thặng" [Một trời, muôn xe] - Thầy Mạnh khuyên: Thị thích vạn thặng chi quân, nhược thích hạt phu [視刺萬乘之君、若刺褐夫] nghĩa là "Giết một ông vua có vạn cỗ xe thì cũng không khác việc giết một kẻ thường dân [làm nhục mình]".
  • Tứ Thư
  • Ngũ Kinh
  • Đại học
  • Luận Ngữ
  • Khổng Tử
  • Nho giáo

  1. ^ Tên thị tộc ban đầu là Mạnh Tôn [孟孫], gọi tắt thành Mạnh [孟]. Không rõ việc này xảy ra trước hay sau khi Mạnh Tử qua đời.
  2. ^ Theo truyền thống, tên tự của ông là Tử Xa [子車], đôi lúc viết sai thành Tử Dư [子輿] hay Tử Cư [子居], tuy nhiên theo các công trình nghiên cứu gần đây thì các tên tự này đã xuất hiện vào thế kỷ thứ III và chỉ một nhân vật lịch sử khác tên là Mạnh Kha cũng sông vào thời cổ đại Trung Quốc và bị nhầm với Mạnh Tử.
  3. ^ Nghĩa là, vị thánh sau Khổng Tử. Hiệu do Minh Thế Tông đặt vào năm 1530. Hai thế kỷ trước năm 1530, thì thụy hiệu của Mạnh Tử là "Trâu quốc á thánh công" [鄒國亞聖公], hiệu này vẫn còn thấy trên đền thời tổ tiên Mạnh Tử tại Trâu Thành.
  4. ^ Latinh hóa thành Mencius.
  5. ^ “Những quan niệm của một con người chính trực”. www.minhhue.net. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2014.

Wikisource có văn bản gốc liên quan đến bài viết:

Sách "Mạnh Tử" [bằng tiếng Trung]

  Bài viết tiểu sử nhân vật Trung Quốc này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Mạnh Tử.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Mạnh_Tử&oldid=67780985”

Video liên quan

Chủ Đề